Lục Tiệm đem theo Từ Hải tiến vào đường hầm, Trầm Tú theo sau. Diêu Tình vừa định vào theo thì chợt thấy Cốc Chẩn dập tắt hết toàn bộ đèn đuốc trong đại sảnh, bất giác tỉnh ngộ: “Đúng rồi, trong đường hầm tất có cơ quan để chuyển hình đầu thú về hồi phục cơ quan. Nếu không ai dập tắt đèn đuốc thì Oa khấu phá của xong, những kẻ thông minh dựa vào chỗ sơ hở có thể nhìn ra bí ẩn bên trong. Chỉ có cách dập tắt hết ánh sáng thì mới có thể khiến đám tặc khấu đó không đoán ra.”
Nghĩ đến đó thì rất hận bản thân mình lúc nào cũng nghĩ ra sau hắn, liền không kìm được thầm mắng một tiếng: “Xú hồ ly” rồi mới hậm hực tiến vào đường hầm. Cốc Chẩn cũng tiến vào sau, lối vào tuy nhỏ nhưng vào trong rộng dần ra. Cốc Chẩn sờ mó một lúc đã tìm ra được một cái vòng sắt, xoay bốn vòng liền nghe tiếng ken két rồi khối đá lớn đó lại lấp vào chỗ cũ.
- Cốc huynh lợi hại. – Trầm Tú đột nhiên âm trầm nói – Trầm mỗ dù không muốn bội phục cũng khó.
Cốc Chẩn nghe trong lời nói của hắn có sự thù hận liền cười nói:
- Không biết thương thế của Trầm huynh thế nào, có cần tiểu đệ dìu đỡ nữa không?
- Không dám để Cốc huynh phí lực. – Trầm Tú lạnh nhạt nói – Trầm mỗ khá hơn nhiều rồi.
Trải qua việc này, hắn vô cùng úy kỵ với Cốc Chẩn, chỉ sợ y mượn việc dìu đỡ để ám hại mình nên đành nhịn đau tự đi lấy.
Cốc Chẩn lại càng nhẹ nhàng nhàn rỗi, đi bên cạnh hắn, vừa đi vừa suy nghĩ, hỏi han chỗ chân tay bị thương của Trầm Tú. Trầm Tú lúc này rơi vào thế yếu, ngoài mặt chỉ cười nhạt, trong lòng thì lại âm thầm cay độc: “Tiểu tử thối, đợi lên tới mặt đất sẽ cho ngươi biết ông nội đây lợi hại thế nào.”
Cứ đến lối rẽ lại tìm mốc chỉ đường như vậy, mọi người đi trong mê cung hết nửa giờ thì đột nhiên bị một bức tường chặn lối.
Diêu Tình vừa định tìm mốc chỉ đường thì đột nhiên thét lên một tiếng, cây nến rơi xuống đất, đường hầm trở nên tối đen. Lục Tiệm, Trầm Tú đồng thanh nói:
- Sao thế?
Diêu Tình toàn thân run bần bật, nói không ra lời.
Cốc Chẩn cúi người sờ tìm cây nến đốt lên lại rồi đưa mắt nhìn tới thì thấy góc tường phảng phất có một cái xác người, chắc là chết đã lâu nên đã biến thành một bộ xương khô, mới liếc mắt nhìn thấy thì quả thật khiếp người.
Cốc Chẩn quay đầu lại, thấy Diêu Tình mặt trắng bệch, sự khiếp sợ trong ánh mắt còn chưa tan hết, bất giác cười nói:
- Đại mỹ nhân cũng có lúc khiếp sợ sao? Ha ha, tuyệt lắm, tuyệt lắm.
Diêu Tình nghiến răng nói:
- Xú, xú hồ ly, muốn, muốn chết ư?
Ngoài miệng tuy cứng cỏi nhưng thực ra vẫn đang khiếp sợ, hai chân run lên từng hồi cơ hồ không đứng vững.
Cốc Chẩn cười lên mấy tiếng rồi đột nhiên ngừng lại, nhìn bộ xương khô đó có vẻ kinh hãi. Lục Tiệm cũng ngạc nhiên nói:
- Người này tại sao lại chết ở đây?
Cốc Chẩn cúi người xuống nhặt lên một mảnh áo của bộ xương khô, chợt nói:
- Mảnh áo này là của hoàng gia.
Mọi người nghe vậy đều kinh hãi, Cốc Chẩn đưa mảnh áo đó lên nói:
- Các ngươi nhìn xem, mảnh áo này vốn là màu vàng tươi, có thể nói không chỉ là vật của hoàng gia mà còn là quần áo hoàng đế thường dùng.
Mọi người càng kinh hãi, Lục Tiệm nói:
- Chẳng lẽ ông ta là hoàng đế?
Cốc Chẩn không đáp, đưa tay dò tìm trên bộ xương khô một lúc, tìm được một cái túi màu vàng, lúc mở ra chỉ thấy một cái ấn ngọc, quai hình rồng, góc bịt vàng, trong suốt đẹp đẽ, bị ánh lửa chiếu vào liền phát ra hào quang khắp đường hầm.
Cốc Chẩn đảo ngược ấn, chữ trên chân ấn là chữ triện, bất giác đọc ra:
- Thụ mệnh vu thiên, kí thọ vĩnh xương… (Chịu lệnh của trời, sống lâu thịnh vượng – đây là dòng chữ thừa tướng Lý Tư đời Tần Thủy Hoàng khắc lên ngọc tỷ truyền quốc).
Đọc đến đó, hắn đột nhiên im bặt, lộ ra vẻ chấn động, lại nhìn lại cái túi đó thì là một cái bao toàn màu vàng, bề mặt nhăn nhúm, có mấy chữ màu đen: “Nghịch thúc soán quốc, ác nô bội chủ, phục tích vô vọng, thiên thu hữu hận, khả hận, khả hận,…” (Chú ruột phản nghịch cướp nước, gia thần phản bội chủ nhân, không còn hy vọng phục hồi, ôm hận nghìn thu, đáng hận, đáng hận…) Sáu chữ “đáng hận” liên tiếp nhau, lúc đầu thì còn rõ ràng, dần dần nét chữ tán loạn, viết đến cuối cùng thì gần như không còn nhìn ra được chữ nữa.
Lục Tiệm không kìm được, nói:
- Đó là cái gì?
Cốc Chẩn thở dài nói:
- Đó là một bức huyết thư, người này trước khi chết đã viết ra, vì đã lâu năm nên máu biến thành màu đen rồi.
Lục Tiệm nói:
- Người này cuối cùng là ai? Tại sao lại chết ở đây?
Cốc Chẩn nói:
- Di thư này đã nói rất rõ ràng, ông ta vốn là một vị hoàng đế, nhưng gặp chú ruột phản bội, đoạt lấy giang sơn của ông ta, sau đó thủ hạ của ông ta cũng phản bội, muốn hại ông ta. Trước lúc chết ông ta đã chạy trốn đến đây rồi cô độc chết đi.
Lục Tiệm kinh hãi nói:
- Có hoàng đế xúi quẩy như vậy ư?
- Có chứ. – Trầm Tú lạnh nhạt tiếp lời – Cháu nội của Chu Nguyên Chương là Kiến Văn hoàng đế Chu Doãn Văn lúc tại vị thì chú của ông ta là Yến vương Chu Lệ tạo phản, đánh vào Nam Kinh chiếm ngôi vua của ông ta, sau đó cung thành bị đốt cháy, vị Kiến Văn Đế đó không biết thất lạc ở đâu…
Nói đến đó, hắn ngưng thần nhìn cái ngọc ấn trên tay Cốc Chẩn, liên tục phát ra ánh mắt kỳ lạ.
Cốc Chẩn lại mở long bào, nói:
- Trước khi ông ta tới nơi này đã bị trọng thương.
Mọi người định thần nhìn tới, chỉ thấy ngực trái của bộ xương khô đó có bốn xương sườn bị gãy cắm vào bên trong. Trầm Tú nói:
- Đó là vết thương của Thiết Sa chưởng.
Mọi người trong lòng đều có cảm xúc, đường hầm nhất thời trở nên im ắng, không khí âm sâm tràn đầy trong đường hầm khiến người ta dựng cả tóc gáy.
Qua một lúc, Cốc Chẩn đột nhiên phá vỡ im lặng:
- Ông ta bị thương như vậy thì không cách nào đi xa được, lối ra của đường hầm này tất không xa ông ta đâu.
Hắn nhìn xung quanh nhưng không thấy dấu hiệu gì, trong lòng nghi hoặc ngưng thần nhìn thi thể đó, đột nhiên vòng tay nói:
- Hoàng đế lão ca, đắc tội, đắc tội.
Nói xong cúi người kéo hài cốt đó ra, góc tường dưới hài cốt quả nhiên lộ ra một cái vòng sắt.
Cốc Chẩn cầm vòng sắt kéo về phía sau, kéo ra được ba thốn thì nghe tiếng ầm ầm nổi lên rồi bức tường bên trái chuyển động, lộ ra một cánh cửa. Một luồng uế khí liền ập vào, mọi người vội vàng lùi lại mấy bước, đợi uế khí tiêu tán rồi mới đi vào bên trong.
Cốc Chẩn giơ nến soi đường, đột nhiên nói:
- Cẩn thận.
Mọi người nhìn tới thì trong cửa là một đoạn đường hầm, nhưng trên tường dưới đất đều cắm đầy mũi tên, gần cửa có một bộ hài cốt đang nằm, áo gấm giày mũi, trên người còn lộ ra mấy đầu mũi tên, trong tay nắm chặt một cuộn giấy.
Cốc Chẩn lấy cuộn giấy đó, không ngờ người chết nắm rất chặt, dùng lực một chút thì mấy tiếng răng rắc vang lên, năm đốt xương tay trắng hếu đã rơi xuống đất. Cốc Chẩn cười nói:
- Tội quá, tội quá.
Rồi mở cuộn giấy ra xem, khóe miệng hiện lên nụ cười.
Lục Tiệm hiếu kỳ nói:
- Viết gì vậy?
Cốc Chẩn nói:
- Đây là chiếu thư truyền quốc Chu Nguyên Chương viết cho cháu nội là Kiến Văn Đế.
Lục Tiệm nói:
- Có hữu dụng không?
- Rất rất hữu hụng. – Trầm Tú tiếp lời nói – Có đạo chiếu thư này là đủ để chứng minh Kiến Văn hoàng đế là chính thống, Thành Tổ hoàng đế là phản nghịch, vì vậy các hoàng đế Đại Minh tiếp nối Thành Tổ hoàng đế đều là kẻ phản nghịch cướp ngôi, không được quyền cai quản thiên hạ.
Lục Tiệm nghe mà kinh hãi, nhưng lại thấy Cốc Chẩn cười nói:
- Đó chẳng qua là nói miệng thôi. Chu lệ cho dù phản nghịch nhưng chiếu thư này trải qua bao năm, cuối cùng cũng chỉ là một vật chết, sao có thể so được với trăm vạn quân ủng hộ thiên tử đương thời. Những năm đó ai có binh mã thì người đó làm hoàng đế.
Trầm Tú hừ lạnh một tiếng, nói:
- Nếu thật như vậy thì vì sao Thành Tổ hoàng đế phải buộc Tam Bảo thái giám bảy lần tới Tây Dương để tìm tung tích của Kiến Văn hoàng đế? Phải ra công mất sức như vậy chẳng phải vì chiếu thư truyền quốc và ngọc tỷ truyền quốc kia sao?
- Bớt nói bừa đi, đừng tưởng ta chưa nhìn thấy, ngọc tỷ truyền quốc đó đang ở trong tay áo ngươi.
Cốc Chẩn cười cười, không hề phủ nhận, lại kiểm tra thi hài đó, tìm ra một tấm kim bài làm bằng gỗ tử đàn, trên đó viết: “Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ, thái tử thiếu bảo, Trung Thành bá Trương”.
Cốc Chẩn bất giác cười nói:
- Tên thủ hạ phản chủ này lại là một viên quan lớn đây.
Mọi người thấy tình hình đó đều hiểu rõ ràng, nghĩ tới năm xưa thành phá nước mất, Kiến Văn Đế đem theo thị vệ thân tín định theo đường hầm bí mật này trốn khỏi cung thành, không ngờ tên thủ hạ phản bội này lâm trận thay đổi chủ ý, mưu đồ phản nghịch, muốn bắt Kiến Văn hoàng đế giao cho Chu Lệ. Nhất thời vị hoàng đế yếu đuối và tên thị vệ tấm lòng phản trắc đã đả đấu trong đường hầm tối tăm này, cuối cùng kẻ phản nghịch bị cơ quan trong đường hầm đả thưuơng, nhưng Kiến Văn Đế cũng trúng một chưởng, tuy cố gắng phát động cơ quan ngăn kẻ phản nghịch phía sau nhưng cuối cùng thương thế quá nặng, chết một cách thê lương.
Nghĩ đến sự kinh hiểm thảm liệt lúc đó, mọi người không khỏi thương cảm, chỉ có Diêu Tình nhìn thấy xác chết thì lại nghĩ đến những sự việc đã qua, vô cùng phiền muộn liền hối thúc:
- Bất kể là hoàng đế hay nô tài, đã là người chết thì có gì hay mà nhìn, còn không mau đi thôi?
Lục Tiệm nói:
- Nhưng mấy thi thể này xử lý thế nào?
Cốc Chẩn nói:
- Đế vương cũng được, phản nghịch cũng xong, một khi đã chết đều biến thành xương trắng. Mê cung này quy mô rộng lớn, không thua gì mộ của vua chúa, để làm phần mộ cho bọn họ cũng thích hợp.
Liền cầm nến đi tiếp, Diêu Tình chỉ sợ còn có thi hài nên không dám tranh đi trước với hắn.
Đi tiếp như vậy một lúc thì chợt có cầu thang bằng đá hướng lên gần như thẳng đứng. Đi được ba mươi bước thì chạm phải trần động, Cốc Chẩn tìm được một cái then thô ráp to bằng cánh tay, đẩy lên thì trần động cũng mở ra, gió lùa vào mang theo không khí trong lành. Cốc Chẩn ngửng đầu nhìn lên thấy bầu trời thênh thang, tinh tú sáng ngời, trong lòng không kìm được trào lên hào khí vô biên.
Mọi người ra khỏi đường hầm bí mật, trừ Từ Hải thì ai cũng có ít nhiều vẻ vui mừng. Chỉ thấy xung quanh hoa cỏ ngập tràn, cây lay bóng động, xa xa cung điện chập chùng, tạo nên bóng đen trải dài dưới ánh trăng. Lục Tiệm không nhẫn nại được nói:
- Đây là chỗ nào?
Cốc Chẩn nói:
- Đây là cung thành cũ của Nam Kinh.
Lục Tiệm cả kinh, Diêu Tình cũng nhíu mày liễu, Trầm Tú thì cười hắc hắc nói:
- Hay lắm, chỉ cần kêu lên một tiếng là mọi người đều mất mạng.
Cốc Chẩn liếc hắn một cái, cười nói:
- Vậy sao ngươi không thử xem.
Trầm Tú hừ một tiếng, ánh mắt vô cùng thâm trầm.
Cốc Chẩn quay người lại, nhìn cửa lối ra kia, lắc đầu nói:
- Có câu: “Sáng suốt trông xa ngàn dặm nhưng không thể nhìn thấy việc ngay trước mắt, ánh nến chiếu khắp thiên hạ nhưng không soi sáng được dưới chân nến.” Chu Lệ vì tìm kiếm Kiến Văn Đế mà đã tìm khắp Trung Quốc, bảy lần tới Tây Dương nhưng không ngờ rằng kẻ đối đầu này lại nghiễm nhiên nằm dưới lòng đất thành Nam Kinh.
Nói đến đó, hắn ngừng lại một chút rồi lại nói:
- Đường hầm bí mật này là Chu Nguyên Chương lúc tu sửa Nam Kinh xây dựng nên, đáng tiếc ông ta không phải dùng đến mà lại phải dùng cho cháu nội của mình.
Nói xong đẩy móc đá chặn cửa động, dưới móc đá có cơ quan, móc vừa khớp lại thì then sắt cũng rút vào bên trong.
Lối ra nằm trong Ngự hoa viên, màn đêm tối đen, không thấy bóng người, chỉ có tiếng côn trùng rả rích từng hồi khiến người ta cảm thấy vui vẻ. Diêu Tình thấy Cốc Chẩn đóng lối vào đường hầm bí mật liền hỏi:
- Xú hồ ly, hiện giờ làm gì?
Cốc Chẩn nói:
- Cung thành này rất rộng lớn, chi bằng chúng ta tìm một chỗ cung điện vắng vẻ, ăn no ngủ đủ, trốn tránh vài ngày.
Diêu Tình lắc đầu nói:
- Thuật truy lùng của Tả Phi Khanh vô cùng đáng sợ, ở lâu một chỗ tất bị y tìm ra. Trong bảy ngày này ta muốn rời Nam Kinh, chạy càng xa càng tốt.
Trầm Tú đột nhiên cười nói:
- Nói như vậy, ta có một diệu kế “Nước đục mò cá”. Trước sáng sớm hôm nay, thành Nam Kinh sẽ có một trận đại chiến, lợi dụng lúc hỗn loạn sư muội có thể lẩn qua Phong Quân Hầu, dễ dàng rời khỏi Nam Kinh.
Diêu Tình ngạc nhiên nói:
- Đại chiến gì?
Trầm Tú nhìn Từ Hải nhếch mép cười nói:
- Hắn và Uông Trực đã ước hẹn trong ngoài phối hợp để tấn công Nam Kinh, nhưng không ngờ gia phụ đã lường trước, tương kế tự kế muốn đem đám Oa khấu một mẻ lưới vét sạch.
Diêu Tình mắt đẹp sáng lên, hỏi:
- Lúc nào?
Trầm Tú nhìn sắc trời, cười nói:
- Nhanh thôi, vào giờ Dần.
Diêu Tình vui mừng lộ ra ngoài mặt, nói:
- Hay lắm, vậy đi thôi.
Nói xong ngưng thần nhìn Lục Tiệm. Lục Tiệm còn chưa kịp do dự, Cốc Chẩn đã cười nói:
- Mời hai vị, chúng ta chia tay ở đây, tha lỗi không tiễn.
Diêu Tình thấy Lục Tiệm lộ vẻ khó khăn thì trong mắt thoáng qua vẻ tức giận, mím môi son quay người bỏ đi. Trầm Tú nhìn Cốc Chẩn cười hắc hắc, âm trầm nói:
- Kẻ thất phu vô tội nhưng cầm ngọc vào biến thành có tội. Cốc huynh nhớ cẩn thận nhé.
Nói xong co chân bị thương lên, lò cò nhảy theo sau Diêu Tình. Bỗng nghe Cốc Chẩn phía sau lưng cười nói:
- Lục Tiệm, ngươi nhìn xem, hắn nhảy lên nhảy xuống có giống con cóc không?
Lục Tiệm nói:
- Nói ra như vậy, quả thật thấy giống như vậy, nhưng đẹp hơn cóc nhảy.
Trầm Tú vô cùng tức giận, trong lòng nghĩ ra mười loại cực hình để đem hai người tra tấn dần dần đến chết. Hắn vừa tưởng tượng vừa nghiến răng, Diêu Tình lại ngại hắn quá chậm chạp, liền đỡ tay hắn chạy như bay, tránh qua cảnh vệ trong cung đi tới một bức tường cung điện. Diêu Tình trồng xuống “Nghiệt nhân tử”, sinh ra một cái rễ dài. Hai người theo rễ leo qua đầu tường rồi dựa theo dòng nước rời khỏi cung thành. Diêu Tình đột nhiên cười nói:
- Trầm sư huynh, từ biệt được rồi chứ?
Trầm Tú cả kinh, vội nói:
- Sư muội nói gì vậy, ta rời sự muội thì còn biết đi đâu?
Diêu Tình nhìn hắn, đôi mắt trong như nước câu hồn đoạt phách, nhẹ cười nói:
- Sư huynh không nên cứng đầu, quay về nhà trị thương là cần thiết, nếu không thật sự biến thành tên què thì Trầm sư bá chẳng phải đau lòng sao?
Nói xong quay người định bỏ đi. Trầm Tú không chịu bỏ cuộc, kêu lên:
- Sư muội chậm hẵng đi…
Diêu Tình ứng tiếng quay đầu, chớp mắt cười nói:
- Đúng rồi, còn có một việc quên không nói.
Trong lòng Trầm Tú nổi lên một tia hy vọng, vội cười nói:
- Hảo sư muội, ta biết rồi, là muội không đành lòng rời xa ta phải không?
Diêu Tình cười hi hi, lắc đầu nói:
- Sư huynh đã què chân như vậy thì lần này cho dù ta đến đâu ngươi cũng không thể bám theo được nữa rồi.
Nói xong đưa ngọc thủ vẫy vẫy với hắn rồi làm mặt quỷ, sau đó triển khai thân pháp biến vào trong bóng đêm mênh mông.
Trầm Tú nhìn theo bóng dáng cô, trong lòng vừa yêu vừa hận, buồn bực thất vọng, bất giác nghiến răng nói:
- Tiểu yêu tinh này, ngày nào rơi vào tay thiếu gia, xem ta dạy dỗ ngươi thế nào.
Nói xong, miệng vết thương lại đau nhói, thầm nghĩ: “Tiểu yêu tinh nói đúng, trước mắt trị thương là quan trọng.” Lập tức tập tễnh đi về phía Tổng đốc phủ.
Đợi Trầm Tú đi xa, từ trong bóng đen của cùng thành có hai người chậm rãi bước ra, chính là Lục Tiệm và Cốc Chẩn. Lục Tiệm vừa kinh ngạc vừa vui mừng:
- Cốc Chẩn, lại bị ngươi đoán trúng rồi, sao ngươi biết A Tình sẽ rời bỏ Trầm Tú?
Cốc Chẩn cười nói:
- Dựa vào ánh mắt cô ta nhìn ngươi, nếu ta đoán không sai thì người mà Diêu Tình thích là ngươi chứ không phải Trầm Tú.
Lục Tiệm ngẩn người, nói vẻ không tin:
- Ngươi nói cô ta thích ta ư?
Cốc Chẩn nói:
- Vừa rồi cô ta hỏi ngươi, rõ ràng là muốn ngươi đi cùng cô ta, vì vậy ta liền muốn thử cô ta một chút. Nếu cô ta thích Trầm Tú thì sau khi rời khỏi cung thành tất sẽ đi cùng với hắn, loại nữ nhân bạc bẽo như nước đó thì chẳng nên nhìn tới làm gì. Còn nếu cô ta thích ngươi thì sẽ không chịu để Trầm Tú bám chặt lấy đâu.
Lục Tiệm nhìn hắn, lộ ra vẻ cổ quái. Cốc Chẩn đẩy y một cái, cười nói:
- Nhìn ta làm gì? Còn không đuổi theo cô ta?
Lục Tiệm nói:
- Nhưng, nhưng…
- Nhưng Hắc Thiên Kiếp phải không? – Cốc Chẩn nói – Không cần vội vàng, ta đã bắt được Từ Hải thì oan khuất không lâu sẽ có thể rửa sạch. Sau đó ta sẽ xin cha ta phong bế ẩn mạch của ngươi. Huynh đệ tốt, đừng bắt ta theo đuổi Diêu Tình nữa, ngươi không biết đấy thôi, lão hổ cái nhà ta mà ra uy thì cho dù là thần phật trên trời cũng phải cuốn gói chạy dài.
- Lão hổ cái nhà ngươi?
Lục Tiệm lộ vẻ kinh ngạc. Cốc Chẩn cười nói:
- Ngươi chẳng phải đã tiếp qua ám khí của cô ấy sao?
Lục Tiệm tỉnh ngộ nói:
- Là vị cô nương đó ư, cô ta là…
Cốc Chẩn tiếp lời nói:
- Là cô gái đã hứa gả cho ta.
Hắn nghĩ đến oan khuất có thể rửa sạch liền sung sướng không kể xiết, nhấc Từ Hải lên cười nói:
- Ta muốn đi thẩm vấn thằng cha này. Nếu ngươi muốn tìm ta thì đến ngõ Thương Ba ở phía đông thành, nhà thứ hai bên trái.
Nói xong ha ha cười lớn, tay áo phất phơ, đầu đội trăng sao, chân bước ung dung đi mất.
Lục Tiệm bị lời hắn nói vừa rồi khiến cho tâm thần bất an, nhưng lo cho an nguy của Diêu Tình nên lập tức rảo bước đuổi theo.
Y chạy được một lúc nhưng không thấy ai, trong lòng khẩn cấp liền thi triển thuật Khiêu Ma, nhảy lên nóc một căn nhà nhìn ra xa, xuyên qua một dãy phòng ốc, chợt thấy đằng xa như có ánh lửa bốc lên. Lục Tiệm cả kinh:
- Hỏa hoạn rồi ư?
Y vừa thấy tai nạn liền quên mất cả bản thân mình, lập tức đạp mái ngói chạy tới, còn chưa đến gần đã nghe tiếng đao kiếm va chạm, kêu giết vang trời. Lục Tiệm nép xuống nhìn qua thì phía trước chính là “La trạch”, hơn hai trăm tên Oa khấu mình mặc áo giáp, tay cầm đao thương, đang huyết chiến trong ngõ với mấy trăm tên quân Minh.
Đám Oa khấu bị ép tới nước này đều là vì tình thế bức bách. Vừa rồi khó khăn lắm mới phá được cửa sắt, công nhập vào tòa sảnh bằng đá, ai ngờ chẳng thấy một ai, đám tặc khấu nghi thần nghi quỷ đều sợ sệt. Hoàn Trung Khuyết không nghĩ ra cách gì, liền trước hết cứu tỉnh Trần Tử Đan. Trần Tử Đan là kẻ có trí kế, đoán ra trong sảnh tất có đường hầm, có điều hắn tuy thông minh nhưng hiểu biết không đủ để tìm ra cơ quan. Mắt thấy thời điểm khởi sự đã tới gần, địch nhân lại theo đường hầm bí mật tẩu thoát, nếu cứ chần chừ thì tất biến thành mồi ngon, toàn quân bị tiêu diệt. Vì vậy lập tức hạ lệnh cho hai trăm quân Oa khấu ra khỏi giếng, từ La trạch đánh giết ra ngoài.
Trầm Chu Hư tuy không tìm ra đường hầm bí mật nhưng đoán ra sào huyệt của Oa khấu chỉ ở gần đó, vì vậy đã đặt phục binh. Oa khấu vừa xuất hiện thì đã gây động xung quanh, trong khoảng khắc liền có mấy trăm binh tướng tụ tập lại, hai bên ra tay chém giết lẫn nhau.
Đám Oa khấu này là thủ hạ tinh nhuệ của Từ Hải, quân Minh dù là giáp sĩ do Trầm Chu Hư huấn luyện, tuy nói võ nghệ cao cường, mạnh hơn quan quân địa phương nhưng khí thế, kỷ luật so với đám tặc khấu đã đánh trăm trận này thì chẳng thấm vào đâu.
Oa khấu tụ lại thành một đoàn, trận thế như hình con rùa, phân ra hợp kích. Tiến thì như giáo nhọn xuyên giáp, không khiên nào không xuyên thấu. Lùi thì như chuột chui vào hang, ngăn địch không thể tấn công. Quân Minh cho dù bốn bề ra sức nhưng trận thế yếu kém, binh lực phân tán, số lượng tuy nhiều nhưng bị Oa khấu chia ngang cắt dọc, kích phá từng phần. Trong thời gian Lục Tiệm chỉ đủ chớp mắt thì đã có bảy người ngã xuống.
Lục Tiệm trong lòng khẩn cấp, mắt thấy Hoàn Trung Khuyết và Trần Tử Đan đứng ở trung tâm trận, hò hét không ngừng, tức thì tung mình nhảy lên, cao giọng hét:
- Hoàn Trung Khuyết, xem ta là ai?
Hoàn Trung Khuyết vừa ngửng đầu lên bỗng thấy bóng đen như núi, gió từ trên đỉnh đầu áp uống. Hai tay của hắn đã bị phế, không cách nào chống cự, liền liều chết co mình lăn xuống đất.
Lục Tiệm nhảy vào trung tâm trận, một chiêu “Đại Tu Di tướng” liền xô một tên Oa khấu miệng phun máu. Trần Tử Đan cao giọng hét lên, hai tay cầm đao hung dữ chém tới. Lục Tiệm lách mình tránh qua, tay trái móc tới, rắc rắc hai cái, hai cổ tay hắn đã bị bẻ gãy.
Trần Tử Đan kêu thảm một tiếng, Oa đao rời tay rơi ra. Lục Tiệm thuận tay tiếp lấy, nháy mắt một cảm giác quen thuộc dội lên trong lòng, liền nhớ đến khi xưa miếu thần đổ nát, trăng lạnh đêm vắng, Thiên Thần Tông giáp đá đao dài, mặt mũi hung dữ.
- A!
Hai thanh Oa đao, ba thanh thương dài đem theo mùi máu tanh cùng xốc tới.
Cán đao vào tay, Oa đao dài mà mỏng, vừa mềm vừa cứng, vừa nhẹ vừa nặng, Lục Tiệm như quên đi bản thân mình, biến thành thanh đao đó, giống như sống chết cùng một thể. Vì vậy liền theo đúng tính chất của thanh Oa đao đó, từ trái qua phải quay người quét một vòng tròn.
Tiếng đinh đang vang lên, đao thương rơi xuống đất, năm tên Oa khấu đồng thời kêu thảm, hai cổ tay phun đầy máu, gân tay đều đã bị chặt đứt.
Lục Tiệm hai mắt mở tròn bình tĩnh, vung Oa đao xông vào trận địch, trường đao hướng tới chỗ nào thì Oa khấu nơi đó cổ tay đầy máu, binh khí rơi xuống đất, tiếng kêu thảm vang lên.
Đám giáp sĩ vốn định giữ trận thế, không ngờ Lục Tiệm như thần tướng từ trên trời hạ xuống, từ trung tâm trận của Oa khấu đánh giết ra khiến cho trận thế của địch hoàn toàn rối loạn, lập tức phấn chấn hẳn lên.
Đám Oa khấu đó đa phần là kẻ lang thang ở Nhật Bản, sùng bái võ sĩ đạo nên tuyệt không sợ chết, tuy rơi vào thế kém nhưng vẫn kiên cường chống lại. Có điều thanh đao của Lục Tiệm lại phiêu lãng đông tây chuyên cắt gân của đối thủ. Đám Oa nhân đao thương rời tay liền như rắn độc mất nanh, hổ dữ gãy vuốt, không còn một chút đấu chí, đành để cho người ta chặt chém. Không đầy một trận đã tử thương gần hết, còn lại vài chục người hoảng loạn, đột nhiên kêu thảm một tiếng rồi bỏ chạy tứ phía. Quân Minh đuổi theo chặn đường, đám tặc khấu hoặc là bị bắt sống, hoặc là bị loạn đao chém chết.
Lục Tiệm nhìn xác chết đầy mặt đất, đột nhiên trong lòng buồn thảm, hạ đao xuống nhìn quanh thì trong đống thi thể lại không thấy Hoàn Trung Khuyết đâu. Y hơi ngạc nhiên, cẩn thận tìm qua nhưng không thấy được gì, đang lúc buồn bực thì bỗng thấy hai viên tướng quân rảo bước đi tới, cung tay nói:
- May mắn được tráng sĩ tương trợ, dám hỏi đại danh…
Lục Tiệm lắc đầu nói:
- Tên tuổi hèn mọn không dám…
Còn chưa dứt lời, bỗng thấy đầu đường đằng xa có một người chạy như bay tới, y nhận ra là Yến Vị Quy. Thầm nghĩ người này đã tới thì Trầm Chu Hư tất nhiên cũng theo sau, nếu gặp gỡ biết đâu ông ta không nhắc lại chuyện cũ, muốn bắt y đi theo, những việc khác thì không nói nhưng nếu không đi tìm được Diêu Tình thì rất không ổn.
Vừa nghĩ đến đó, Lục Tiệm bỏ Oa đao xuống, quay người bỏ đi. Hai viên tướng quân cả kinh, vội nói:
- Tráng sĩ dừng chân…
Hai người càng kêu gọi, Lục Tiệm càng bước nhanh, chuyển qua góc phố đã biến mất. Y đột nhiên tới rồi lại đột nhiên đi, hai viên tướng quân nhất thời nhìn nhau, vạn phần nghi hoặc.
Lục Tiệm co cẳng chạy nhanh, tìm khắp các đường lớn ngõ nhỏ, chỉ mong trời rủ lòng thương tìm thấy Diêu Tình, ai ngờ Diêu Tình chẳng thấy đâu mà chỉ thấy xung quanh đều có quân Minh phòng thủ, cảnh vệ nghiêm ngặt.
Lục Tiệm thầm nghĩ đại chiến mà bắt đầu thì với hoàn cảnh của mình tất bị coi là gian tế cho Oa khấu, chỉ đánh rón rén giấu tung tích đi tới phía đông thành, tìm ngõ Thương Ba. Ngõ này nằm gần cửa Thương Ba của thành ngoài nên được đặt tên như vậy.
Lục Tiệm đến trước cửa tòa nhà thứ hai bên trái, bên cửa có hai ngọn đèn chiếu sáng xung quanh, trên cửa có hình một đôi thao thiết (người dịch: một loại ác thú trong truyền thuyết) làm bằng đồng vàng, miệng ngậm vòng đồng. Lục Tiệm dùng vòng gõ cửa, cánh cửa từ từ mở ra, có người thấp giọng nói:
- Xin chào Lục gia.
Lục Tiệm ngạc nhiên nói:
- Ngươi nhận ra ta ư?
Ngươi đó chờ y tiến vào rồi đóng cửa lại. Lục Tiệm nhìn thấy hán tử này khoảng bốn mươi tuổi, áo vải mũ nhỏ, tướng mạo bình thường, chỉ có hai mắt thỉnh thoảng sáng lóe lên, trông rất khác thường.
- Tôi tên Ngư Truyền. – người đó kính cẩn nói – Tối hôm đó ở Tụy Vân lâu đã được may mắn gặp Lục gia.
Lục Tiệm vỗ trán cười nói:
- Ta nhớ ra rồi, Cốc Chẩn nhờ ngươi đem ngân lượng cho những chiếc thuyền trên sông đó phải không.
Ngư Truyền nói:
- Lục gia nhớ giỏi lắm.
Hắn nói chuyện cũng như tướng mạo, tuy không thất lễ nhưng từ đầu tới đuôi đều vô cùng bình đạm.
Lục Tiệm nghiêm mặt nói:
- Ngư huynh, ngươi đừng gọi Lục gia, ta nghe không quen.
Ngư Truyền lắc đầu nói:
- Tôi không phải tên Ngư huynh, tôi tên là Ngư Truyền. Lục gia là bằng hữu của Cốc gia, Ngư Truyền là thuộc hạ của Cốc gia, Ngư Truyền gọi Cốc gia là Cốc gia thì phải gọi Lục gia là Lục gia…
Lục Tiệm nghe muốn đau đầu, vội chuyển đề tài nói:
- Ngư… Ngư Truyền huynh, Cốc Chẩn đang làm gì?
Ngư Truyền nói:
- Cốc gia đang nổi giận!
Lục Tiệm nói:
- Vì Từ Hải không chịu khai thật nên hắn tức giận ư?
Ngư Truyền lắc đầu nói:
- Từ Hải chết rồi, Cốc gia mới nổi giận.
Lục Tiệm kinh hãi như bị sét đánh, thất thanh nói:
- Từ Hải chết rồi? Ai giết hắn?
Ngư Truyền nói:
- Tiểu nhân không biết, Cốc gia và Từ Hải ở trong thư phòng, sai tôi ở đây đợi Lục gia. Bỗng nghe một tiếng súng vang lên, tôi chạy tới thư phòng thì Từ Hải đã chết rồi.
Lục Tiệm trong lòng hoảng loạn, thất thanh nói:
- Cốc Chẩn có việc gì không?
Ngư Truyền lắc đầu nói:
- Cốc gia không sao, chỉ vô cùng giận dữ.
- Đưa ta đến gặp hắn.
Lục Tiệm đi vào trong nhà, Ngư Truyền vượt lên trước dẫn đường. Chớp mắt đã tới thư phòng, Lục Tiệm vừa đẩy cửa đã ngửi thấy mùi máu, định thần nhìn lại thì trên mặt đất vương vãi sách vở rách nát, một cái nghiên mực vỡ làm nhiều mảnh, mấy cái bút lông cũng bị bẻ gãy đôi.
Lại ngửng đầu nhìn lên thấy Cốc Chẩn đang thở phì phì ngồi trên ghế, hậm hực nhìn về phía trước. Lục Tiệm theo ánh mắt của hắn nhìn qua, chỉ thấy Từ Hải chân tay bị trói, ngồi trên một cái ghế gỗ tử đàn, mặt ngửa lên trời mềm oặt rủ ra phía sau, máu thấm đầy tóc đã bắt đầu đông lại.
Lục Tiệm trong lòng trầm xuống, tiến lên xem xét. Thi thể đó mặt trắng bệch như giấy, hai mắt mở to, ở mi tâm có một lỗ thủng chảy ra chất màu trắng hồng.
- Không cần phải nhìn nữa. – Bỗng nghe Cốc Chẩn thở dài nói – Là súng điểu bắn vào.
Lục Tiệm quay đầu lại, hai người bốn mắt nhìn nhau, đều có thể thấy nụ cười khổ trên mặt đối phương.
Lục Tiệm ngẩn ra một lúc lâu rồi hỏi:
- Cuối cùng đã xảy ra việc gì?
Cốc Chẩn đứng dậy bước đi hai bước, từ từ nói:
- Ta đang tra hỏi thằng cha này trong thư phòng, hỏi ai là nội gian ở Đông Đảo và làm như thế nào hãm hại ta? Thằng cha này trước thì cứng đầu, thà chết không nói, sau đó bị ta dùng thủ đoạn cả cứng cả mềm mới dần dần chuyển động, đúng lúc đó thì tiếng súng điểu vang lên…
Nói đến đó, hắn đi tới cửa sổ, chỉ vào một lỗ tròn nhỏ trên cửa sổ, xung quanh vết tròn đều có vết nứt có thể nhìn thấy rõ.
- Đó là vết thủng do đạn xuyên qua.
Cốc Chẩn lại mở cánh cửa, Lục Tiệm đưa mắt nhìn qua, đối diện với của sổ là một tòa tiểu lâu, trên lầu tối đen, bất giác gật đầu nói:
- Hung thủ đó tất là phát súng ở trên lầu rồi.
Cốc Chẩn nói:
- Nếu là như vậy thì thuật bắn súng của người này quả thật thần kỳ, chỉ dựa vào hình người lớn bằng hai ngón tay mà có thể bắng trúng mi tâm của Từ Hải. Hồng Thư lúc đó thủ ở ngoài phòng, nghe tiếng súng chạy lên lầu thì không thấy ai.
Lục Tiệm trầm ngâm nói:
- Ngươi có thể đoán ra kẻ đó không?
Cốc Chẩn nói:
- Từ Hải là kẻ cầm đầu Oa khấu, Oa khấu tất sẽ cứu hắn, quan phủ tất sẽ bắt hắn. Chỉ có duy nhất một bên là không giết hắn không được.
Lục Tiệm gật đầu nói:
- Nội gian của Đông Đảo phải không?
Cốc Chẩn gật đầu nói:
- Nhưng có một việc ta nghĩ không ra.
Hắn cúi đầu nghĩ một lúc rồi mới nói:
- Nếu là nội gian của Đông Đảo thì theo lý phải giết ta mới đúng. Lưng ta hướng về cửa sổ, lại đứng gần tòa lầu đó hơn, giết ta dễ hơn nhiều. Tại sao lại không giết ta mà giết Từ Hải chứ?
Lục Tiệm cũng nghĩ mãi không ra, liền nói:
- Có lẽ hắn vốn muốn giết ngươi, nhưng vì bóng người trên cửa sổ chuyển động nên bắn trượt trúng vào Từ Hải.
Cốc Chẩn lắc đầu nói:
- Nếu là ngộ sát thì không khỏi quá chính xác. Cho dù giữa ban ngày ban mặt, không có gì ngăn cách mà muốn một phát bắn trúng mi tâm cũng là cực khó rổi.
Nói đến đấy, cả hai người đều cảm thấy mơ hồ. Trầm mặc hồi lâu, Cốc Chẩn hỏi:
- Bỏ đi, nếu trong lòng cô ta có ngươi thì ngươi không tìm cô ta, cô ta cũng sẽ đến tìm ngươi thôi.
Lục Tiệm thở dài nói:
- Trong lòng cô ấy có ta thì đã sao? Từ Hải đã chết rồi…
Cốc Chẩn đoán ra được ý của y muốn nói, lông mày nhíu chặt, cười nói:
- Từ Hải chết rồi thì còn có Uông Trực mà!
Nói tới đó, vẻ buồn bực trên mặt hắn biến mất hết, thần sắc thay đổi, lại tràn đầy sự tự tin như xưa, cười hi hi nói:
- Lục Tiệm, ngươi có biết Uông Trực đó không? Người này tên tự là Ngũ Phong, Oa khấu gọi hắn là lão đảo chủ, quan phủ lại gọi hắn là Oa khấu chi vương.
- Lão hồ ly đó so với Từ Hải giảo hoạt hơn nhiều, bắt hắn vốn cực kỳ khó khăn, may mà hắn đã tới đánh Nam Kinh. Uông Trực là con trai, Trầm Chu Hư là con cò, trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi. Chúng ta lại là ngư ông.
Lục Tiệm nói:
- Ngươi nói dễ dàng quá. Hai người đó không như vậy, theo ta thấy chẳng phải trai cò gì mà đều là mãnh hổ, không cẩn thận một chút là hai người chúng ta đều không khỏi bị họ ăn thịt.
Cốc Chẩn nhìn y, cười nói:
- Ngươi thông minh hơn nhiều rồi đấy. Hai người đó đúng là mãnh hổ, nhưng hai hổ tranh nhau sẽ có một chết một bị thương, chúng ta lần này tự mình xông ra chiến trường, tùy cơ hành động.
Lục Tiệm nói:
- Ngươi và ta đều là bình dân, làm sao có thể xông ra chiến trường?
Cốc Chẩn nói:
- Việc đó dễ lắm.
Liền vỗ tay một cái, trong bóng tối có một người tiến ra, tuổi quá ba mươi, miệng nhọn tai rủ, đôi mắt nhỏ tí sáng lên vẻ tinh minh. Cốc Chẩn nói:
- Hồng Thư, ngươi đi mua hai bộ áo giáp của quan quân, quan hàm càng cao càng tốt.
Người đó cúi mình rồi rảo bước đi ngay.
Lục Tiệm cả kinh nói:
- Giáp trụ của quan quân mà cũng mua được ư?
Cốc Chẩn cười nói:
- Bất quá chỉ là hai bộ giáp trụ, lại không phải là long bào của hoàng đế thì có gì mà không mua được?
Lục Tiệm mặt đỏ bừng, bực tức nói:
- Có việc như vậy mà kẻ làm tướng quân đều không biết đến ư?
Cốc Chẩn cười nói:
- Bọn chúng chỉ biết đến ngân lượng thôi.
Hắn thấy Lục Tiệm vẫn có vẻ bất bình lại cười nói:
- Hiện giờ còn cách giờ Dần nửa giờ nữa, chúng ta chi bằng vừa ăn uống vừa chờ đợi.
Lục Tiệm buồn bực đi theo Cốc Chẩn đến một căn thính đường, bền ngoài là một sân cỏ, tuy không phải vào mùa hoa nở nhưng không khí trong lành vẫn ùa vào người.
Ngoài thính đường có treo biển, chữ viết mờ mờ không nhìn rõ. Trong thính đường nến ngọc cháy dài, xà nhà làm bằng gỗ long não, chấn song làm bằng gỗ mun. Trên mặt đất có một cái bàn bằng gỗ bạch đàn, trên bàn bày hương án và một cái lư cổ kính, trên lưng ghế khắc hình con rắn đen. Bên cạnh ghế đặt một cái kỷ màu đen, trên kỷ có hai cái chậu đất lớn màu xanh trồng cây có treo tiền vàng. Trên tường chính diện có một bức tranh lớn giản dị, trong tranh là một ông lão đứng trên thuyền nhỏ, vẻ mặt siêu nhiên, một bên có đề lạc khoản (người dịch: dòng chữ chua thêm bên cạnh tranh): Si Di Tử Bì, chủ nhân Nhược Hư đường, ngày này năm này tháng này. Hai bên bức tranh còn có hai tấm thẻ bài làm bằng gỗ mun nạm bạc, bên phải ghi: “Xung doanh hư nhi quyền thiên địa chi lợi” (Lấp chỗ thiếu là quyền lợi của trời đất), bên trái ghi: “Thông hữu vô nhi nhất tứ hải chi tài” (Thông đầy vơi là cái tài trên bốn biển), nét bút hùng dũng, khí thế vĩ đại.
Hai người ngồi xuống, Cốc Chẩn nói:
- Chỗ “Nhược Hư đường” này cùng cả tòa nhà đều là của ông lão đó. Ba bốn năm nay ta không qua đây, nhìn tình cảnh hiện giờ tuy cũng là chỗ tốt nhưng không thể ở lại lâu.
Lục Tiệm nói:
- Ngư Truyền, Hồng Thư đều là thuộc hạ của ngươi à?
Cốc Chẩn nói:
- Họ đều là ông lão đó lưu lại, trung thành tuyệt đối, tinh minh mẫn cán, chỉ đáng tiếc là không biết võ công.
Lục Tiệm nói:
- Còn chiếc nhẫn tài thần kia thì sao?
Cốc Chẩn cười cười, đưa tay vào ngực áo lấy ra chiếc nhẫn phỉ thúy đó nói:
- Ngươi nói cái này ư?
Lục Tiệm định thần nhìn kỹ, chiếc nhẫn đó màu xanh thẫm, ba vệt màu đỏ máu bao quanh toàn bộ chiếc nhẫn, to nhỏ không đều, phảng phất như lưu động không ngừng. Trên thân nhẫn còn có một góc vuông lớn giống như một cái ngọc ấn khắc hình quanh co như chữ viết, bất giác ngạc nhiên nói:
- Đó là chữ gì?
- Đó là chữ triện cổ! – Cốc Chẩn nói – Toàn bộ đọc là “Tài Thần thông bảo”, ý nói đây là tiền của tài thần trên trời, tiền bạc của nhân gian gặp nó thì giống như con cháu gặp ông cha, chỉ có cách ngoan ngoãn nghe ra lệnh.
Lục Tiệm cả kinh nói:
- Nói như vậy thì những người đó nói “Tài Thần thông bảo, hiệu lệnh thiên hạ” là việc có thật rồi.
- Ngươi tin điều đó ư? – Cốc Chẩn cười nói – Ta cho ngươi cũng được.
Lục Tiệm hơi đỏ mặt, xua tay nói:
- Ta không cần.
Cốc Chẩn nhìn hắn chốc lát rồi chợt cười cười bỏ chiếc nhẫn đó vào lại trong ngực áo.
- Cốc Chẩn, bất luận thế nào thì ngày hôm nay ta đều rất vui mừng.
Cốc Chẩn cười nói:
- Vì sao vui mừng?
Lục Tiệm nói:
- Không ngờ được ngươi không những không câu kết với Oa khấu mà còn đánh bại những đại hào kiệt của Oa khấu, chỉ tiếc là cha ngươi không có ở đó. Nếu ông ấy nghe được lời của Từ Hải thì ngươi không còn bị oan nữa rồi.
- Ngươi nghĩ sai rồi! – Cốc Chẩn lắc lắc đầu – Ta chẳng phải là anh hùng hào kiệt gì, ta chỉ là một tên thương nhân. Ta đối phó với Oa khấu chỉ vì bọn chúng không tuân theo quy củ.
Hắn thấy Lục Tiệm có vẻ nghi hoặc liền đứng dậy, chỉ vào hai câu đối trên thẻ bài nói:
- Ngươi đã xem qua hai câu đối này chưa? “Xung doanh hư”, “Thông hữu vô” (Lấp chỗ thiếu, Thông đầy vơi) trong câu đối chính là đạo kinh doanh, cái gọi là đạo kinh doanh cũng là quy củ trên thương trường.
Hắn nói đến đó liền nhìn lên bức tranh, trầm ngâm hồi lâu rồi chầm chậm nói:
- Người ta từ xưa vẫn khinh rẻ thương nhân, nhưng không hiểu rằng đạo kinh doanh chính là đạo của trời đất. Thánh nhân có nói: “Đạo của trời đất là lấy ở chỗ dư thừa bổ sung cho chỗ thiếu thốn”. Thương nhân vận chuyển hàng hóa chính là vận chuyển cái có sang cái không để kiếm lợi dư ra. Ví dụ phương nam nhiều trà, phương bắc thiếu trà, ta mua trà ở phương nam vận chuyển đến phương bắc bán ra, lấy cái dư ở phương nam bổ túc cho cái thiếu ở phương bắc, chẳng phải là làm được việc rất tốt hay sao?
Lục Tiệm nói:
- Đúng vậy!
Cốc Chẩn nói:
- Đáng tiếc là đạo kinh doanh tuy là đạo của trời đất nhưng thương nhân lại là người thường, vì cầu tài lợi mà không từ thủ đoạn, vì vậy trong đạo kinh doanh còn có đạo của người bôi lẫn vào. “Đạo của người là lấy chỗ thiếu bù vào chỗ thừa”, chuyên lấy của người nghèo đem lợi cho người giàu. Ví dụ bốn tỉnh Tô, Chiết, Mân, Quảng nhiều năm chịu loạn Oa khấu, nhân dân lưu tán, canh tác không được, quan lại liên tục đánh thuế thu tiền nên đã hoàn toàn khánh kiệt. Không quá sang năm tất sẽ có một trận đói trăm năm khó gặp…