Thấy đó không phải là người, Vương tiên Dao lại càng sợ hãi. Tôn Kim Nguyên
thì không còn căng thẳng như trước nữa, thản nhiên đi tới bên cạnh bộ
xương khô kia, nhìn chằm chằm vào hai hốc mắt đen ngòm của nó một lát,
lại lật bộ đồ màu đen kia lên xem xét một hồi, sau đó khom người nhặt
một xấp giấy, gọi chúng tôi lại cùng xem xem trong đó viết những gì.
Tôi đưa bật lửa qua, thấy đó là một xấp giấy vừa nhàu nhĩ, vừa ố vàng, tổng cộng có mười mấy trang, có thể thấy trong những ngày tháng cuối cùng ở
chốn tăm tối vô biên này, người này đã không ngừng nhớ lại và ghi chép
về những việc xưa. Chữ trên giấy được viết liêu xiêu bằng bút chì, hơn
nữa đều là chữ phồn thể và viết theo hàng dọc, chứng tỏ chủ nhân của bộ
xương khô này không phải người đương đại.
Qua giọng đọc của Tôn Kim Nguyên, chúng tôi như thể được bước vào thế giới của vị tiền bối ngồi nơi góc tường kia:
Ta là Trương Duy Trí, một tên trộm mộ trong mắt người đời. Mùa hè năm
1963, ta với sư đệ đồng môn là Trịnh Duy Tín cùng nhau tới vùng núi
Lương Vương để trộm mộ, trên đường về không cẩn thận rơi xuống cái hang
này, một hồi lâu sau mới tỉnh lại. Khi tỉnh lại, ta nghe thấy trong hang có tiếng người kêu và tiếng chim hót, mới hay sư đệ đang xuống dưới này để cứu ta. Nhưng y mới xuống được nửa đường thì con chim quái dị kia đã chặn đường đi của y, vừa cào vừa chụp. Sư đệ hoang mang bỏ trốn đồng
thời đồng ý là sẽ đưa viện binh đến cứu ta nhưng về sau, y lại bặt vô âm tín.
Ta chẳng rõ mình đã ở trong cái hang tối tăm này bao nhiêu
ngày đêm rồi, ngoài những âm thanh do con chim quái dị thỉnh thoảng xuất hiện kia phát ra, ta chẳng nghe thấy bất kỳ tiếng động nào khác nữa.
Ngoài một chút ánh sáng phía trên đỉnh đầu, ta không nhìn thấy thứ gì
khác cả. Cuối cùng ta ăn cạn lương khô, uống cạn hết nước, tự biết là
mình không cầm cự thêm được bao lâu nữa, bèn viết ra bức thứ dài này
giữa bóng tối, hy vọng người có duyên có thể đọc được.
Trong
quãng thời gian vừa qua, ta gần như đã lần mò từng ngóc ngách của nơi
này nhưng lại chẳng tìm thấy bất cứ cơ quan hay cửa ngầm nào cả, ở đây
chỉ duy nhất ô cửa sổ trời bên trên kia là đường ra mà thôi, rơi vào đây rồi mà không có ai tiếp ứng thì đừng hòng sống sót. Có điều, trên đời
không có việc gì là tuyệt đối cả, nếu có người có thể rời khỏi nơi này,
ta xin ngươi hãy báo thù giúp ta, ta hoài nghi sư đệ vì muốn một mình
nuốt trọn bảo vật nên mới bỏ ta lại đây, không chịu đến cứu”.
Nghe tới đây, Vương Tiên Dao không kìm được nghiến răng nghiến lợi nói: “Tớ
ghét nhất là loại người bỉ ổi như thế, uổng cho hắn tên là Trịnh Duy
Tín, tớ thấy hắn rõ ràng là hạng không có tín nghĩa.”
Tôi tỏ vẻ
không đồng tình: “Chỉ là một tên trộm mộ mà thôi, không đáng để cậu phải thương hại như thế đâu. Bọn họ vốn toàn làm những việc hại người lợi
mình, chẳng phải hạng người tốt đẹp gì cả.” Dứt lời, tôi liền đưa mẳ
liếc nhìn hai hốc mắt đen ngòm trên bộ xương khô kia, trong lòng thầm
kinh hãi, tự nhủ lỡ như ông ta đứng dậy tranh luận với mình thì chẳng
phải là đáng sợ lắm ư?
“Chuyện không hề giống như cậu nói đâu.”
Dường như Tôn Kim Nguyên rất bất mãn với những lời vừa rồi của tôi. “Kỳ
thật những người trộm mộ rất khác so với cậu nghĩ, họ có rất nhiều điều
mà cậu không thể nào biết được.”
Tôi buông lời giễu cợt: “Cậu cứ nói như thể cậu cũng là một kẻ trộm mộ vậy. Chắc không phải cậu giấu nghề đấy chứ?”
Tôn Kim Nguyên không để ý tới tôi nữa, lẳng lặng đọc tiếp:
“Lần này, bọn ta vâng theo mệnh lệnh của sư phụ đến núi Lương Vương tìm kiếm mộ Lương Vương và hai món bảo vật được giấu trong mộlà tráp pha lê và
dạ minh châu. Đây không phải là những món bảo vật bình thường, song công dụng cụ thể của chúng là gì thì chỉ có sư phụ mới biết. Núi Lương Vương đầy rẫy núi cao vực sâu, trong đó có tới bảy mươi hai ngọn núi cheo leo hiểm trở, ngoài ra còn có nhiều gò đồi cùng mộ đất, muốn tìm ra một
ngôi mộ chỉ định quả thực là khó khăn vô cùng, huống chi mộ LươngVương
nhất định là được đặt ở một nơi vô cùng kín đáo, cẩn mật..
Hai
người bọn ta đã sống trong Đại Hạp Cốc hai tháng trời, và quả như câu
nói “có công mài sắt, có ngày nên kim”, dựa vào bí thuật phong thủy mà
sư phụ truyền dạy cho, bọn ta thực sự đã tìm được một số thứ. Ban đầu,
bọn ta cứ ngỡ ngọn chính của núi Lương Vương là nơi sở tại của đầu rồng, tiền nhân chọn mộ nhất định sẽ chọn một nơi có phong thủy tốt như thế.
Có điều về sau, sự thật đã chứng minh quan điểm của bọn ta là sai lầm.
Có một buổi tối, ta là người gác đêm, chợt để ý thấy có một ngôi sao khá lạ thường treo cao giữa trời bèn gọi sự đệ dậy. Quan điểm của y hoàn
toàn giống với ta, cho rằng thứ mà bọn ta muốn tìm nhất định là ở vùng
này, thế rồi bọn ta đi thâu đêm theo vì sao sáng đó đến nơi đây, sau khi xác định được vị trí cụ thể lại bỏ ra mười mấy ngày nữa để đào hầm rồi
tiến vào trong mộ.
Vào đến bên trong, bọn ta phát hiện mộ thất(*) của ngôi mộ này rất nhỏ, chỉ ngang với nửa gian phòng bình thường mà
thôi, nơi chính giữa đặt một cỗ quan tài nhỏ, song bên trong lại chẳng
hề có thi thể hay xương cốt gì cả, mà nhìn quy cách của mộ thất thì đây
không thể nào là mộ của Lương Vương được. Bọn ta lập tức cảm thấy ủ rũ,
nhưng vào chính lúc này, Trịnh Duy Tín lại phát hiện trên mặt đất có một cái ngăn ngầm và lấy từ bên trong ra được một chiếc rương gỗ. Mở chiếc
rương gỗ đó ra, bọn ta ngạc nhiên đến nỗi suýt thì rớt cả tròng mắt ra
ngoài. Trong rương gỗ có đựng một chiếc tráp hình lập phương dài rộng
chừng nửa mét, hoàn toàn trong suốt, dưới ánh lửa chiếu tới còn không
ngừng biến đổi màu sắc. Chiếc tráp này sáu mặt đều bóng loáng mịn màng,
tuy không thể tìm được cơ quan để mở nhưng lại có thể nhìn ra bên trong
hoàn toàn trống rỗng.
(*)Mộ thất là nơi đặt quan tài trong mộ.
Một món đồ nghệ thuật như thế đặt trước mặt bất kỳ ai thì người đó cũng sẽ
cảm thấy nó tinh xảo tuyệt vời, đẹp đẽ vô song, và bọn ta đã nhận định
rằng đây là tráp pha lê mà sư phụ muốn tìm kiếm bấy lâu nay. Ta vô cùng
mừng rỡ, liền đưa tay tới định bưng tráp pha lê lên nhưng lại bị sư đệ
quát ngăn lại, nói là cẩn thận bên trong đó có ám khí. Nhưng sau đó
chẳng có chuyện gì xảy ra cả, chiếc tráp đó được cất vào trong túi một
cách dễ dàng, và bọn ta cũng không gặp khó khắn gì khi chui ra khỏi ngôi mộ. Bọn ta từng trộm mộ không biết bao nhiêu lần mà kể nhưng chưa lần
nào lại dễ dàng như thế này, hơn nữa còn tìm được một thứ quý báu như
tráp pha lê. Song tiếp đến lại xảy ra chuyện mà ta không tài nào ngờ
tới. Khi sắp ra khỏi Đại Hạp Cốc đến nơi, ta không ngờ mình lại bị rơi
xuống gian phòng đá bí ẩn này, còn Trịnh Duy tín thì vứt bỏ ta để thoát
thân một mình, không bao giờ trở lại nữa.”
Nghe tới đây, Vương
Tiên Dao không kìm được nói chen vào: “Không biết tráp pha lê và dạ minh châu có công dụng gì nhỉ? Nhưng chắc chắn là rất đáng tiền rồi, hơn
nữa, nghe ông ta miêu tả nó đẹp như thế, ngay cả tớ cũng muốn có nó, ha
ha!”
Tôi nói: “ Đừng nôn nóng, chưa biết chừng dạ minh châu lại
đang trong gian phòng này ấy chứ, chúng ta mà tìm được nó thì đúng là
rất may mắn đấy!”
Tôn Kim Nguyên ngắt lời tôi: “Đừng có nghĩ mấy
chuyện xa xôi như thế. Lần này, chúng ta mà có thể sống sót ra ngoài
được thì mới là điều may mắn nhất. Theo như lời của Trương Duy Trí, nơi
này là một căn phòng kín, chỉ có lối thoát duy nhất là ô cửa sổ trời ở
trên cao kia mà thôi. Nhưng thoát ra bằng con đường đó thực là một điều
không thực tế chút nào, chỉ e chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ biến thành
một đống xương trắng như ông ta mất thôi. Vừa hay nơi này còn ba góc
tường, chúng ta mỗi người một góc. Hai cậu chọn trước đi, góc còn lại để cho tớ là được rồi.”
Vương Tiên Dao nghe thấy thế thì bất giác
run lẩy bẩy bật khóc, nói: “Tớ không muốn chết ở đây đâu, hai cậu mau
nghĩ cách gì đi! Chưa biết chừng ở đây lại có cánh cửa nào đó mà ông ta
chưa tìm ra!”
Tôi không đành lòng khi thấy Vương Tiên Dao thương
tâm, bèn phụ họa: “Đúng thế, có lẽ vì ở đây tối quá nên ông ta mới không tìm thấy cánh cửa ra thôi. Kim Nguyên, chúng ta cứ thử dùng bật lửa soi kỹ lại xem sao, có khi lại phát hiện ra gì mới!”
Tôn Kim Nguyên
nói: “Vội cái gì nào, vẫn còn mấy tờ giấy nữa chưa đọc hết cơ mà, có lẽ
bên trong đó lại có thông tin gì giúp ích được cho chúng ta đấy!”
Vậy nhưng nội dung tiếp theo lại khiến chúng tôi không khỏi thất vọng, vì
ông ta toàn viết về những lần trộm mộ trong đời mình, chẳng có tác dụng
gì đối với việc giúp chúng tôi rời khỏi nơi này cả. Hai tờ giấy cuối
cùng thì viết về một khe núi tên gọi là Lương Vương Cổ Cốc, nói rằng
người có duyên rơi xuống nơi này nếu may mắn thoát ra ngoài được thì
nhất định phải cẩn thận, vì ở đó có nuôi hàng ngàn hàng vạn con Cổ. Một
khi bị loài Cổ đó cắn thì sau một thời gian nhất định, Cổ độc sẽ phát
tác biến người thành cương thi. Người nào bị nặng thì thời gian phát tác là vài ngày, còn bị nhẹ thì là vài tháng hoặc vài năm, cũng có thể là
vài chục năm cũng chưa biết chừng.
Tôi vừa nghe vừa không kìm
được thầm nghĩ, đám cù sưu mà chúng tôi gặp phải trong hang động hôm qua chắc không phải là con Cổ mà vị tiền bối xương khô này nói tới đấy chứ? Vương Tiên Dao và chủ nhân của hang động đó sau khi bị cắn thì hoàn
toàn mất ý thức, hoàn toàn giống với lời miêu tả trên mấy tờ giấy kia.
Lẽ nào ba người chúng tôi đều bị trúng độc cả rồi? Thế là tôi có chút
căng thẳng cắt ngang lời Tôn Kim Nguyên: “Chúng ta chắc không phải là đã trúng độc rồi rồi đấy chứ? Lỡ như mấy năm sau chất độc phát tác thì làm sao đây? Trên đó có nói gì về cách giải độc không vậy?”
Tôn Kim
Nguyên nghe tôi hỏi vậy thì bất giác ngây ra, sau khi xem thoáng qua hai trang giấy cuối cùng lần nữa bèn trả lời: “Không hề! Ông ta chỉ nói là
sư phụ ông ta biết thôi, còn ông ta vì mới nhập môn chưa được bao lâu
nên chưa nhận được sự chân truyền của sư phụ. Có điều chỉ cần có người
biết cách giải độc là được. Chuyện đó chúng ta sau này hãy tính, bây giờ điều quan trong nhất là tìm cách rời khỏi đây đã!”
Tôn Kim
Nguyên vứt xấp giấy xuống đất, cầm lấy bật lửa từ trong tay tôi, định
tìm xem có lối nào để thoát khỏi nơi này không. Đột nhiên ánh lửa lóe
lên, tôi thấy bên cạnh bộ xương khô còn có thứ gì đó, bèn vội vàng kêu
lên: “Từ từ đã!” Sau đó liền bước tới, phát hiện ở đó cũng có một tờ
giấy, trên tờ giấy có ba vật được xâu vào với nhau bằng một sợi dây
nhỏ, trong đó có hai vật hình như là móng vuốt của một loài động vật nào đó, một đầu được bọc kim loại, vật còn lại thì trông như ngọc, còn tỏa
ra những làn hương thơm thoang thoảng. Trên tờ giấy có viết: “Người có
duyên, ba thứ này ta tặng ngươi làm kỷ niệm. Nếu ngươi có thể giúp ta
báo thù, vậy thì hãy coi như đó là thù lao dành cho ngươi đi!”
Tôi hỏi Tôn Kim Nguyên xem mấy thứ này là gì, nhưng cậu ta cũng không biết, thế là tôi cất chúng vào trong ba lô, không để ý tới nữa, sau đó bắt
đầu lần mò tìm kiếm lối ra.