Ông mặt trời đang xuyên những tia nắng rực rỡ qua mấy ô cửa sổ, bọn trẻ được dẫn đến một phòng học với những chiếc bàn trống không, và ở đó có một Điều hành viên đang chờ để nói chuyện với Jackson và Jillson. Trong lúc bọn trẻ chọn chỗ ngồi cho mình, ba Điều hành viên đã có một cuộc thảo luận riêng. Rồi Jillson và Điều hành viên kia vội vã rời đi.

“Sẽ không lâu đâu,” Jackson nói với bọn trẻ. “Các nhóm khác cũng sắp kết thúc chuyến tham quan Học viện rồi, nhưng những Tuyển dụng viên của chúng ta vừa dẫn đến một vài thành viên mới nữa. Bọn họ đang làm mấy thủ tục để nhận những thành viên mới đó vào Học viện, vì thế mà chúng ta sẽ bắt đầu muộn vài phút. Được chứ?” Gã đi ra khỏi phòng, rồi bất chợt lại thò đầu vào. “Được chứ?”

“Được,” bọn trẻ đáp.

Jackson lắc lắc đầu, vẻ khinh miệt, rồi biến mất.

“Anh ta đáng yêu quá,” Kate nói.

“Tớ chả hiểu sao cậu vẫn có thể đùa được,” Sticky nói. “Dạ dày tớ nó đang thắt lại rồi đây này.”

Reynie cũng đang có cảm giác rất giống như thế ở bụng. “Các cậu có nghe thấy Jillson đã nói gì về những chiếc giếng mỏ không?”

“Tin tớ đi,” Kate nói. “Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Tại sao lại phải tạo ra những cái bẫy rồi sau đó lại cảnh báo chúng ta về chính những cái bẫy đó chứ?”

“Vì họ không muốn bọn mình đi ra ngoài mấy cái lối đi đó,” Reynie suy đoán. “Và nếu bọn mình có làm thế, họ sẽ biết và bắt bọn mình trong mấy cái hố đấy.”

Đôi mắt xanh của Kate mở to hào hứng. “Nếu đúng như thế, chắc phải có những cái bẫy ở khắp mọi nơi đấy nhỉ.”

“Cả hai cậu đều chả giúp gì cho cái dạ dày của tớ,” Sticky nói.

Vừa lúc đó cánh cửa đóng mở liên tục và hàng tá các bạn mới khác ùa vào phòng, theo sát phía sau là rất nhiều những Điều hành viên cùng hai người đàn ông, mỗi người mặc một bộ quần áo được may đo cẩn thận và đeo hai chiếc đồng hồ. Tiếp sau đó là nhốn nháo những giới thiệu, chọn chỗ ngồi, và hàng tá những thứ lộn xộn khác. Trong suốt khoảng thời gian đó, những Điều hành viên chăm chú quan sát bọn trẻ, cứ như là họ chẳng tin lắm vào việc bọn trẻ sẽ không chạy ra khỏi phòng hay gây sự cãi nhau. Reynie khá căng thẳng khi nhận thấy ánh mắt bọn họ đang dõi theo mình - cậu đã bắt đầu có cảm giác mình đang bị chú ý. Những đứa trẻ mới nào cũng sẽ có cảm giác này thôi - Reynie tự nhủ. Rồi cậu mỉm cười và cố gắng tỏ ra rằng mình cũng đang hạnh phúc và háo hức như các bạn khác, những thành viên mới của Học viện.

Và “đồng bọn” của cậu trong Hội Benedict Thần Bí cũng đang phải gồng mình vì một mục đích như thế, dù đứa này có thể thành công hơn đứa kia. Kate thì mỉm cười duyên dáng. Sticky nhăn nhó cố nặn ra nụ cười, nhưng khuôn mặt của cậu bé lại như đang giữa một trận bão cát. Constance thì cũng có gật gù thân thiện được vài lần - cho đến khi cái gật đầu đến là vì cơn buồn ngủ và mi mắt của con bé thì đã trở nên nặng trĩu rồi. Reynie huých huých khuỷu tay vào người cô bạn. Constance ngẩng phắt đầu, hấp háy mắt vẻ ngạc nhiên lắm, cứ như chẳng còn biết mình đang ở đâu nữa.

Vẻ mặt của Constance lúc đó giống hệt vẻ mặt của một cặp ngồi ở hàng đầu - một cô bạn vạm vỡ, dáng người hình quả chuông cùng cậu bạn có cơ thể rắn chắc. Cả hai đều đang đeo một vẻ mặt mụ mị và mặc những bộ quần áo chẳng có chút vừa vặn nào (của cô bạn gái thì quá chật, trong khi của cậu bạn trai thì lại quá rộng), và tóc cả hai đều vẫn còn ướt do vừa mới tắm xong. Ngoại trừ Constance thì đây là hai đứa trẻ duy nhất không có vẻ gì hạnh phúc hay hào hứng cả. Có thể, chẳng qua là vì hai cô cậu đang buồn ngủ, dù đáng nhẽ tắm mát và nỗi khiếp sợ trường học phải khiến chúng tỉnh táo.

Reynie thấy một người đàn ông ăn vận chỉn chu đang nhìn hai người bạn mụ mị - còn nháy mắt và mỉm cười thân thiện nữa - trước khi đột ngột hướng ánh mắt sang Reynie. Những Tuyển dụng viên, Jackson đã nói như thế mà. Nếu vậy, đó chắc hẳn phải là cách người ta gọi những trinh sát của Học viện. Như vậy, có nghĩa là, có thể những “thành viên mới không hẹn trước” mà Jackson đã nhắc đến chính là… Có thể nào? Có thể nào thực sự là các bạn ấy đã bị bắt cóc? Và giờ đây thì hai bạn ấy chỉ biết ngồi kia với vẻ mặt buồn ngủ? Có vẻ không đúng lắm, chắc cậu đã bỏ qua chi tiết nào đó rồi. Và...

Dòng suy nghĩ của Reynie chợt bị cắt ngang. Sự ồn ào mau chóng lắng xuống. Jillson đã đứng sẵn ở phía trên, rõ ràng là đang có ý đợi một tín hiệu từ Jackson lúc đó đang đứng ở cửa. Jackson gật đầu và Jillson giơ tay yêu cầu trật tự. Sự im lặng bao trùm khắp căn phòng. Rồi, với cái giọng oang oang, Jillson thông báo, “Và bây giờ, rất hân hạnh được giới thiệu với các em người sáng lập, chủ tịch, và hiệu trưởng đáng kính của Học viện thân yêu của chúng ta: Ngài Ledroptha Curtain!”

Tất cả mọi người đổ dồn những ánh mắt tò mò ra cửa. Suốt một lúc lâu nín lặng chờ đợi, lũ trẻ chẳng nghe thấy gì ngoài một âm thanh giống một tiếng rên rỉ xa xa. Tiếng rên rỉ đó càng lúc càng rõ dần, rồi đến lúc chuyển thành tiếng rít ken két chói tai - nghe như tiếng một chiếc xe ô tô chuyển số và đang nghiến bánh xe xuống mặt đường. Tiếp đó là một người đàn ông ngồi trên chiếc xe lăn có gắn động cơ lao vút vào phòng, nhanh và táo bạo đến mức bọn trẻ né dạt cả ra vì sợ bị đâm phải. Nhưng ngài Curtain điều khiển chiếc xe lăn của mình một cách hoàn hảo, khéo léo tránh những bàn chân của bọn trẻ và những góc bàn sắc nhọn khi phóng thật nhanh xuống phía cuối phòng. Và ngài không quên mỉm cười.

Chiếc xe lăn ấy chẳng hề giống với bất cứ cái nào bọn trẻ từng nhìn thấy trước đó: Bốn bánh được đặt ở vị trí ngang nhau, giống như cái giỏ để đồ, các nút điều khiển được sắp xếp ở hai tay vịn và các bàn đạp điều khiển đặt dưới chân. Ngài Curtain được cố định vào chiếc ghế nệm da bằng dây đai quấn ngang ngực và bụng, và chiếc xe thì đi nhanh đến nỗi mái tóc trắng và dày của ông bay ngược về phía sau. Ông đeo một cặp kính tròn và to, mắt kính màu phản quang để đảm bảo rằng mọi người sẽ không nhìn thấy đôi mắt ông. Hai má và cằm dường như ửng đỏ lên do vừa mới cạo râu, và mũi thì to và lổn nhổn mụn như một quả dưa chuột.

Cách ông xuất hiện hẳn phải là một cảnh tượng khiến bất cứ một đứa trẻ nào cũng phải kinh ngạc, và nó còn tồi tệ hơn với những thành viên của Hội Benedict Thần Bí. Cái mũi đó (thật quá giống một quả dưa chuột), với mái tóc đó (sao lại dày và trắng thế) vốn đã đủ để khiến bọn trẻ sửng sốt rồi, đằng này lại còn thêm cả bộ đồ ông đang mặc nữa - cái bộ quần áo màu xanh kẻ đấy - khiến bọn trẻ đơ người. Với vẻ mặt thất kinh, cả bốn miệng há hốc, hết nhìn ngài Curtain rồi lại quay sang nhìn nhau, vì chúng đã ngay lập tức nhận ra ngài Curtain chính là ngài Benedict.

Tâm trí Reynie điên cuồng đi tìm một lời giải thích. Có phải là ngài Benedict cũng bị bắt cóc rồi không? Hay là bằng một cách nào đó bọn chúng ép ngài phải giả làm Curtain? Nhưng tại sao việc đó lại có thể nhanh đến như vậy? Chỉ sáng nay thôi chúng còn nhìn thấy ngài Benedict. Hay là ngài Benedict mắc chứng tâm thầm phân lập giống như Jekyll và Hyde? Cũng có vẻ không đúng. Nhưng ngày hôm nay mọi thứ có cái nào bình thường đâu. Do đó mà Reynie sẵn sàng chấp nhận bất cứ lời giải thích nào có vẻ là hợp lý nhất cho việc: vì một lý do tồi tệ nào đó mà ngài Benedict đã lừa dối chúng.

Ngay khi Reynie đang căng đầu suy nghĩ, chiếc xe lăn của ngài Curtain bỗng dừng lại sau một tiếng rít chói tai, ông ta xoay vòng chiếc xe rồi phóng thật nhanh đến ngay cạnh Reynie. Chiếc xe dừng tại một vị trí hoàn hảo, khi mà mặt của Curtain chỉ cách mặt Reynie có vài centimet - gần đến nỗi Reynie có thể nhìn thấy vẻ mặt căng thẳng của mình phản chiếu trên mắt kính của ông ta, và cũng gần đến mức Reynie có thể ngửi thấy cả hơi thở hăng hăng của ông ấy. Và rồi ngài Benedict - cũng là ngài Curtain - dướn gần hơn về phía Reynie. Cái mũi của ông ta thúc cả vào mắt cậu. “Gì vậy, chàng trai trẻ? Sao cháu nhìn ta thế?”

Reynie suy nghĩ chớp nhoáng. Hoặc là ngài Benedict hay ngài Curtain - vì một lý do nào đó đã không nhận ra cậu, hoặc là ông ta đang giả vờ. “Là... cái mũi của ngài ạ! Trông nó giống một quả dưa màu hồng!”

Những người bạn của Reynie kinh ngạc nhìn cậu chằm chằm, trong khi những đứa trẻ khác cười rúc rích. Ngài Curtain nhướn mày, hai tay nắm chặt, khuôn mặt tối sầm lại - và chẳng nói gì suốt một lúc lâu. Cơn thịnh nộ dường như sắp nổ tung. Reynie chờ đợi trong nỗi sợ hãi đang ngày một dâng cao. Nhưng rồi màu sắc tươi sáng lại trở về trên khuôn mặt ngài Curtain, đôi lông mày bắt đầu giãn ra... và ông ta thậm chí còn nhoẻn miệng cười.

“Các cháu,” ông ta nói. “Ta thường quên mất là trẻ em thì được quyền có những hành động khiếm nhã nhưng cởi mở như vậy. Việc đó không sao cả, chàng trai trẻ, ta không vì thế mà ghét cháu đâu. Chúng ta cần những học sinh không sợ phải nói ra sự thật. Tên cháu là gì?”

“Reynard Muldoon, thưa ngài. Nhưng mọi người gọi cháu là Reynie.”

“Chào mừng cháu, Reynard,” ngài Curtain nói, rồi ông quay xe phi nhanh lên phía trên của căn phòng. Tại đây, ông quay xe lại để nhìn xuống bọn trẻ và dang rộng cánh tay. “Chào mừng Reynard Muldoon, và chào mừng tất cả các cháu! Chào mừng đến với Học viện Siêu Tài năng!”

Một tràng pháo tay nổ giòn giã, và Reynie cùng những người bạn của mình lại quay sang nhìn nhau hoang mang, nhưng lần này đã kín đáo hơn.

Đảo ngược mọi thứ, Reynie đang cố gắng trong tuyệt vọng để tìm ra lời giải thích cho tất cả những chuyện này. Ngài Benedict khiến mày thấy thảnh thơi, nhưng ngài Curtain lại làm mày sợ hãi. Ngài Benedict yêu quý trẻ con, nhưng ngài Curtain lại coi thường chúng. Và ngài Benedict dường như biết tất cả mọi thứ về mày, nhưng ngài Curtain dường như lại chẳng biết tí gì... ít nhất là đến lúc này.

Trong khi đó, ngài Curtain đã bắt đầu bài diễn văn chào đón: “Tại các học viện khác,” ông ta nói, “người ta dạy các cháu cách để tồn tại. Các bài học về đọc, viết, toán học, nghệ thuật và âm nhạc - chỉ là một cách phung phí thời gian! Tại đây, trong Học Viện Siêu Tài Năng này,” ngài Curtain vừa oang oang phát biểu, vừa viết tên Học viện lên một tấm bảng và khoanh tròn tất cả các chữ cái viết hoa, “chúng ta dạy các cháu cách để S.Ố.N.G!”

Lại một tràng pháo tay giòn giã nữa, nhưng Reynie vẫn còn đang bận với suy nghĩ Đảo ngược mọi thứ. Rồi nhìn chằm chằm vào những chữ cái được khoanh tròn trên bảng, cậu bỗng cảm thấy một sự ớn lạnh kinh khủng. SỐNG[5], nếu viết đảo ngược các chữ cái sẽ thành QUỶ.

[5] LIVE (Sống) viết ngược thành EVIL (Ma quỷ)

Giống như Jillson đã giải thích trước đó, bọn trẻ được thoải mái bật đèn và tivi “suốt đêm” nếu chúng muốn, miễn là phòng của chúng phải tối lúc mười giờ tối. Lúc ấy, Reynie đang đứng nhòm qua một kẽ nứt trên cánh cửa. Quả đúng như Kate đã dự đoán, một Điều hành viên đang đi tuần tra ở phía ngoài. Cậu thiếu niên cao gầy với đôi bàn chân khổng lồ đó vừa mới tắt điện hành lang, và giờ đang cố nhìn trong bóng tối xem có tí ánh sáng nào lọt qua khe cửa các phòng ngủ không. Reynie tắt đèn và khẽ khàng đóng cửa lại.

“Ai ngoài đó thế?” Sticky hỏi.

“S.Q. Pedalian. Nhớ anh ta không? Kate đã đùa là ‘S.Q’ chắc hẳn là viết tắt của ‘Sasquatch[6]’ đấy.”

[6] Sasquatch: Yêu quái khổng lồ có hình dạng giống người, mình đầy lông lá sống ở Tây Bắc Mỹ và Canada.

Có tiếng gõ cửa. Khi Reynie chạy ra mở cửa, S.Q. Pedalian đã khoanh tay trước ngực đứng sẵn ở đó. Khuôn mặt hiền hậu của anh ta, hơi cao so với bọn trẻ, chỉ mờ mờ dưới ánh trăng đang xuyên qua cửa sổ. “Bọn mày phải giữ trật tự chứ,” anh ta nói với một thái độ chẳng có chút tử tế nào. “Bọn mày mới đến, nên tao nghĩ bọn mày sẽ chưa hiểu được các quy định ở đây, hoặc ít ra là chưa nắm được hết. Cho nên khi tao đặt tai lên cánh cửa phòng bọn mày và lắng nghe, tao nghe được tiếng rì rầm, có nghĩa là chúng mày đang nói chuyện. Không được làm thế. Chúng mày chỉ được phép nói chuyện thoải mái, khi không phát ra âm thanh nào cả.”

“Được ạ,” hai cậu bé lí nhí.

“Được rồi, giờ thì bọn mày đều biết rồi. Giờ thì ngủ đi,” anh ta nói, tay kéo đóng cánh cửa rồi đột nhiên kêu lên đau đớn. Cánh cửa nhanh chóng được mở ra cho anh ta rụt ngón chân của mình lại.

“Việc này chắc hay xảy ra lắm nhỉ,” Reynie thì thầm.

Trên trần nhà có tiếng sột soạt và một mảnh trần bị trượt sang một bên. Rồi trong ánh đèn pin le lói xuất hiện gương mặt mệt mỏi đầy bụi bặm và mạng nhện của Constance. Sticky lôi lại một cái ghế để Constance và Kate trèo xuống. Kate bấm tắt đèn pin đúng lúc ngoài kia một đám mây bay qua che khuất mất mặt trăng. Căn phòng bỗng chốc tối sầm lại.

“Tất cả những chuyện này rốt cục có ý nghĩa gì nhỉ?” Kate thì thầm.

“Thật là một trò bẩn thỉu,” Constance nói.

“Tớ nghĩ ông ta bị điên,” Sticky nói. “Cậu nghĩ sao Reynie?”

Reynie đã nghĩ về việc này cả ngày hôm nay rồi. “Tớ nghĩ bọn mình cần phải gửi thông điệp về đất liền thôi. Nếu như bọn mình không bị đưa vào tròng - nếu như ngài Benedict đang bị ép phải làm những việc mà ngài ấy không muốn, hoặc nếu có một lời giải thích nào đó khác - thì câu trả lời sẽ giúp bọn mình biết được vài thứ nên làm.”

Những đứa còn lại đều đồng ý, và Sticky được chọn là Người Gửi thông điệp bởi vì cậu bé là người thông thạo nhất với mật mã Morse. Trèo lên cái kệ ti vi ngay dưới cửa sổ, Sticky quan sát quảng trường bên ngoài. Cậu bé nhìn thấy một dáng người quen thuộc đang chăm chú nhìn về phía cây cầu. “Chúng ta sẽ phải đợi đấy. Tớ thấy ngài Benedict - không, ý tớ là ngài Curtain ấy.”

“Ông ta đang làm gì?” Constance hỏi.

“Cứ ngồi ở trên cái xe lăn thôi, và chả làm gì cả.”

“Có thể ông ta đang suy nghĩ về sự điên rồ của mình đấy,” Kate nói.

“Trật tự nào,” Sticky nói. “Hai Điều hành viên vừa đi ra - và giờ thì bọn họ đang đi đâu ấy. Chắc chắn là ông ta đang đi rất nhanh trên cái xe lăn đó, nên hai Điều hành viên phải bở hơi tai mới đuổi kịp.” Sticky quan sát khắp lượt một lần nữa. Lúc này, quảng trường đã hoàn toàn vắng vẻ, mấy lối đi cũng không có lấy một người canh gác nào, không còn chiếc thuyền nào dưới bến, và cũng chẳng có ai ở trên cây cầu nữa. “Được rồi, bờ biển hoàn toàn vắng người rồi đấy.”

Kate đưa cho Sticky cái đèn pin và cậu bé dùng nó để gửi đi thông điệp của mình dưới dạng mật mã Morse: Chúng tôi thấy ngài B. khi chúng tôi gặp ngài C. Sao lại như vậy?

Trước đó cả lũ đã quyết định là thông điệp phải ngắn gọn, khó hiểu hết mức có thể, đề phòng một Điều hành viên bí ẩn lén bắt được những tín hiệu đó. Bây giờ, đợi một lúc lâu mà vẫn chưa thấy phản hồi, chúng bắt đầu thấy lo lắng bên kia đã chẳng hiểu được thông điệp chúng gửi đi. Hoặc tệ hại hơn: thông điệp của chúng đã chẳng được nhìn thấy.

“Chẳng có ai ở đó cả,” Constance la lên. Ba đứa còn lại vội ra hiệu cho cô bé im lặng. Constance vội lấy tay bịt miệng lại, nhưng vẫn tiếp tục thì thầm: “Chứng tỏ đó đúng là một trò lừa gạt rồi. Tất cả bọn họ. Họ muốn bọn mình lên cái đảo này, và rồi chẳng bao giờ rời khỏi đây được nữa.”

“Bình tĩnh nào,” Reynie nói. “Nếu họ chưa trả lời, bọn mình sẽ gửi thông điệp một lần nữa. Và nếu họ vẫn không trả lời, khi đó tớ sẽ đồng ý với Constance là: bọn mình đã bị đưa vào tròng, hoặc đã có điều tồi tệ nào đó xảy ra rồi. Đến lúc đó thì tốt nhất là nên bắt đầu nghĩ cách để trốn khỏi đây.”

“Đợi đã,” Sticky nói. “Tớ thấy có ánh sáng phát ra từ trong rừng. Họ đang trả lời chúng ta.”

Những đứa còn lại trong nhóm nín thở, thời gian thì dường như dài khủng khiếp. Rồi cũng đến lúc Sticky thì thầm, “Rhonda đã nói sẽ có nhiều thứ khó hiểu, và đúng là như thế thật.”

“Thế thông điệp là gì?” Kate hỏi.

“Giống như một câu đố ấy,” Sticky nói. Rồi cậu bé đọc thông điệp:

“Nhìn vào gương,

Than ôi, ta nhìn thấy một gương mặt rất đáng tin,

Ta sẽ không bị nhầm là hắn chứ.

Vì thế hãy cẩn trọng với Song Tử.”

“Ồ, thông điệp đã làm rõ mọi thứ rồi nhỉ,” Constance nói và đảo đảo mắt.

“Giống như là ông ta nhìn vào gương và nhìn thấy chính mình trong đó, sau đó lại khẳng định đó không phải là mình,” Kate nói. “Tớ e đúng là đã rõ rồi đấy - ngài Benedict thật sự bị điên.”

Sticky lắc đầu. “Thông điệp không phải được gửi đi bởi ngài Benedict. Nhớ chứ, bọn mình còn vừa mới nhìn thấy ông ấy ở quảng trường mà.”

“À ừ,” Kate nói. “Thế thì chắc chắn là một người trong bọn họ gửi đi. Nhưng mà tóm lại thì cậu đang muốn nói điều gì Reynie?”

Reynie bặm môi nghĩ ngợi. “Nghe lại thông điệp lần nữa nhé. Sticky.”

Sticky đọc lại.

“Rốt cục thì cung Song Tử là gì?” Constance hỏi.

“Một chòm sao, một cung hoàng đạo, và người sinh dưới cung hoàng đạo đó,” Sticky nói.

“Cậu chả giúp được gì cả George Washington ạ,” Constance nói. “Hoàng đạo là ai, và tại sao họ lại thích tạo ra các cung làm gì?”

“Hoàng đạo, nó là một loại biểu đồ thì đúng hơn chứ, và nó liên quan đến các vì sao, các hành tinh và những thứ tương tự như thế,” Reynie nói, cố gắng để diễn tả một cách đơn giản nhất có thể. “Cung hoàng đạo thì liên quan đến thời gian cậu được sinh ra. Chẳng hạn nếu cậu sinh vào cuối tháng Tư, cậu là một người thuộc cung Kim Ngưu, tức là con bò. Còn có cung Song Ngư, con cá, hay cung Ma Kết, con…”

“Con dê,” Sticky nói.

“Đúng rồi, con dê, vân vân - cậu hiểu ý tớ chứ nhỉ. Cung hoàng đạo phụ thuộc vào ngày sinh của cậu.”

“Vậy là giờ chúng ta có nhiệm vụ đi tìm xem một người nào đó được sinh ra vào lúc nào đấy à? Nhưng mà là ai? Thật kỳ cục!” Constance hét lên.

“Tớ nghĩ tớ biết thông điệp đó có nghĩa gì đấy,” Kate nói, bỗng nhiên vẻ đầy lo âu. “Nó nói là một số người không giống với vẻ bề ngoài của họ, và rằng chúng ta không thể tin tưởng vào những người chúng ta nghĩ có thể tin tưởng. Nói cách khác, Constance đúng - bọn mình đã bị lừa. Và dù là ai gửi đi cái thông điệp này thì người đó cũng bị lừa giống bọn mình. Có thế là Rhonda hoặc Số Hai đang tìm cách để cảnh báo bọn mình.”

“Khá muộn để cảnh báo rồi mà, phải không?” Reynie vạch ra. “Thêm nữa, thế còn cung Song Tử thì sao?”

Kate có vẻ thật sự rất lo lắng. “Chị ấy hoặc cô ấy chắc chắn đang nghĩ rằng một trong số bọn mình cũng tham gia vào cái trò lừa gạt đó. Một đứa đã cộng tác với ngài Benedict để đưa những đứa còn lại lên hòn đảo này.”

“Ý cậu là một trong số chúng ta là người thuộc cung Song Tử?” Sticky thất kinh nói.

“Tớ xin lỗi,” Kate nói. “Nhưng đó là điều duy nhất tớ có thể nghĩ ra.”

Trước cách giải thích này, cả lũ bỗng trở nên im lặng, đứa này nhìn đứa kia với vẻ nghi ngờ, cảm giác đó chẳng dễ chịu chút nào.

“Ổ, chẳng có lý do gì để không xem xét nó cả,” Kate nói, “Nếu đó là sự thật, bọn mình có thể tìm ra ngay người đó là ai mà. Giờ thì từng người một nói ra ngày sinh của mình đi.”

Tất cả mọi người, ngoại trừ Constance, ngay lập tức nói ngày sinh của mình, và chẳng có ai thuộc cung Song Tử cả. Nhưng Constance từ chối phải nói. “Điều này thật ngớ ngẩn. Ngay cả khi tớ thuộc cung Song Tử, mặc dù không phải như thế, thì chúng ta cũng chẳng thể biết chắc chắn thông điệp đó thực sự muốn nói gì.”

“Nếu cậu không thuộc cung Song Tử, tại sao lại không chứng minh điều đó đi,” Sticky nói.

“Tự cậu nói ra điều đó,” Constance ngắt lời. “Làm sao để những người khác biết được đó không phải là nói dối? Cậu có thể chứng minh mình được sinh ra vào khoảng thời gian nào không, ngài Ma Kết?”

“Ừm...,” Sticky bắt đầu, nhưng, đương nhiên là cậu bé chẳng chứng minh được rồi.

Constance quay sang Kate. “Còn cậu thì sao, cô Kim Ngưu? Cậu có thể chứng minh mình thuộc phe này chứ?”

Kate chần chừ, cố nghĩ ra một câu đối đáp để thỏa mãn sự căm phẫn nhưng lại phải có vần điệu. Thật không may khi hình như chẳng có thứ gì có thể vần với Constance được.

“Ai ở đây có thể chứng minh được nào?” Constance thách thức.

“Bạn ấy đúng đấy,” Reynie nói, cảm giác nhẹ nhõm.

“Chẳng có cách nào chứng minh được điều đó cả.” (Ngay cả dưới ánh trăng mờ đục Reynie vẫn nhìn thấy ánh mắt tự hào của Constance - cô bạn hẳn đã rất lo lắng về khả năng bị coi là một kẻ phản bội.) “Thực sự thì đây lại là một tin tốt,” Reynie tiếp tục, “vì tớ tin là ngài Benedict sẽ chẳng gửi đi một thông điệp khiến bọn mình quay lưng lại với nhau như thế đâu - chắc chắn là không trừ khi có một cách nào đó giúp bọn ta có thể chứng minh được sự thật. Thông điệp ắt hẳn phải mang một ý nghĩa nào đó khác kia.”

“Cậu lại quên rồi,” Sticky nói. “Ngài Benedict đang ở đây, trên hòn đảo này kia mà. Ông ta chẳng gửi đi thông điệp nào cả. Ông ấy chẳng thể ở cả hai nơi cùng một lúc được.”

“Chính là như thế,” Reynie reo lên. Những đứa khác phải ra hiệu cho cậu im lặng.

“Chính là như thế,” Reynie nhắc lại, thì thầm đầy hào hứng. “Hai nơi cùng một lúc! Sticky, cung Song Tử tượng trưng cho cái gì nhỉ?”

“Cặp song sinh,” Sticky nói một cách vô thức. Rồi đôi mắt cậu bé mở lớn. “Đợi một phút!”

“Đúng là nó đấy,” Reynie nói. “Tớ đoán ngài Benedict có một người anh em song sinh đã bị thất lạc từ lâu.”

Rồi cũng giống bất kỳ nhóm nào khác, luôn luôn còn lại cái gì đó để tranh luận. Kate muốn biết tại sao ngài Benedict không nói cho chúng biết là ở trên đảo ngài ấy có một người anh em sinh đôi từ trước đi, và Reynie trả lời có thể chính ngài cũng không biết điều đó. “Nhưng nếu như ngài không biết từ trước, thì sao giờ lại biết được?” Kate vẫn khăng khăng.

“Cái gương,” Reynie nhăn nhở. “Nhớ chứ? ‘Nhìn vào gương, Ta thấy một gương mặt rất đáng tin.’ Cái mà ngài Benedict muốn nói đến ở đây không phải là cái gương - mà là cái kính viễn vọng! Chẳng phải họ vừa mới dựng chúng lên ngày hôm nay sao, đúng không?”

“Vậy là ngày hôm nay ông ấy mới nhìn thấy ngài Curtain lần đầu tiên,” Sticky nói, “khi quan sát qua kính viễn vọng.”

“Tớ cá là ngài ấy đã phải sửng sốt,” Reynie nói.

“Nhưng sao ngài Benedict lại chẳng biết là mình có người anh em song sinh được nhỉ?” Kate hỏi. “Họ được sinh cùng nhau mà.”

“Chắc chắn là họ đã bị tách nhau ra từ khi còn rất bé,” Reynie nói. “Ngài Benedict nói với tớ ngài ấy là trẻ mồ côi. Khi bố mẹ mất, ngài ấy đã được gửi từ Hà Lan đến đây để ở cùng cô của mình. Ngài Curtain chắc hẳn đã được gửi đến một nơi khác.”

“Nhưng cả hai đều là những thiên tài, và niềm đam mê của họ cũng giống nhau,” Kate nói, tiếp tục suy luận của Reynie, “và cuối cùng thì họ bị đẩy về gần nhau.”

“Oao,” Sticky nói.

“Ừ, huh... Tớ buồn ngủ rồi,” Constance nói, cô bé chọn phản ứng thờ ơ với sự thật.

Reynie chẳng để ý tới Constance. “Điều này thật kỳ lạ, nhưng là một tin tốt. Ít nhất thì giờ bọn mình cũng đã biết được là bọn mình không bị lừa. Sticky, nên gửi lại một thông điệp nói rằng chúng ta hiểu, nhỉ.”

Sticky làm theo, và ngay lập tức lại có ánh đèn phát ra từ phía rừng. Sticky nhìn thật cẩn thận, đọc to từng từ một: Tốt. Chúc ngủ ngon. Chúc may...

“Họ dừng lại rồi,” Sticky thì thầm, nhíu mày. Trong khoảnh khắc cậu bé nhìn ra nguyên nhân. “Các Điều hành viên! Một cặp Điều hành viên vừa mới đi ra quảng trường. Vừa mới đứng đó nói chuyện. Và giờ thì vừa ngồi xuống một cái ghế rồi. Có vẻ như họ sẽ ngồi đó một lúc đấy.”

“Dù sao thì thông điệp cũng gần như trọn vẹn rồi,” Kate nói và ngáp một cái rõ to, “và thực lòng thì tớ buồn ngủ quá rồi. Đến lúc đi ngủ chưa nhỉ?”

Reynie và Sticky thì đồng ý, nhưng Constance lại tỏ vẻ hoài nghi. “Làm sao mà đi ngủ được? Chúng ta thậm chí còn chưa biết họ sắp nói gì kia mà!”

Kate cười. “Hay đấy, Constance! Cậu đang đùa đấy à?”

Constance có vẻ phẫn nộ. “Có phải là cậu không đấy? Từ thứ hai mới chỉ có ‘may’ thôi mà.”

Quá bất ngờ, Kate há hốc miệng định đáp lại, nhưng Reynie đã chen vào. “Một ý hay, Constance. Thực ra thì tớ khá chắc chắn là họ định nói ‘Chúc may mắn’ đấy. Cậu không nghĩ thế sao?”

Constance có vẻ ngờ vực. Sau cùng, cô bé nói, chẳng thể chắc chắn cái từ tiếp theo sẽ là gì. Nhưng vì cô bé đang thấy buồn ngủ hơn tất cả những đứa còn lại - Constance đã bắt đầu dụi mắt từ trước đó cả tiếng đồng hồ rồi - nên đồng ý hoãn buổi thảo luận lại.

“Cuộc họp hoãn,” những đứa còn lại trong nhóm đồng thanh.