Kate và Constance chỉ cách Sticky hai bước chân lúc cậu bé rơi vào đám hoa kép. Chỉ cần Sticky đứng xa hơn một chút thôi, đã chẳng có cơ hội để cứu cậu. Mà lẽ ra Sticky cũng chẳng có cơ may nào nếu lúc đó không có một đứa khác nhoài người ra để túm lấy nó. Với một sự nỗ lực gần như là tuyệt vọng, Kate nhoài người lao theo Sticky, túm lấy tay cậu bạn ngay trước khi nó kịp biến mất.

Nhưng rắc rối không chỉ dừng ở đó. Việc Kate nhoài người với theo Sticky khiến Constance lỡ đà lao qua vai cô bé. Trong nháy mắt, Kate kịp túm ngang bàn chân Constance trước khi nó cũng biến mất - nhưng sức nặng của hai đứa bạn khiến Kate trượt dần xuống hố.

“Reynie,” Kate cất tiếng gọi với hàm răng đang nghiến chặt. “Giúp bọn tớ đi chứ?”

Reynie lao vội đến và túm lấy chân Kate.

Kéo Sticky và Constance lên an toàn là một việc khó khăn, khéo léo mà cũng chẳng dễ chịu chút nào vì Constance không ngừng kêu ca về cái cùi tay của Sticky đang chọc vào xương sườn của nó. Nhưng cuối cùng, Reynie và Kate cũng kéo được hai đứa bạn lên nền đất cứng. Cả bốn nằm vật xuống, nhóng mắt lên trời và thở hổn hển.

“Rõ ràng cây hoa kép chẳng phải là một loài ‘hoàn toàn vô hại’ nhỉ,” Constance nói.

Sticky quay sang nhìn Constance. Cậu bé muốn cự nự, nhưng nhớ ra mình vừa được cứu sống, nên cậu chẳng thể làm gì khác ngoài việc nhe răng cười.

“Thực ra nó có vẻ là một loài cây ăn thịt nhỉ,” Kate nói.

Cả lũ đều đang cười khoái trá. Nguy hiểm đã qua, và bằng cách nào đó sự hào hứng đã giúp giấu đi chút căng thẳng trong lòng chúng. Dành cho nhau những nụ cười thỏa mãn (như muốn nói, “Chúng ta làm được rồi, phải không? Chúng ta đã cùng nhau làm được điều đó rồi!”). Đứng dậy, phủi hết bụi bặm đang bám trên quần ảo, cả lũ tụ tập cạnh cái miệng hố giữa đám hoa kép - dĩ nhiên là không quá gần rồi - và cố nhìn vào bên trong. Tất cả những gì chúng có thể nhìn thấy chỉ là bóng tối và những dây tua rua, và ngay cả những thứ này cũng đang dần bị che kín. Những thân cây và cành non mềm mại bị xô rạp xuống bởi cú ngã của Sticky đang ngóc dần lên lại và trở về vị trí ban đầu. Giống như là dấu chân sẽ nhanh chóng mất hút giữa một đám cỏ mềm mại.

Kate bò lại gần mép miệng hố, gạt mấy dây tua rua sang bên cạnh rồi lôi chiếc đèn pin ra, soi vào bóng tối. “Là một cái hố, sâu sáu mét.” Quay lại Sticky, Kate nói tiếp, “Đủ sâu để làm gẫy chân cậu đấy.”

Sticky lau mồ hôi trên trán, “Cảm ơn vì cú nhoài người, Kate nhé. Tớ thực sự yêu quý đôi chân của mình.”

“Tớ cũng cảm ơn cậu,” Constance nói, “nhưng nếu cậu không lao người theo Sticky thì tớ đã chẳng ngã xuống cái hố đấy. Coi như lời cảm ơn của tớ và lời xin lỗi của cậu là huề nhé!”

Kate cười “Thế nào cũng được, Constance. Miễn là tớ không phải xin lỗi cậu.”

Bọn trẻ đứng ở chỗ đám hoa kép một lúc, đăm chiêu suy nghĩ về những gì chúng vừa phát hiện ra. Chẳng ai nghĩ ra được lý do tại sao cái hố lại có mặt ở đây, tại sao có người lại chấp nhận khó khăn để giấu đi cái hố nguy hiểm đó?

“Tớ chỉ có thể nghĩ ra duy nhất một lý do thôi,” cuối cùng Reynie nói.

“Là một cái bẫy?” Kate nói.

Reynie gật đầu.

“Ôi hay quá,” Constance nói. “Thế là ở đây có cả bẫy nữa đấy.”

“Nhưng tại sao nó lại ở đây?” Sticky tự hỏi. “Và nó để làm gì?”

Kate khịt khịt mũi. “Thực sự, Sticky này, cậu làm tớ hết sức ngạc nhiên đấy nhé! Một cái bẫy để bắt một thứ gì đó - trong đó có cả con người nữa.”

Sticky chẳng buồn trả lời. Cậu bé đang bận rón rén từng bước chân quay trở lại lối mòn.

Bọn trẻ về đến phòng vừa kịp lúc những Điều hành viên đến. Bắt những Điều hành viên này phải đợi có thể là một ý tưởng tồi, Sticky đã nói thế. Nhưng cuối cùng bọn trẻ mới là người phải đợi. Nửa giờ trôi qua mà vẫn chẳng thấy bóng dáng Jillson đâu, Constance bỗng nhiên ngân nga:

“Bọn mình đã đợi ba mươi phút

Liên tiếp chỉ để gặp một chút

Mụ Điều hành viên già cỗi bẩn thỉu

Ba mươi phút ỉu xìu

Mình có thể đánh một giấc ngủ ngon.

Nhưng mụ ấy chẳng coi là quan trọng.”

Kate giật bắn mình. “Đấy là cái quái gì thế, một bài thơ đồng hồ cúc cu sao? Dừng lại đi, cô ta có thể đang ở ngay ngoài cửa đấy!”

Quả đúng như thế, Jillson đã ở ngay phía ngoài. Nhưng Kate cảm thấy nhẹ nhõm vì chỉ thấy duy nhất vẻ hách dịch trên gương mặt cô ta - chứ chẳng hề có dấu hiệu của sự căm phẫn nào cả. Kate nghĩ cửa và những bức tường ở đây chắc phải kín lắm, vì thế sẽ rất khó để nghe lén. Điều này sẽ có lợi khi bọn trẻ có những thảo luận bí mật, nhưng lại làm cho việc theo dõi những đứa khác khó khăn hơn - sự thật này làm Kate có vẻ bực tức, nhưng dù thế vẫn không thể bực tức bằng lúc nghe Jillson nói, “Nhanh lên, lũ oắt con. Tao không thể đợi chúng mày cả ngày được đâu.”

Kate nghiến răng, “Chúng tôi sẵn sàng rồi.”

“Đúng là phải thế chứ,” JiIlson nói. Rồi bỗng cô ta sa sầm mặt mày. “Này, tại sao cái tivi của chúng mày không bật? Nó hỏng rồi à?”

“Chúng tôi... chúng tôi vừa tắt đi, vừa mới thôi,” Kate nói dối.

“Tại sao chúng mày làm thế?”

Kate nhấp nháy mắt. “Vì chúng tôi định đi ra ngoài?”

“Ổ,” Jillson lại nói, ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng, cô ta làu bàu. “Tốt thôi. Bất cứ điều gì làm chúng mày hài lòng.”

Bọn trẻ gặp Jackson và hai cậu bạn ở hành lang. Những Điều hành viên cầm theo một tờ giấy ghi tên của lũ trẻ, và sau khi chắc chắn rằng đứa nào cũng đã có mặt ở đó (đến giờ vẫn chẳng có cái bắt tay xã giao nào), họ bắt đầu chuyến tham quan Học viện. Sau khi lướt nhanh qua khu ký túc xá - cũng chẳng có gì ngoài khu nhà ở và phòng tắm - cả nhóm đi ra bên ngoài, nơi Jillson nói lũ trẻ được tự do khám phá bất cứ chỗ nào chúng thích, miễn là chúng không đi ra khỏi những lối đi ở đó. “Quá nguy hiểm để làm thế,” cô ta nói. “Trên đảo đầy những giếng mỏ bị bỏ hoang.”

Lũ trẻ liếc mắt nhìn nhau.

“Chúng xuất hiện trên đảo từ những ngày đầu tiên, khi ngài Curtain xây dựng Học viện,” Jillson giải thích. “Trước khi ngài Curtain mua hòn đảo này, người ta nói trên đảo chẳng có gì ngoài đá cả. Nhưng họ lại chẳng biết đó là loại đá gì. Hoá ra, cả hòn đảo là một vùng mỏ giàu có với những khoáng sản quý hiếm. Ngài Curtain biết điều này nên ông ấy xây cầu, mua và mang đến đây những trang thiết bị phục vụ cho việc khai thác và công nhân - phải nói là cả một tập đoàn công nhân ấy. Khu nhà ở của họ là toà nhà đầu tiên được xây dựng ở đây. Chính là ký túc xá bây giờ đấy.” Rồi để cho giống một hướng dẫn viên đích thực, Jillson giơ tay chỉ về phía khu ký túc xá ở ngay trước mặt, mặc dù tất cả mọi người đều biết điều đó từ trước.

Với vẻ đầy ý thức trách nhiệm, bọn trẻ cũng nhìn theo và gật gù.

“Rồi ngài Curtain trở thành một trong những người giàu có nhất thế giới,” Jillson tiếp tục với một nụ cười đầy tự hào. “Thử đoán xem ngài ấy dùng số tài sản kếch xù của mình thế nào?”

“Nghi lắm,” Jackson lẩm bẩm.

“Ngài ấy thành lập Học viện?” Reynie đoán.

Jackson ngạc nhiên.

“Chính xác,” Jillson nói. “Một trường học miễn phí, bọn mày cũng biết rồi đấy. Chẳng tốn một hào nào để được đến đây cả. Tất cả là nhờ vào sự hào phóng của ngài Curtain đấy. Ngài ấy không đòi hỏi bất cứ điều gì, nhớ kỹ nhé - dù đó chỉ là sự quan tâm. Mà ngài Curtain cũng ẩn dật nhiều như sự hào phóng của ngài ấy vậy. Chẳng bao giờ rời khỏi Học viện, chẳng có lấy một kỳ nghỉ, ngài ấy có quá nhiều việc phải làm, mở mang đầu óc cho thế hệ sau.”

Những Điều hành viên dẫn bọn trẻ vượt qua khu vườn đá để đến quảng trường trung tâm rộng lớn được bao quanh bởi những toà nhà đá đồ sộ của Học viện. Vừa đi, Jackson vừa lần lượt giới thiệu về các toà nhà: “Bắt đầu ở phía bên phải là khu phòng ngủ của bọn mày đấy, rõ ràng rồi - mà bọn mày vẫn nhớ phòng ngủ của mình đấy chứ? - và ngay bên trái nó, toà nhà mà có ngọn tháp áy, đó là Toà nhà Chỉ huy của Học viện. Trong toà nhà đó có văn phòng của ngài Curtain, khu vực dành cho bảo vệ và các Tuyển dụng viên, và cả khu nhà ở của các Điều hành viên nữa. Bọn mày không bao giờ có lý do gì để được bước chân vào đó đâu, trừ khi được ngài Curtain gọi đến văn phòng của ngài ấy. Hoặc trừ khi vào một ngày nào đó chính bọn mày lại trở thành những Điều hành viên.” Rồi Jackson nhìn bọn trẻ từ đầu đến chân, lắc đầu tỏ vẻ nghi ngại về khả năng đó.

“Dù thế,” Jackson tiếp tục, “ngay bên cạnh Toà nhà Chỉ huy của Học viện là nhà ăn - ngay ở trước mặt đây - rồi đến toà nhà lớp học. Rồi đến Trung tâm Chăm sóc Sức khoẻ Tốt nhất, cái mà bọn tao vẫn thường gọi là bệnh xá ấy, và toà nhà ở chỗ lối đi kia là phòng tập thể dục. Nó luôn luôn mở cửa, trừ những lúc đóng cửa. Đấy, tất cả những toà nhà của Học viện, nắm được hết rồi nhé.”

“Còn cái kia thì sao?” Reynie chỉ một mái nhà thấp thoáng phía sau toà nhà lớp học.

Jackson quắc mắt. “Tao sắp giới thiệu đến nó rồi đây, Reynard. Đó là doanh trại của những Người giúp việc. Mày biết doanh trại là gì chứ, đúng không? Toà nhà đấy là nơi những Người giúp việc ở.”

“Những Người giúp việc?”

“Mày không có mắt à?” Jackson mỉa mai. “Mày không thấy những người lớn mặc đồng phục trắng hối hả, vội vã hết chỗ này đến chỗ khác, lau dọn mấy lối đi, nhặt nhạnh rác rưởi và những thứ đồ linh tinh à?”

Reynie gật đầu. Cậu chẳng thể biết được những người đó được gọi là Người giúp việc, tất nhiên rồi. Nhưng Reynie nghĩ cũng chẳng cần đôi co làm gì.

“Những Người giúp việc có nhiệm vụ bảo quản đồ đạc,” Jillson giải thích, “lau dọn, giặt giũ, nấu nướng - nói chung là tất cả những công việc chẳng có tí quan trọng nào. Giờ thì đi thôi, lũ vô dụng, và đừng có lề mề nữa. Vẫn còn nhiều thứ để xem ở bên trong kia nữa.”

Rồi những Điều hành viên giục giã bọn trẻ đi vào bên trong toà nhà lớp học. Nhìn từ bên ngoài, toà nhà không to lắm, nhưng ở bên trong lại vô cùng rộng lớn. Những dãy hành lang sáng choang đèn chạy dọc từ cổng vào. Constance phải cố gắng lắm mới theo kịp (và cô bé có vẻ không hài lòng về điều này), bọn trẻ được dẫn đi qua hết hành lang này rồi hành lang khác, cuối cùng dừng lại ở một nơi có các ô cửa lớp học xếp thành hai hàng dài hai bên.

“Tiếp tục nhé, có một số lượng khủng khiếp các hành lang ở trong toà nhà này…” Jillson nói.

“Không chỉ trong nội bộ toà nhà này đâu,” Jackson thêm vào. “Một số hành lang thông sang doanh trại của những Người giúp việc và số khác chạy thẳng sang khu nhà ăn, và hai toà nhà đó cũng có những dãy hành lang riêng, chắc chắn là thế rồi.”

“Rõ ràng,” Jillson nói. “Điều tiếp theo lũ rác rưởi chúng mày cần phải biết là làm thế nào để tìm được đường đi ở đây. Nào, đừng tỏ vẻ khó chịu như thế. Có vẻ phức tạp, nhưng thực tế thì không đâu. Cái đó tình cờ cũng lại là một nguyên tắc quan trọng mà bọn mày phải nắm được khi ở Học viện này.”

“Không phức tạp?” Constance nói, cô bé đang xoay vòng nhìn xung quanh và rõ ràng là rất bối rối.

“Nhìn xuống chân đi,” Jackson nói. “Thấy cái hàng gạch màu vàng đó chứ? Cứ đi theo những hành lang có những viên gạch màu vàng này là bọn mày không thể lạc được đâu.”

Bọn trẻ ngoan ngoãn nhìn xuống sàn nhà. Reynie đã nhận thấy sự có mặt của những viên gạch màu vàng đó từ nãy nhưng chẳng để tâm - cậu nghĩ những viên gạch đó đơn thuần là để trang trí thôi. Phải nhớ rằng không được đinh ninh về bất cứ điều gì ở trong cái Học viện này.

Jillson đặt một ngón tay lên môi rồi kéo bọn trẻ lại, nhòm qua một trong những ô cửa. Trong đó có một toán Điều hành viên đang đứng trước tầm ba mươi học sinh có vẻ rất chăm chú, và hướng dẫn một bài tập luyện kỹ năng ghi nhớ.

“THỊ TRƯỜNG TỰ DO PHẢI LUÔN LUÔN ĐƯỢC HOÀN TOÀN TỰ DO.

THỊ TRƯỜNG TỰ DO PHẢI ĐƯỢC KIỀM SOÁT TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP NHẤT ĐỊNH.

THỊ TRƯỜNG TỰ DO PHẢI CÓ ĐỦ TỰ DO ĐỂ KIỂM SOÁT SỰ TỰ DO CỦA NÓ TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP NHẤT ĐỊNH.

THỊ TRƯỜNG TỰ DO PHẢI CÓ ĐỦ TỰ DO ĐỂ LÀM CHÍNH MÌNH TỰ DO TRONG NHỮNG TRƯỜNG HỢP NHẤT ĐỊNH.

THỊ TRƯỜNG TỰ DO PHẢI…”

“Bọn họ đang nói về cái quái gì thế?” Sticky hỏi.

“À, đó chỉ là bài luyện tập Thị trường Tự do thôi,” Jackson nói. “Một hoạt động cực kỳ cơ bản. Bọn mày sẽ sớm được nếm mùi thôi.”

“Mấy câu đấy, đối với tôi thật vô nghĩa,” Constance nói.

“Ở một mức độ nhất định thì mọi thứ đều có vẻ giống như những lời nói vô nghĩa mà, phải không?” Jillson nói khi cả bọn tiếp tục chuyến tham quan. “Đó chính xác là bài học của bọn mày tại Học viện đấy. Lấy từ “thức ăn” làm ví dụ nhé. Hãy tự hỏi chính mình đi, là ‘Sao lại gọi nó là thức ăn?’ Phát âm ra thì có vẻ như nó vô nghĩa đúng không? ‘Thức ăn.’ Nó rất dễ bị coi là một từ vô nghĩa. Nhưng thực tế lại vô cùng quan trọng là một phần tất yếu của cuộc sống.”

“Vẫn chỉ là những câu vô nghĩa,” Constance càu nhàu, “và giờ tôi đói lắm rồi đấy.”

Không chỉ vì nói về thức ăn nên Constance và những đứa khác nhỏ nước miếng - mà còn bởi vi mùi thức ăn nữa. Giờ cả lũ đang được dẫn đến khu vực nhà ăn, là một phòng rộng và sáng sủa với rất nhiều chiếc bàn được kê sát nhau. Mọi thứ đều giống với những nhà ăn bình thường khác, ngoại trừ một thứ, đó chính là mùi. Phảng phất trong không khí là mùi vị của hàng ngàn thứ đồ ăn ngon lành: nào xúc xích nướng, hambuger nướng, rau củ nướng; rồi pho mát nóng chảy; nước sốt cà chua; rồi tỏi; cá rán; bánh nướng; cả mùi quế trộn lẫn đường; rồi bánh nhân táo; và rất nhiều những thứ khác nữa. Phía xa xa, sau quầy hàng, những Người giúp việc đang hối hả vội vã trong bếp, bóng dáng họ thấp thoáng sau những đám hơi nước bốc lên từ những nồi hấp, những chảo nướng.

Kate chu mũi hít hà như một chú cún. “Giống như là lò bánh mì, một cửa hàng pizza, và một bữa tiệc ngoài trời ba trong một vậy.”

“Lại một điều tuyệt vời nữa ở Học viện,” Jackson nói. “Những Người giúp việc nấu những bữa ăn tuyệt vời. Bọn mày có thể ăn bất cứ thứ gì mình muốn, và ăn bao nhiêu cũng được. Chỉ cần đến đây và nói với họ mày muốn ăn gì. Đừng có phật lòng nếu thấy họ chẳng nói gì. Người giúp việc không được nói chuyện trừ khi được hỏi. Cũng nhanh thôi, rồi thậm chí bọn mày cũng sẽ chẳng còn nhìn thấy họ nữa kia. Tao nhớ lúc còn là học sinh ở đây, tao thường bày trò trêu họ - nhưng họ không làm gì được vì chẳng có luật lệ nào nói tao không được làm như thế cả. Nhưng giờ thì chả mấy khi tao để ý đến họ nữa.”

“Có vẻ như ở đây chẳng hề có luật lệ nào cả,” Sticky nói.

“Đúng rồi đấy, George,” Jillson nói. “Gần như là không. Mày có thể mặc bất cứ thứ gì mày thích, miễn là có đủ quần, giày và áo. Mày có thể tắm bao nhiêu lần cũng được, hoặc là không tắm cũng không sao, miễn là mày phải sạch sẽ mỗi khi đến lớp. Mày có thể ăn bất cứ cái gì và bất cứ khi nào, nhưng phải trong giờ ăn. Trước mười giờ tối thì mày được phép để đèn trong phòng mày sáng đến lúc nào mày muốn. Tương tự như thế, mày có thể đến bất cứ nơi nào mày muốn ở Học viện này, miễn là không được bước chân ra khỏi các con đường và phải đi theo những hành lang có những viên gạch màu vàng.

“Thực ra thì,” Reynie nhận xét, “những cái đó đều có vẻ giống luật lệ.”

Jackson quay quay cặp mắt xanh lạnh lùng của anh ta. “Đây là ngày đầu tiên của bọn mày ở đây, cho nên tao cũng không mong chúng mày sẽ hiểu được nhiều đâu, Reynard ạ. Và thêm một trong những luật lệ của cuộc sống mà mày sẽ học được ở Học viện này, đó là: Có rất nhiều thứ khá giống với luật lệ nhưng chúng không phải là luật lệ, và thường thường người ta hay nghĩ theo hướng có nhiều luật lệ hơn so với thực tế.”

“Nghe như là có hai luật lệ đấy nhỉ,” Reynie nói.

“Chính xác đó là ý của ta. Bây giờ thì đi nào. Nhanh chân lên - bọn mày sẽ cùng những đứa mới đến khác nghe bài diễn văn chào mừng của ngài Curtain. Constance, đừng có mà nhẩn nha nữa. Cả mày nữa, George, nhanh lên nào.”

“Anh có thể gọi tôi là Sticky được không?” cậu bé hỏi.

“Sticky là tên thật của mày à?” Jackson hỏi.

“Mọi người đều gọi tôi như thế,” Sticky đáp.

“Nhưng nó có chính thức không? Có cái tài liệu chính thức nào nói tên mày là Sticky không?”

“À, không, nhưng...”

“Được rồi, nếu nó không phải là chính thức, thì nó không thể là thật được, phải không?”

Sticky chỉ còn biết nhìn trừng trừng.

“Tốt rồi, George,” Jackson nói, và dẫn bọn trẻ quay trở lại khu vực lớp học.