Mấy ngày nay, lão chủ yếu dồn sức vào hai phía, thầy mo ba mai và Diêm Lão Thất.
Thầy mo ba mai không phụ sự ủy thác, nhưng cũng khiến lão hết hi vọng.
Không phụ sự ủy thác ở chỗ thầy mo ba mai đã hết lòng hết sức, vắt óc suy nghĩ, rốt cuộc hiểu thêm được một câu; hết hi vọng ở chỗ, ông thầy mo này đổ bệnh, tính đến hôm nay đã sốt cao hai ngày không hạ, không ngừng mê sảng.
Mã Quyên Hồng rất áy náy, hôm qua đã mang quà cáp đến trại Mười Đầu thăm.
Giang Luyện lấy làm khó hiểu: “Đổi mùa ngã bệnh cũng bình thường mà, khỏi rồi lại tiếp tục.”
Thần Côn lắc đầu cười khổ.
Người miền núi phần lớn đều mê tín, thầy mo ba mai đang thử đọc bức thêu này thì ngã bệnh, khó tránh khỏi lo sợ trong lòng, cảm thấy mình đã làm chuyện không nên làm nên bị trời phạt; hơn nữa, thầy mo ba mai có thể trở thành thầy mo của người Dao không phải là vì được đi học hay tự học thành tài mà là vì có thiên phú dị bẩm, lúc không đeo mặt nạ rước thần, không phải ông ấy chỉ là một ông già trại núi bình thường ướp thịt khô thôi sao?
Trận sốt cao này tới quá kỳ quặc, giống như bí ẩn về nghệ nhân xướng sử thi Chúa tể Gesar (*) của người Tạng vậy: Có vài người chăn dê mù chữ bị sốt cao, sau khi tỉnh lại bỗng có thể tụng được trường thiên sử thi dài trăm vạn chữ – Thần Côn có trực giác quái dị rằng sau khi khỏi trận bệnh này, thầy mo ba mai hẳn sẽ không thể xem được bức thêu nữa.
(*) Chúa tể Gesar là trường thiên sử thi của người dân vùng Tây Tạng và Trung Á, được cho là sáng tác từ thế kỷ XII, kể về người anh hùng Gesar – vị vua của vương quốc huyền thoại Ling, đây là bộ sử thi dài nhất thế giới, có rất nhiều phiên bản, theo thống kê thì bản của người Tạng gồm một trăm hai mươi tập, dài hơn một triệu khổ.
Trong lòng lão rất áy náy, cảm thấy mình cạn tàu ráo máng như thế đã buộc thầy mo bất chấp khó khăn, một lần nữa thách thức cực hạn, bởi vậy nên mới bị phản phệ.
Giang Luyện cũng có phần cảm khái, im lặng một lúc mới hỏi: “Vậy câu mà ông ấy đọc được là gì?”
Thần Côn thở dài: “Là về bảy khúc xương thú.”
Câu đó là: Mắt sẽ bị che mờ, nhưng tay sẽ giúp ngươi nhận ra chúng.
Giang Luyện nói: “Thắt thừng ghi nhớ…mà ghi văn hoa thế à?”
Thần Côn cáu: “Thắt thừng ghi nhớ, cái được ghi là chuyện, cái thầy mo thấy là một loại cảm giác, ông ấy chỉ thuật lại cảm giác này ra cho Mã Quyên Hồng dịch lại thôi, hiểu chưa?”
Hiểu rồi.
Mắt sẽ bị che mờ, nhưng tay sẽ giúp ngươi nhận ra chúng.
Giang Luyện nhíu mày.
Ý là dù bảy khúc xương thú có được đưa đến trước mắt thì mình cũng không nhận được ra chúng, chỉ có thể dựa vào tay…sờ?
Khó tưởng tượng quá, sao hắn sờ ra được? Người mù có thể dựa vào sờ mà phân biệt được mặt của người thân thuần túy là bởi họ đã thuộc nằm lòng đường nét khuôn mặt người thân, nhưng ai mà sờ ra được mấy khúc xương mình chưa từng thấy cũng chưa từng sờ bao giờ chứ?
Bảo sao Thần Côn lại héo rũ như cà tím gặp sương thế, “tiến triển” có cũng như không.
Giang Luyện đổi chủ đề: “Diêm La thì sao?”
Thần Côn lại càng héo úa hơn: “Tiểu Luyện Luyện, có phải cậu cảm thấy Diêm Lão Thất là đời con cháu của Diêm La, hoặc ít nhất cũng là họ hàng thân thích, tìm được Diêm Lão Thất là chuyện về Diêm La cũng hiện ngay ra không?”
Ừ đúng, nhưng nghe giọng lão lại khiến Giang Luyện cảm thấy không ổn: “Diêm La không có quan hệ gì với Diêm Lão Thất?”
Thần Côn đáp: “Không phải, đúng là quan hệ ông cháu…”
Giang Luyện thở phào…
“Nhưng mà, Tiểu Luyện Luyện, cậu bỏ quên một cuộc biến động thời đại lớn rồi.”
Có ý gì?
Giang Luyện bỗng nhớ tới cái gì, tim đập thình thình: “Ông ta bị…tiêu diệt trong cuộc quét phỉ Tương Tây rồi?”
Thần Côn nói: “Cũng không phải.”
Mẹ kiếp, Giang Luyện suýt bị lão chọc tức: “Đừng có úp úp mở mở thế, chú nói thẳng hết cho tôi đi!”
Bị hắn rống, Thần Côn lập tức đàng hoàng hơn hẳn, lão kể lại từ đầu chí cuối tất cả những chuyện có liên quan tới Diêm La mà mấy ngày nay nghe ngóng được ra.
***
Diêm La chưa từng thật sự cắm chân vào trại phỉ.
Nói cách khác, người này có thân phận kép, ngoài mặt, ông ta là một tiên sinh văn thư, nhận làm những việc lặt vặt như giúp người ta viết thư, viết thiếp, viết thực đơn tiệc rượu, viết câu đối lễ tết, thỉnh thoảng còn được người ta thuê lên thuyền ghi sổ nữa; đằng sau thì móc nối với thổ phỉ, giúp người ta dò la tìm hiểu về đối tượng định cướp, nghĩ kế, thậm chí còn trực tiếp tham gia hành hung.
Trên đời này không có bức tường nào không lọt gió, dần dần, chuyện bị ngấm ngầm truyền ra ngoài, song Diêm La chết không chịu nhận, không có bằng chứng thì cũng chẳng làm gì được ông ta.
Ông ta rất nhạy bén, lúc Tương Tây quét phỉ, ông đã sớm rửa tay lên bờ nên không bị ảnh hưởng.
Nhưng về sau, lúc vận động đấu tố địa chủ kẻ xấu, rất nhiều người hoặc để tự bảo vệ hoặc để lập công đã nhao nhao vạch trần, Diêm La không thể chống chế được nữa: Được thôi, chút chuyện xấu này sớm muộn gì cũng bị lộ ra ngoài, mà một khi đã lộ ra ngoài thì chắc chắn sẽ ăn đạn.
Diêm La nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng quyết định tẩu vi thượng sách.
Ông ta bỏ chạy.
***
Giang Luyện nghe không hiểu lắm: “Ông ta chạy, chạy đi đâu? Sau đó lại về à?”
Dù sao cháu ông ta, Diêm Lão Thất cũng vẫn ở Tương Tây lâu dài mà.
Thần Côn cười giễu một tiếng: “Cậu ngây thơ quá rồi Tiểu Luyện Luyện, cậu cho rằng ông ta chuyển nhà chạy chắc? Sai! Tay Diêm La này là người tàn nhẫn, sợ lộ phong thanh, không nói cho bất kỳ ai biết, chỉ chạy một mình, cha mẹ vợ con gì cũng không dẫn theo, vứt lại toàn bộ.”
Giang Luyện hít mạnh một hơi lạnh: “Không phải ông ta cứ thế đi thẳng, từ đó về sau không trở lại nữa đấy chứ?”
Thần Côn đáp lại vẻ trưởng giả: “Chính thế đấy, ông ta đi chuyến đó, cắt đứt mọi mối liên hệ như diều đứt dây, đá chìm đáy bể, không còn trở lại Tương Tây nữa.”
Mẹ kiếp!
Cuối cùng Giang Luyện cũng hiểu vì sao lúc trước Thần Côn lại héo úa như thế, từ đỉnh sóng trượt xuống bụng sóng, từ hi vọng to lớn đến thất vọng triệt để, đến hắn cũng muốn héo úa, không không không, không chỉ héo úa, hắn sắp héo khô tới nơi rồi.
Hắn thở dài một hơi thõng thượt, dựa lên sofa, cổ họng bật ra một tiếng rên ngâm như than thở.
Quành một vòng, lại trở về vạch xuất phát.
Thần Côn hắng giọng: “Tôi còn chưa nói hết đâu, phía sau vẫn còn một đoạn nữa.”
Giang Luyện chẳng buồn ngẩng đầu, hắn nhìn chòng chọc lên cái đèn chùm lớn treo trên trần nhà, cảm thấy những nhánh cành tinh xảo tỏa ra bốn phía của nó thật giống y như ngàn đầu vạn mối của chuyện trước mặt này, không biết nên bắt đầu xem từ đâu: “Chú nói đi.”
“Không phải là Diêm La chạy rồi à? Một thành phần xấu con sâu làm rầu nồi canh trong công cuộc kiến thiết xã hội chủ nghĩa sao có thể nói chạy là chạy được, đại hội địa phương, hội đồng cải cách còn truy tra một thời gian, theo lời khai báo của một nhân viên kế toán đội sản xuất, buổi tối trước khi Diêm La bỏ chạy, người này ăn phải đồ hỏng bị đau bụng, nửa đêm chạy ra nhà vệ sinh, đã trông thấy Diêm La, lờ mờ nhìn thấy trên người Diêm La cõng một cái rương.”
Giang Luyện bỗng ngẩng phắt đầu lên: “Rương? Có phải là cái…”
Hắn nuốt đoạn còn lại vào: Chưa chắc, e rằng là cái rương tranh chữ chứ chẳng phải cái rương họ tìm, khoảng thời gian đó có rất nhiều người vượt biên trốn ra hải ngoại, tranh chữ ra ngoài rồi có thể đổi thành hiện kim, rất có giá trị.
Song Thần Côn lại trả lời hắn giọng chắc nịch: “Cậu nghe hết đã, tôi cảm thấy đúng là nó.”
Lão nói thẳng tiếp ra: “Không phải rương đi du lịch, nhìn hình dáng, là loại rương kiểu cũ, thời đó, mọi người ra ngoài đều xách làn xách túi, rất ít ai cõng rương, thế nên tay kế toán mới không nghĩ đến hướng bỏ chạy, hơn nữa đang vội đi vệ sinh nên không để ý đến nữa, mãi đến hôm sau mới nghe nói Diêm La bỏ nhà chạy trốn.”
Họng Giang Luyện khô khốc: “Diêm La…có phải đã nghiên cứu ra gì đó rồi không?”
Chắc chắn là vậy!
Nếu lần đó đám Ba Đen giết người cướp của nhà họ Huống, Diêm La để ý đến cái rương là bởi cảm thấy kỳ lạ, đáng để nghiên cứu, vậy thì lần này, một mình bỏ chạy, đến cha mẹ vợ con cũng không để ý tới mà lại cõng một cái rương theo, không khỏi khiến người ta phải suy nghĩ sâu xa.
Thần Côn gật đầu: “Giết người cướp của nhà họ Huống là vào những năm bốn mươi, chạy khỏi Tương Tây là những năm năm mươi sáu mươi, tính ra, Diêm La đã nghiên cái cái rương này được mười mấy năm rồi.”
Giang Luyện tiếp lời: “Hơn nữa, rất có thể Diêm La đã lấy được tư liệu sẵn có, đồ đạc của nhà họ Huống ngoài vàng bạc tiền của Ba Đen lấy đi ra thì những cái Diêm La xử lý đều chỉ là một vài trục tranh, sách vở, tập viết – nếu nhà họ Huống thật sự là một trong những gia tộc phân chia rương thời thượng cổ thì tài liệu họ giữ lại nói không chừng sẽ có vài ghi chép, vừa hay bị Diêm La đọc được.”
Ghi chép nhất định là rất có giá trị, hoặc giả là có sức thu hút rất lớn đối với Diêm La.
Giang Luyện hoàn toàn tuyệt vọng: Nhà họ Huống cũng là một gia tộc đáng để đào sâu nghiên cứu, vậy nhưng hiện giờ, truyền nhân chân chính đang ở ngay bên cạnh hắn mà lại không cung cấp được bất kỳ thông tin có giá trị gì – vụ cướp khiến truyền thừa của cả một gia tộc hoàn toàn bị gián đoạn này thực sự là…khốn kiếp!
Hắn vội hỏi: “Thế có biết Diêm La trốn đi đâu không?”
Thần Côn lắc đầu: “Trời đất bao la, đâu mà chẳng đi được chứ, có điều…”
Lão chợt đổi chủ đề: “Cậu có biết Diêm Lão Thất phất lên bằng cách nào không?”
Thần Côn liếc xéo hắn: “Cậu lại sai rồi, đấu đá cướp đoạt chỉ có thể thành lưu manh vùng chứ sao có thể trở thành bá chủ một cõi Tương Tây, muốn xưng bá thì phải có tiền, nhưng Diêm Lão Thất xuất thân như thế, lần nào vận động cũng là đối tượng bị thanh tra đấu tố, lấy đâu ra tiền? Chuyện này vẫn là do chính Diêm Lão Thất phun ra đấy.”
Khi đó, Diêm Lão Thất đang nghèo bỗng giàu sụ, kết bạn với không ít người giới giang hồ, ngày nào cũng rượu chè gái gú, nhậu nhẹt chơi bời, có bữa nọ quá chén, có người mời rượu lão, thuận tiện thỉnh giáo cách phát tài, Diêm Lão Thất cười ha hả, một ngụm cạn chén, giơ tay ra dấu số “2”, nói: Diêm Kim Quốc tôi có thể có ngày hôm nay, phải cảm ơn hai người, một là danh họa Bạch Thạch tiên sinh, người còn lại chính là ông nội từng làm thổ phỉ, nhìn xa trông rộng của tôi!
Vào những năm chín mươi, tất cả đều đã trở thành chuyện đã qua, từng làm thổ phỉ cũng có thể không chút kiêng dè đem ra nói.
Theo lời Diêm Lão Thất, ông nội lão gặp đại vận động, bỏ trốn quá nửa đời người, người nhà đã sớm quên cả rồi, không ngờ tới khi về già lại bộc phát lương tâm, viết thư cho lão.
Trong thư có hai tờ giấy, một tờ là bản đồ, ngoằn ngoèo khúc khuỷu, dẫn tới một hố trời nhỏ; một tờ là thư, nói mình năm đó làm thổ phỉ có để dành được ít đồ, chôn ở vị trí được đánh giấu trên bản đồ kia, đào ra bán hết đi rồi, đời này có thể khỏi lo ăn uống, coi như là ông ta bù đắp lại cho người nhà.
Thực chất, còn bù đắp cái gì nữa chứ, người nên bù đắp đều đã sớm chết cả rồi, thành ra lại bổ béo hết vào Diêm Lão Thất vốn chẳng cần bù đắp gì.
Diêm Lão Thất biết hố trời đó, cũng không sâu lắm, trên dưới một trăm mét, dân quê gọi là hố người chết, nói rằng đó là nơi chuyên để tử hình thời xưa, đàn bà thông dâm, đàn ông giết người thân, thổ phỉ giết người cướp của gì cũng đều bị ném xuống đó, bởi vậy nên khu vực đó luôn ào ào gió lạnh, ma trơi lấm chấm, dân quê vùng lân cận cũng không dám đến gần.
Diêm Lão Thất không sợ ma chỉ sợ nghèo, ôm tâm thế thà tin còn hơn không, bện thừng xuống hố trời, đạp lên xương cốt lác đác cổ xưa, rốt cuộc cũng mò ra một cái rương quấn lớp lớp giấy dầu.
…
Câu chuyện này gần như một truyền kỳ, người mời rượu không tin: “Anh Thất, anh ki bo thế, không chịu dạy anh em phát tài thế nào thì thôi, còn bịa ra một chuyện không có thật như thế…”
Cũng có người giơ cao chén rượu: “Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Đúng là vận mà, ông nội em trước đây sao lại kém bản lĩnh thế nhỉ, anh nói xem nếu ông ấy cũng giúp em cướp hai bức tranh của Bạch Thạch hay thiếp chữ của Vương Hi Chi gì đó thì có phải là em đã phát tài rồi không?”
…
Sau khi tỉnh rượu, Diêm Lão Thất hối hận vô cùng vì đã lỡ miệng, từ đó về sau không còn nhắc tới chuyện này nữa, thỉnh thoảng có người hỏi, lão cũng chỉ cười trừ lấp liếm cho qua, sau đó thì tẩy trắng thân phận, rất để ý đến gia thế xuất thân, càng thêm không đề cập.
***
Quả nhiên, cây dời thì chết, người dời thì sống, Diêm La trốn đi rồi lại trốn ra đường sống, bình an sống đến tận thập niên chín mươi.
Giang Luyện truy vấn: “Sau đó thì sao, Diêm Lão Thất được Diêm La cho một món lợi khổng lồ như vậy mà chưa từng nghĩ đến chuyện đi tìm bậc trưởng bối này à?”
Thần Côn nói: “Đó cũng không phải do Diêm Lão Thất quyết định, quyền chủ động nằm trong tay Diêm La, lá thư của ông ta không kí tên, không địa chỉ, rõ ràng cũng không muốn nhận người thân.”
“Dấu bưu kiện thì sao? Thư gửi đi phải luôn có dấu bưu kiện chứ?”
Thần Côn gật đầu: “Cái đó thì có.”
Có dấu bưu kiện thì có manh mối rồi, Giang Luyện vững dạ hơn phần nào: “Gửi từ đâu? Từ tỉnh nào?”
Thần Côn đáp hai chữ.
Quảng Tây.
***
Thành phố Hoàng Sơn, An Huy.
Trên con đường người đến người đi có một viện thẩm mỹ – spa, tên là Phường Quế Non.
Phường Quế Non này cũng là sản nghiệp của quỷ non, nhưng không phải tổng, thật sự chỉ là câu lạc bộ spa dùng để tiếp khách, nghỉ ngơi mà thôi.
Lúc không cần ra ngoài, cứ cách một hai tuần, Mạnh Thiên Tư lại tới đây một lần cho người ta giúp cô xoa bóp thả lỏng xương cốt: Cô khác Cao Kinh Hồng, không thích gọi phục vụ tận cửa, làm gì cũng ở nhà thì còn cần chân làm gì?
Hiện giờ đang là buổi chiều, ánh nắng xuyên qua tấm mành trúc lưa thưa treo trên cửa sổ rọi vào, in lên tường những đường bóng của tia sáng.
Mạnh Thiên Tư đã mát xa xong, cho thợ mát xa lui ra ngoài, khép áo ngồi dậy, khoan khoái khôn cùng nhưng cũng đặc biệt hiu quạnh.
Cô thừ người một lúc rồi lại cúi người xuống, nhặt ống hút treo trên bình shisha lên, ngậm vào miệng.
Bình shisha này là món đồ nhận được từ năm ngoái, nói là đồ cổ hi hữu hàng thật giá thật săn được ở Trung Đông, toàn thân mạ vàng khảm ngọc, lá thuốc shisha cũng là hàng đặc chế, không có mùi thuốc lá, có thể chọn vị cam, vị dứa, thậm chí là vị Coca, tùy theo sở thích.
Hút lấy hương vị ngọt ngào, trong bình lưu ly sùng sục nổi lên bong bóng óng ánh, vô cùng kỳ diệu.
Cô từng hút hai lần ở nhà, bị Cao Kinh Hồng bắt gặp, Cao Kinh Hồng nói cô: “Bé Tư, con nhìn tư thế của con xem, có khác gì hút thuốc phiện không.”
Thế hệ trước cũng thật kỳ quặc, có thể vì không vừa mặt một tư thế nào đó mà ghét luôn cả sự vật sự việc khác, Mạnh Thiên Tư lười chẳng buồn cãi, dứt khoát chuyển bình shisha này sang viện spa, mỗi lần giãn lỏng xương cốt xong đều hút một lúc.
Lâu dần, ai ai ở đây cũng cho là cô thích hút shisha, còn tìm kiếm tặng cô đủ loại lá thuốc shisha muôn hương muôn vị.
Thực ra cô chỉ buồn chán mà thôi, bởi vậy nên để đầu óc trống rỗng mà nghe tiếng ùng ục, nhìn bọt nước dày đặc không ngừng phồng lên rồi vỡ tung.
Những lúc như vậy, trong đầu cô sẽ hiện lên hình ảnh của rất nhiều người rất nhiều chuyện vụt lướt qua như những mảnh vụn.
Lần này, cô nhớ đến Giang Luyện.
Hiện giờ một lần nữa nghĩ tới chuyện hắn “đi mà không chào”, trong lòng cô đã không còn gợn sóng gì nữa, chỉ cảm thấy mình đã nghĩ sai, trước đây cô đều như vậy, lần này có gì mà lạ lẫm đâu.
Nhưng cũng chẳng có cách nào, trước nay cô vẫn luôn không giỏi phân biệt lòng người thật giả, u năm nhắc nhở cô phải “lắp mắt vào mà nhìn người”, cô vẫn luôn lắp mà, trợn trừng rất lớn nữa, nhưng xưa nay, người chưa bao giờ có thể chỉ dựa vào mắt là nhận biết được.
Cửa phòng mở ra, Mạnh Kình Tùng đi vào.
Mạnh Thiên Tư treo lại ống hút lên bình shisha: “Có việc gì à?’
Mạnh Kình Tùng ừ một tiếng.
Y nói chuyện đầu tiên trước: “Bên Thần Côn, tôi đã bảo Liễu Quan Quốc tạo điều kiện hết sức có thể, có yêu cầu gì cũng cố gắng thỏa mãn.”
Tốt.
Mạnh Thiên Tư hỏi: “Có tiến triển gì không?”
Mạnh Kình Tùng còn chưa kịp mở miệng, cô đã bổ sung thêm một câu: “Đừng có cả ngày báo từng chút từng chút với tôi như gà con mổ thóc thế, tôi không có cái sức lực đấy, bao giờ được nhiều nhiều rồi hẵng báo cáo với tôi.”
Mạnh Kình Tùng nhìn cô, không nói gì: Cô sao có thể không có sức lực chứ, kỳ thực cô có cả đống thời gian.
Cô là không có tinh thần.
Im lặng một thoáng, y hắng giọng: “Còn nữa…sắp đến sinh nhật lần thứ bốn mươi lăm của cô sáu rồi…”
Mạnh Thiên Tư lập tức ngồi thẳng người dậy: “Bốn mươi lăm, là đại thọ à?”
Mạnh Kình Tùng gật đầu: “Tròn năm tròn mười đối với quỷ non đều là đại thọ cả.”
“U sáu…tới Phường Quế Non làm sinh nhật hay là làm ở Quảng Tây?”
“Ở Quảng Tây?”
Cũng không ngoài dự liệu, Mạnh Thiên Tư tiu nghỉu một lúc rồi lẩm bẩm: “Việc gì phải thế chứ.”
Lại hỏi: “Những người khác…”
Mạnh Kình Tùng biết cô muốn hỏi những cô bác khác có đi hay không: “Không đi.”
Mạnh Thiên Tư nhíu mày: “Tất cả đều không đi? … Có tặng quà không?”
“Cũng không tặng, đều không tặng cả. Thế nên tôi tới là để hỏi ý cô xem, nếu cô cũng không đi hoặc không tặng quà, vậy thì…”
Mạnh Thiên Tư không lọt tai câu này, chỉ nhỏ giọng lẩm bẩm: “Việc gì phải vậy chứ, đã bế tắc bao năm vậy rồi.”
Mạnh Kình Tùng nói: “Chuyện này cũng không còn cách nào khác mà, ai bảo…”
Y không nói hết.
Mạnh Thiên Tư im lặng.
Cô nhớ lúc các cô bác khác mừng thọ, trong Phường Quế Non luôn mở tiệc lớn, vô cùng náo nhiệt, lần nào u sáu cũng không tới, lễ tết cũng không tới, như là bị trục xuất vậy, hoặc là tự mình trục xuất.
U sáu tên là Khúc Tiếu, là một nghệ sĩ việt kịch, người đẹp, thân mình cũng yêu kiều.
Khi Mạnh Thiên Tư còn bé, lúc đến lượt sang ở với Khúc Tiếu, quá nửa thời gian đều ngâm mình sau hậu trường sân khấu, mọi người đều lên đài diễn kịch, không ai để ý tới cô, cô tự chơi, mặc bộ hí phục rộng thùng thình vào, xắn tay áo từng cuộn từng cuộn, sau đó, yểu điệu làm dáng nhón chân đi tới bên tường, thi lễ về phía tường, còn làm bộ thẹn thùng gọi: “Công tử…”
Cố ý cong đầu lưỡi lên, muốn bắt chước cách phát âm tiếng Quảng, lại chẳng bắt chước được ra gì, nghe như đang gọi “Công kê (*)” vậy.
(*) Công kê là con gà trống.
Tường công tử trước nay đều không đáp lại cô.
Có lần bị Khúc Tiếu đúng lúc diễn xong đi xuống trông thấy, Khúc Tiếu cười gập cả eo, bảo cô: “Thiên Tư nhà chúng ta nhỏ vậy mà đã nhớ tình lang rồi, muốn lấy chồng rồi đây mà.”
Cô đỏ bừng mặt, chui đầu vào hí phục rộng lớn, la lên: “Không lấy chồng không lấy chồng, cả đời này con cũng không lấy chồng.”
…
Lời nói đùa khi đó về sau lại thành thật.
Mạnh Thiên Tư nghĩ sắp đến sinh nhật bốn mươi lăm tuổi của u sáu mà lại không ai tới dự, cảnh tượng hiu quạnh, trong lòng chợt dâng lên vài phần chua xót.