Xương Rồng Đốt Rương

Quyển 1 - Chương 10

Sau khi bị thương, con mắt đó của cô sưng vù khiếp người, chiếc chụp mắt bằng da có thể thông khí nên đó giờ vẫn đeo suốt không bỏ ra lần nào, hơn nữa Lâu Hồng hoàn toàn không phòng bị tâm lí nên chỉ cảm thấy sự tương phản trước và sau khi bỏ chụp mắt ra thực sự quá lớn, không kìm được kêu “ối” một tiếng.

Mạnh Thiên Tư ném cái chụp mắt lên bàn: “Chúng tôi hỏi thăm việc này cũng không phải là để hỏi chơi. Đêm qua, tôi vì thận lâu núi mà vào núi, gặp phải giao tranh, suýt nữa hỏng mất một bên mắt. Theo quy tắc đúng là chúng tôi không nên hỏi chuyện nhà anh, nhưng là bạn tốt, lại đã thấy người bị thương đổ máu rồi, dù sao cũng nên cho chút ưu tiên chứ?”

Lại ngẩng lên nhìn Mạnh Kình Tùng: “Đi tìm Liễu Quan Quốc, lấy một thẻ tạ ơn cho người bạn nhà họ Lâu.”

Mạnh Kình Tùng đáp lời, nhanh chóng mở cửa ra ngoài, lúc trở lại đặt một chiếc thẻ ngân hàng tới trước mặt Lâu Hồng, khẽ giọng nói: “Mật mã là sáu số tám.”

Trống ngực Lâu Hồng đập dồn một hồi, sớm đã nghe quỷ non ra tay hào phóng, thẻ tạ ơn đều là thẻ ngân hàng, số tiền trong thẻ cũng đến vài vạn – thế này cũng quá nể mặt anh ta rồi, tự mình gặp mặt nói chuyện, đưa quà cảm ơn trước, hơn nữa người bị thương còn là lão đại, nếu anh ta vẫn tiếp tục giấu giếm thì thật đúng là không nghĩa khí, hơn nữa, dòng đi chân này dù sao cũng sắp bị vùi lấp rồi.

Lâu Hồng hắng giọng: “Vậy tôi cũng không khách khí, cảm ơn cô Mạnh, có điều, chỉ sợ nói ra rồi cũng không có gì hữu dụng, khiến cô phải tốn tiền không.”

“Dòng đi chân nhà tôi quả thực có phân chia môn phái, thủ pháp thao tác khác nhau, chỉ nói là dán bùa lên trán hỉ thần, có người vẽ bùa bằng chu sa, cũng có người vẽ bằng máu gà trống; lúc dẫn hỉ thần, có người kéo cờ, có người đánh kẻng, còn có người gõ la.”

Hỉ thần chính là “người chết”, nói trại là để kiêng (*).

(*) Hỉ thần (thần vui) tiếng Trung đọc là [xǐ shén], người chết (tử nhân) thì đọc là [sǐ rén].

“Dòng này nhà chúng tôi truyền suốt mấy trăm năm, về sau cố định lại còn ba nhánh chính, họ Lâu, họ Hạ và họ Hoàng. Không dối cô chứ, nhánh họ Lâu chúng tôi không còn ai khác, hiện giờ chỉ còn lại mình tôi, tôi cũng không có ý định truyền xuống nữa – vả lại, dù có muốn truyền cũng chẳng có ai nhận.”

Mạnh Kình Tùng hơi đổ mồ hôi: Kẻ đêm qua gặp phải chắc chắn không phải Lâu Hồng, chuông vàng của Thiên Tư xem ra là rơi vào tay họ Hạ và họ Hoàng rồi.

Lâu Hồng cũng không phải kẻ ngu ngốc: “Tôi hiểu cô Mạnh hẳn là đã nghi ngờ sang hai họ kia nhưng quả thật không có khả năng đâu. Nhánh họ Hoàng còn dừng lại sớm hơn cả nhà tôi, tầm năm bốn mấy ấy, Hoàng Đồng Thắng nhận một đơn đi chân, tới phụ cận Trường Sa thì đụng phải giặc Nhật, bị một băng đạn bắn chết, rất thảm, hỉ thần không được dẫn về cũng trở thành cô hồn dã quỷ theo, trong thời buổi chiến tranh loạn lạc, thi thể thối rữa bên ngoài cũng chẳng ai nhặt xác cho. Khi đó ông ấy vẫn chưa nhận núi, chưa nhận đồ đệ, từ đấy đứt nhánh, chuyện này lúc tôi nhập môn, ông nội tôi vẫn thường kể nên tôi nhớ rất rõ.”

Mạnh Kình Tùng hỏi anh ta: “Họ Hạ thì sao?”

Lâu Hồng xua tay như đuổi ruồi: “Càng không có khả năng, đã sớm ra khỏi khu vực Tương Tây rồi.”

Mạnh Thiên Tư sao chịu để anh ta qua loa như thế: “Nói nghe xem.”

Lâu Hồng hơi do dự, lại nghĩ, tiền đã đặt trước mặt rồi, quả thực cũng phải cho chút gì bí mật mới công bằng: “Thì…phương pháp đi chân cơ bản hẳn cô Mạnh cũng biết rồi phải không? Biết rồi thì tôi cũng khỏi phải nhắc lại nữa.”

Mạnh Thiên Tư khẽ gật đầu.

Dẫn người chết đi thế nào, bên ngoài lưu truyền rất nhiều cách giải mã khác nhau, có người nói là cõng xác đi, có người nói là dùng lực hút của nam châm để làm hỉ thần đi bộ, cũng có người nói thực ra là dùng hai cây gậy trúc buộc cánh tay lại thành hàng, trước sau do hai người sống nhấc lên, vì gậy trúc có tính đàn hồi nên lúc đi đường nhún nhún nhảy, hơn nữa đi chân luôn vào buổi tối, cách người ngoài rất xa nên nhìn thoáng qua sẽ trông như thi thể đang bước đi – thực ra nhún nhảy chỉ là thủ pháp khoa trương do phim cương thi Hồng Kông thể hiện thế thôi, cản thi chân chính vừa bí mật vừa khiêm tốn, đa số nếu không nhìn kỹ sẽ không thể nhận ra.

Chân tướng rốt cuộc ra sao là bí mật người ta không truyền ra ngoài, người ngoài chỉ có thể phỏng đoán, không thể nào biết rõ được, truyền thừa tài nghệ thời cổ đại Trung Quốc dù sao cũng khó tránh khỏi có phần thiếu hào phóng, quy định nghiêm ngặt cứng nhắc, ví dụ như “truyền nam không truyền nữ”, “truyền trong không truyền ngoài”, vất vả mãi mới thu đồ đệ khác họ, lại phải “giấu một phần”, sợ đồ đệ khi sư, nước đầu nguồn càng chảy càng yếu – vô số truyền thừa đều chẳng khác nào một sợi tơ run run rẩy rẩy, tơ đứt là đứt hẳn, thế hệ sau không tìm được ra đầu nguồn nữa.

Nhưng bà cố Đoàn Văn Hi là nữ tiên sinh du học trở về, lại từng tiếp xúc gần với cản thi, có giao lưu với thái sư phụ nhà họ Lâu nên có cách giải thích của riêng mình, nhiều năm sau nhớ lại, bà cho rằng các cụ điều khiển đi chân bằng cách lợi dụng tính co giãn còn sót lại của các khớp xương, hay nói cách khác là sóng điện sinh học.

Lấy một ví dụ không được thích hợp cho lắm thì, ếch bị lột da cắt đầu ngoài chợ, chân vẫn có thể thỉnh thoảng co duỗi vài cái – sóng điện sinh học trong thi thể mới chết không lâu chưa biến mất hẳn, các cụ dùng chu sa chấm lên trán, lên lưng, ngực bụng và lòng bàn tay gan bàn chân, còn phải bịt tai, mũi, miệng lại, dùng thêm bùa chú đặc biệt, nửa là để chống thối rữa, nửa là để kéo dài thời gian giữ lại sóng điện sinh học này, như vậy, lúc cản thi bỏ thêm vài tác động chỉ dẫn sơ sơ nữa là hỉ thần có thể đi theo.

Nếu cô đã biết thì chuyện về sau cũng dễ nói, Lâu Hồng thở phào một hơi: “Đi chân được quy vào chúc vưu khoa chữa bệnh cứu người, trước đây chúng tôi cũng tự xưng là đại phu chúc vưu khoa. Cách nói mơ hồ nhất về chúc vưu khoa là có thể khởi tử hồi sinh, dẫn hỉ thần chính là cấp bậc thấp nhất của ‘hồi sinh’, cô nghĩ mà xem, hỉ thần vốn không thể cử động, chúng tôi có thể dẫn nó bước đi, còn đi cả một đoạn đường xa như vậy, nhanh thì kiên trì dăm ba ngày, lâu thì cũng phải nửa tháng, đó chẳng phải cũng là ‘khởi tử hồi sinh’ sao.”

Mạnh Thiên Tư không tỏ vẻ gì: “Cấp bậc cao thì sao?”

Lâu Hồng bình tĩnh lại: “Cấp bậc cao hơn rất mơ hồ, tôi chưa từng thấy, ngay cả ông tôi cũng chỉ mới được nghe kể – nghe bảo là có thể kéo dài thời gian lâu hơn, ngoài bước đi thì còn làm được nhiều việc hơn…”

Anh ta hơi lưỡng lự, không muốn thổi phổng thêm nữa, bèn đổi chủ đề: “Thế nên mới bị cấm đoán nghiêm ngặt, lúc dạy đồ đệ cũng chỉ nhắc tới là ngừng – ai ngờ nhánh nhà họ Hạ lại có một đời sinh ra một nhân vật lợi hại, cái sư phụ cũng không biết, chính người đó dựa vào suy đoán nghiên cứu mà luận ra, ấy thế lại thật sự thành công. Thực ra chúng tôi đi chân, xưa nay vẫn luôn kính trọng người chết, sẽ không động tới hỉ thần, chết là chết thôi, con đường đã đi xong thì mọi việc đều nên ngừng nghỉ. Đa số là người nhà của những người này không cam tâm, lên trời xuống đất, chỉ cần có biện pháp có khả năng thì bất kể nó đã được thử nghiệm thành công hay chưa, đều muốn thử, làm người thân sống trở lại. Về sau, nghe nói họ Hạ không chịu được một nhà phú quý hết nài lại ép, bèn sử dụng âm dương phối.”

Mạnh Thiên Tư ngạc nhiên: “Âm dương phối là cái gì?”

Lâu Hồng cũng không trả lời rõ được: “Là loại cấp bậc cao nhất đó, không chỉ khiến được người ta làm việc mà còn có thể giúp người ta có chút thần trí ý thức căn bản, tuy rằng không thể so với người thường – nhưng biện pháp này rất hại, thi hành nó phải hại không ít mạng người…”

Một ý nghĩ lướt vụt qua trong đầu Mạnh Kình Tùng: “Cùng kiểu với dùng mạng người sống bù cho người chết?”

Đại khái là vậy, đó đã là chuyện của mấy đời trước rồi, đến thái sư phụ cũng không rõ nội tình, mỗi lần nhắc tới đều giữ kín như bưng, thế nên Lâu Hồng cũng chỉ nghe được chút lề mép: “Nói chung là, cái này còn có thể cao đến mức nào? Thường nói ‘Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên’, chết là chết, cố làm sống lại là hành sự nghịch thiên, tất nhiên là khiến mọi người tức giận. Đi chân kỵ nhất là lòng dạ bất chính, không ngay thẳng, bởi vậy nên nhánh họ Hạ khi đó đã bị trục xuất hết khỏi Tương Tây.”

Mạnh Thiên Tư cười khẩy: “Thật không hiểu trục xuất khỏi Tương Tây thì có gì là nghiêm phạt? Trên đời này ngoài Tương Tây ra còn có Quảng Tây, Giang Tây, Sơn Tây…”

Nói tới đây, hơi khựng lại như thể nhất thời không nhớ ra còn gì Tây nữa, Tân Từ tự cho là nhanh trí nhắc nhở cô: “Còn Thiểm Tây nữa.”

Mạnh Thiên Tư không lý tới hắn: “Không phải còn cho họ Hạ nhiều không gian phạm tội hơn sao?”

Lâu Hồng xấu hổ: “Đó đã là…chuyện từ mấy trăm năm trước, người thời đó không rời quê hương, trục xuất được coi là trừng phạt rất nặng.”

Được, họ Lâu không có khả năng, họ Hoàng thì bị giặc bắn chết, chuyện chuông vàng quá nửa là dính dáng đến họ Hạ, Mạnh Kình Tùng truy vấn: “Họ đi đâu? Quý Châu? Hay Hồ Bắc?”

Quý Châu và Hồ Bắc đều kề sát bên Tương Tây, sau khi rời khỏi quê hương nghĩ hẳn sẽ đặt chân ở hai nơi đó đầu tiên.

Lâu Hồng cười cười: “Quý Châu, Hồ Bắc, thậm chí là Tứ Xuyên, đều là phạm vi đi chân trước đây, bản thân họ Hạ không còn mặt mũi nào nữa thì sao dám ở gần như vậy? Nghe nói là chuyển tới biên giới phía Tây ở Thanh Hải, có điều, trợ lý Mạnh này, tôi biết anh nghĩ gì nhưng chắc chắn không phải họ đâu.”

Anh ta nói chắc nịch: “Ông nội tôi nói, cũng từng phái người đi nghe ngóng tin tức của họ rồi, quả nhiên là chó không đổi được thói ăn phân, đúng là quá tham làm, vẫn tiếp tục làm chuyện không mặt mũi đó, cơ mà tục ngữ nói rất hay, ác nhân tự có ác nhân trị, làm chuyện trái lương tâm nhiều rồi, sớm muộn cũng gặp phải báo ứng. Lúc ấy còn chưa giải phóng, thôn trang duy nhất của nhà họ Hạ bị quân phiệt Mã thị ở Thanh Hải tiêu diệt, một đuốc đốt rụi rồi.”

Tân Từ không nhịn được: “Chuyện diệt môn khó nói được lắm, xem trong ti vi thấy rất nhiều mà, luôn có vài con cá lọt lưới.”

Lâu Hồng cũng không phủ nhận: “Có lẽ, nhưng lúc họ Hạ bị trục xuất khỏi Tương Tây đã trịnh trọng thề hỉ thần là đời đời sẽ không bao giờ đặt chân tới Tương Tây nữa – cô Mạnh, cô phải biết rằng đi chân một khi đã thề trước hỉ thần thì tuyệt đối sẽ không vi phạm, bởi vậy nên người cô đụng độ đêm qua làm thế nào cũng không có khả năng là đời sau nhà họ Hạ.”

***

Lâu Hồng coi như đã biết gì nói nấy, không giấu chút nào, nhưng ban đầu vốn không có manh mối gì, nghe anh ta nói xong lại càng không đầu mối.

Tiễn Lâu Hồng đi rồi, Mạnh Thiên Tư lại bật cười: “Chỉ có ba nhà là có khả năng, kết quả cả ba nhà đều không có khả năng, tranh câu quỷ đêm qua chỉ sợ có khi là quỷ thật không chừng.”

Mạnh Kình Tùng không sao cười nổi, chỉ cảm thấy trong lòng bức bối, sau lưng lại nhễ nhại mồ hôi: Ban đầu vốn trông cậy rằng con đường Lâu Hồng này sẽ dẫn ra được chuông vàng, giờ lại đứt mất rồi.

Ngẫm lạ, vẫn cảm thấy không dám lừa dối: “Thiên Tư, hay là báo một tiếng cho các cô bác đi, họ kiến thức nhiều, quan hệ cũng rộng, có thể có biện pháp…”

Mạnh Thiên Tư liếc xéo y: “Sợ cái gì, kéo dài được ngày nào hay ngày ấy, biết đâu một ngày nào đó lại có cơ xoay chuyển.”

Cô thật đúng là lạc quan, Mạnh Kình Tùng giận quá hóa cười: “Có thể kéo dài được nữa sao? Lần này qua đây, các cô bác đã dặn đi dặn lại bảo cô phải mang chuông vàng, khi mổ núi sẽ cần đến.”

Mổ núi?

Lại một từ mới, Tân Từ muốn hỏi, song thấy bầu không khí trước mắt không thích hợp, bèn nhịn xuống, tự mình mở sơn điển ra xem.

Từ “mổ núi” này lại có thật, nhưng lúc ấn vào lại nhảy ra mấy chữ.

Bạn không có quyền hạn tra từ này.

Xem ra mình không cần phải biết, không được hỏi cũng không được nói ra ngoài, Tân Từ rất thức thời, yên lặng bỏ điện thoại vào túi, coi như không có việc này.

Mạnh Thiên Tư bình thản: “Anh thiếu kiên nhẫn quá đó, từ lúc chuyện xảy ra tới giờ còn chưa tới hai mươi tư tiếng đâu, kiên nhẫn chút đi, người mất tích còn phải đợi đủ hai mươi tư tiếng mới được báo cảnh sát cơ mà.”

Mạnh Kình Tùng bị cô nói mà xì hết hơi, đang định nói gì đó thì dưới tầng chợt ầm ĩ nhốn nháo, lẫn trong đó là tiếng ghế đổ bàn lật, cốc chén rơi vỡ, trong tiếng đuổi mắng phẫn nộ còn có tiếng người la lên oai oái: “Cứu! Bắt cóc! Giết người!”

Cái quái gì vậy?

Mạnh Thiên Tư đi tới bên cửa nhìn xuống.

Quả nhiên là bàn bị lật tung, bát đĩa rượu chè và đồ ăn văng khắp đất, người bàn đó nhao nhao đứng lên tránh né: Chính giữa có một ông chú chừng bốn năm mươi tuổi tóc quăn đang liều mạng quẫy đạp, người không cao lớn gì cho cam nhưng lại phải dùng ba người tráng niên mới đè giữ được – Thẩm Vạn Cổ và Thẩm Bang chia ra giữ tay chân, Liễu Quan Quốc ôm đầu kiêm bịt miệng, gắng sức kéo người đó ra ngoài sảnh.

Tân Từ nghển cổ rõ dài, hắn nhớ ra: Đây không phải chính là cái người ban nãy cầm tờ giấy gật gù đắc ý cái gì mà “Thương Hiệt tạo chữ một gánh kê” sao?

Mạnh Kình Tùng liếc xuống dưới, nổi giận đùng đùng: “Có chút chuyện nhỏ mà cũng làm không xong, phế vật!”

Y kiên nhẫn giải thích với Mạnh Thiên Tư: “Người này cầm thiếp mời tới mạo danh thế thân, chắc là cho rằng dù sao cũng là mở tiệc mời khách, sẽ không kiểm tra tỉ mỉ – ông ta không biết là chúng ta lập hồ sơ cho mỗi vị khách, bị người của chúng ta phát hiện ra ở quầy tiếp đãi, sợ đánh rắn động rừng nên không làm ầm ĩ mà báo cáo tôi trước.”

Mạnh Thiên Tư từ chối cho ý kiến: “Sau đó thì anh sắp xếp bắt người như vậy?”

Hai chữ “như vậy” nhấn rất mạnh: Rất hiển nhiên, cô không hài lòng.

Mạnh Kình Tùng xấu hổ: “Không phải, tôi bảo họ mượn cớ dẫn người đó ra khỏi sảnh rồi mới tra hỏi, nhất định là do không làm tốt để người kia chạy về.”

Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng, dừng một chút rồi nói: “Mời khách thế đấy.”

Mạnh Kình Tùng nghe hiểu, mời khách thế đấy, cứ như một trò hề vậy, thật mất mặt – y tự biết mình sắp xếp không thỏa đáng, lấy làm xấu hổ: “Để tôi đi xử lý.”

Vừa đi ra ngoài hai bước, Mạnh Thiên Tư lại gọi y lại: “Mạo danh thế thân chỉ để ăn chùa một bữa, khả năng dường như không cao lắm?”

Mạnh Kình Tùng gật đầu: “Thế nên tôi mới nói giữ người này lại hỏi cho rõ ràng.”

Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Mạnh Thiên Tư: “Hai ngày nay xảy ra không ít chuyện, đêm qua tôi vừa đụng phải giao tranh, bị mất chuông vàng, hôm nay đã có người mạo danh đến tiệc rượu của tôi, chân trước chân sau không phải là…có liên quan gì tới chuyện đêm qua chứ?”

Cô vốn định nói “không phải là kẻ đụng độ phải đêm qua chứ”, song nghĩ lại, người đêm qua rõ ràng là đàn ông thanh niên, thân thủ lại tốt, chênh lệch nhất nhiều với người trước mắt này, bèn sửa lại.

Mạnh Kình Tùng giật mình, cảm thấy cô nói rất có lý, có khi lại có hi vọng, manh mối quanh đi quẩn lại lại rơi vào đúng lão già tóc quăn này.

Giọng y cũng cuống lên: “Để tôi.”

Mạnh Thiên Tư nhìn y vội vã xuống nhà, chỉ cảm thấy vạn sự như ý, mọi thứ đều nằm trong lòng bàn tay: “Tôi đã nói rồi mà, làm việc phải biết kiên nhẫn, như nung như nấu làm chi đâu.”

Làm quỷ non, xe đến trước núi mà còn phải sợ không có đường sao.