Tư Quân Nhập Mộng

Chương 2

CHƯƠNG 2

«Thiếu niên nhà ai mà cố chấp vậy.»

.

Trong phòng chỉ còn Dung Lạc và Lương lão gia.

Lương lão gia đứng dậy đi tới bên ghế thái sư, lại cười hiền hòa với Dung Lạc: “Gần đây hiền chất có khỏe không?”

Dung Lạc rũ mắt: “Chất nhi khỏe.”

Gương mặt Lương lão gia lộ vẻ bùi ngùi: “Cả đời Tiên Cảnh rất thích hành thiện, tích công tích đức, thái độ làm người chính trực nghiêm cẩn, chưa bao giờ làm chuyện hổ thẹn. Nay cư nhiên lại phát sinh những chuyện như vậy, lão phu thật sự lo lắng.”

Dung Lạc khó khăn mỉm cười: “Trước khi lâm chung phụ thân còn nhắc tới Lương thúc bá, ông tiếc nuối không được gặp mặt thúc bá lần cuối.”

Lương lão gia thở dài thườn thượt.

Dung Lạc dừng lại một chút, lại nói: “Chất nhi biết gia phụ và thúc bá thân quen như thiết, khi Dung gia còn ở Phụng Dương đã được thúc bá chiếu cố rất nhiều, chỉ là sau này chuyển tới Nam Nhạc, cơ hội lui tới nhà thúc bá lại ít đi…”

Nói tới đây, Dung Lạc cố hít mạnh lấy dũng khí, đứng thẳng người: “Hiện giờ tuy chất nhi chưa qua tuổi nhược quán(20), nhưng đã có năng lực tự nuôi sống bản thân, bởi vậy cũng không nghĩ tới chuyện làm phiền một nhà thúc bá, chỉ hy vọng có thể thu hồi lại những thứ sinh tiền gia phụ đã nương nhờ tại Lương gia.”

Lương lão gia nghe đến đây, ông giật mình, nhưng lại chẳng nói gì.

Kỳ thực, “những thứ nương nhờ tại Lương gia” chỉ là cách nói uyển chuyển đi một chút mà thôi.

Nguyên danh Lương lão gia là Lương Thành, có tương giao nhiều năm với phụ thân của Dung Lạc là Dung Tiên Cảnh, mối quan hệ giữa hai người vẫn rất tốt.

Nếu tính nghiêm ngặt ra thì hai gia đình còn là họ hàng xa mấy đời.

Năm Dung Lạc mười bốn tuổi, Dung phu nhân ly thế, Dung Tiên Cảnh đau thương, lại vô cùng tưởng nhớ người thê tử đã mất, ông liền mang Dung Lạc rời khỏi thành Phụng Dương chuyển đến định cư tại quê hương của mẫu thân Dung Lạc là Nam Nhạc.

Một thời gian đầu, Dung Tiên Cảnh và Lương lão gia còn thường xuyên thư từ qua lại. Đến đầu mùa xuân năm ngoái, Dung Tiên Cảnh đột nhiên nhiễm bệnh nan y, đã qua tay rất nhiều đại phu, nhiều lần trị liệu nhưng vẫn không khởi sắc. Dù ngoài miệng không nói, nhưng Dung Tiên Cảnh biết ông đã chẳng còn nhiêu thời gian.

Từ trước đến nay Dung gia vẫn độc đinh, cả đời Dung Tiên Cảnh vốn không có thân thích nào khác, ông thương yêu nhi tử duy nhất của mình là Dung Lạc, lại sợ Dung Lạc còn một mình trên đời không ai chiếu cố, suy tư nhiều lần, ông tự tay viết một phong thư nhờ người mang tới cho người họ hàng xa tại thành Phụng Dương, mong hắn có thể chiếu cố nhi tử mình. Nhưng chẳng rõ vì duyên cớ nào, phong thư Dung Tiên Cảnh gửi đi mãi không thấy hồi âm, ông nhờ người tới Phụng Dương hỏi thăm cũng không có tin tức, cũng chẳng rõ là Lương gia có nhận được phong thư của mình hay không.

Sau đó Dung Tiên Cảnh lại bệnh nặng liệt giường, hầu như không thể di chuyển được, chẳng còn cách nào khác, ông đành dặn trực tiếp Dung Lạc, bảo sau khi y quay về Phụng Dương thì tìm tới nương nhờ tại nhà Lương lão gia.

Kỳ thực, Dung Tiên Cảnh có dự định như vậy cũng chẳng phải vì ông ỷ vào chút tình nghĩa thân thuộc kia, mà còn vì một nguyên nhân khác.

Trước kia khi còn sống tại Phụng Dương, ông đã cùng Lương lão gia kết phường chung tay làm một vụ buôn bán.

Khi đó vì một chút nguyên nhân mà Lương lão gia nợ Dung Tiên Cảnh một trăm lượng bạc, đến giờ vẫn chưa trả.

Sinh tiền Dung Tiên Cảnh là người ngay thẳng hào phóng, với bằng hữu lại càng rộng rãi, thêm nữa cuộc sống cũng không quá túng quẫn, liền vì thế mà ông vẫn không đòi về số bạc nơi Lương lão gia kia.

Sau đó vì mắc bệnh mà Dung Tiên Cảnh nhớ lại chuyện này, cũng nói với Dung Lạc, lúc đó ông chỉ nghĩ Dung Lạc đến nương nhờ Lương gia nhất định sẽ nhận được sự giúp đỡ, người Lương gia cũng sẽ không bạc đãi y.

Suy cho cùng, cũng là do Dung Tiên Cảnh nghĩ lòng người quá mức giản đơn.

Thông minh như Dung Lạc sớm đã hiểu nguyên nhân vì sao thư gửi đi mà mãi vẫn không thấy hồi âm, bởi vậy nên sau khi làm xong tang sự cho phụ thân, Dung Lạc không đến Phụng Dương tìm Lương lão gia ngay. Y cũng đã nghĩ rất nhiều lần, bởi y chẳng thích đi tìm hiểu cái cảm giác phức tạp của lòng người là thế nào, song có một số việc không thể nói suông được. Người ta vẫn bảo có thể vì năm đấu thóc mà còng lưng, ít nhất thì số bạc Dung Tiên Cảnh để ở Lương gia kia nhất định phải quy chủ.

Lương lão gia im lặng không nói, xoay người nhấc chén trà, mở chiếc nắp sứ gảy gảy nhẹ miệng chén.

Đêm đã sâu, ánh nến nơi phòng khách lung lay tản mát ánh sáng màu cam vàng.

Một lúc lâu sau, Lương lão gia đặt chén trà xuống, ngẩng mặt cười nói với Dung Lạc: “Mới không gặp bao lâu, hiền chất càng ngày càng hiểu biết tri lễ, lão phu thực sự thấy mừng thay cho Tiên Cảnh. Chuyện mà hiền chất vừa nói, không phải lão phu chưa từng nghĩ qua, chỉ là cuối năm sắp tới, công chuyện quá nhiều quấn thân… không bằng đợi sang năm sau bàn lại được không?”

Đôi mắt Dung Lạc vụt qua vài tia tinh quang, cười nhạt: “Lương thúc bá nói đùa, việc này sao có thể kéo dài sang năm sau được?”

Cứ nghĩ cậu thiếu niên sẽ ôn hòa như phụ thân nó, ai ngờ đâu lại ngoan cố đến vậy.

Lương lão gia không nhắc lại nữa.

“Dung thiếu gia đứng đó làm gì, sao không lại ngồi chơi?” – Lương phu nhân vén rèm đi ra từ phòng trong.

Lương lão gia nhíu mày, vẫy vẫy bà đến trước mặt, mắt liếc về phía Dung Lạc rồi nói nhỏ vào tai bà mấy câu. Cứ tưởng đã thấp giọng người ngoài không nghe thấy, nhưng lại có mấy câu như “khó đuổi” hay “bà đi giải quyết” chảy vào tai Dung Lạc.

Gương mặt đầy đặn của Lương phu nhân từ từ hiện lên vẻ khác thường.

Dung Lạc coi như không thấy, mặt không đổi đứng yên đó.

Suy nghĩ kỹ lưỡng một phen, Lương phu nhân tiến đến trước mặt Dung Lạc, đôi mắt đơm đầy ý cười nồng nhiệt: “Là thiếp đây suy nghĩ chưa chu toàn, Dung thiếu gia tuổi còn trẻ mà phải tự thân sinh sống chắc chắn là vô cùng cực khổ. Ít nhiều thì Lương gia chúng ta với Dung thiếu gia cũng coi như có quan hệ huyết thống, chúng ta sao có thể không quan tâm chuyện của ngươi cho được. Nếu Dung thiếu gia không có nơi nào để đi, vậy ở tạm đây một thời gian, Lương phủ tuy nhỏ, người đông nhưng cố gắng thì cũng ở được, người Lương gia chúng ta cũng không đuổi ngươi đi.”

Dung Lạc lắc đầu, đạm nhạt nói: “Lương di không cần phải phiền phức như vậy, chất nhi tự có nơi đi.”

Lương gia phu phụ đánh mắt nhìn nhau, Lương phu nhân vừa cười vừa nói: “Nghe nói Dung lão gia qua đời vào đầu thu, thiếp đây cũng vì thế mà thổn thức không nguôi, lão gia nhà ta với Dung lão gia có nhiều năm giao hảo, trước khi cũng sóng vai trên thương trường, có ai ngăn cản được đâu. Lúc ấy Lương lão gia nhà ta gặp tình thế ngặt nghèo, được Dung lão gia dốc túi tương trợ bất kể hồi báo mới có được Lương gia ngày hôm nay. Ta nghĩ, nếu Dung lão gia không qua đời sớm như vậy, nhất định cũng sẽ có được cơ nghiệp như Lương gia chúng ta.”

Dốc túi tương trợ bất kể hồi báo ư?

Dung Lạc nghe đến đó, rốt cuộc cũng không nhịn được, cười lạnh thành tiếng: “Lương di nói gì vậy. Chất nhi bất tài, mặc dù không chăm chỉ đọc sách nhưng cũng chẳng phải hoàn toàn vô học vô nghề. Trước chất nhi có chỉnh lý di vật của phụ thân liền nhìn sơ qua sổ sách của phụ thân với Lương thúc bá trên thương trường, chất nhi nghĩ – nếu không phải tiên phụ rộng lượng, mắt nhắm mắt mở không tính toán chuyện này, thì chắc chắn trước khi người quy tiên cũng đã có được cơ ngơi như Lương gia hiện tại rồi.”

Lời lẽ sắc bén, Lương gia phu phụ nghe thấy mặt lập tức trắng bệch.

Đôi bên đều đã rõ ràng, Dung Lạc cũng không khách khí nữa: “Lương thúc bá đã chiếu cố tiên phụ khi sinh tiền, chất nhi vô cùng cảm kích, hiện giờ cũng chẳng muốn nhiều nhặn gì, chỉ hy vọng có thể cầm lại những thứ thuộc về tiên phụ mà thôi.”

**

Sau cùng Lương lão gia cũng không thỏa hiệp.

Với tính cách đấu đá bất chấp của Dung Lạc, cuộc đối thoại về sau càng lúc càng gay gắt, gần như trở mặt nhau hoàn toàn.

Cuối cùng Dung Lạc cắn răng nói: “Nếu hôm nay không thể lấy lại những gì thuộc về cha ta, ta tuyệt đối không đi.”

Nói xong, y bị người Lương phủ đuổi ra ngoài.

Đêm thâu mưa bụi, con đường hoang vắng, ngoại trừ chuỗi đèn ***g treo cao dưới mái hiên thì chẳng còn ánh sáng nào khác.

Tuyết mù mịt bay trên đỉnh đầu, Dung Lạc lẻ loi đứng trước cánh cửa lớn đóng chặt Lương gia, không nhúc nhích, dưới chân đùn lên từng đụn tuyết trắng.

Dường như càng lúc tuyết càng rơi nặng, hơi ấm mỏng manh dần tắt lịm, gần như chỉ một hơi thở cũng có thể đóng băng.

Dung Lạc biết người càng lúc càng lạnh, xiêm ly đơn bạc không thể chống đỡ cái giá lạnh, sắc mặt y cũng dần xanh tím.

Chẳng biết đã qua bao lâu, nơi đầu đường bên kia chợt vang lên tiếng trống canh, thấp thoáng theo đó còn cả tiếng bước chân chầm chậm nhẹ nhàng.

Dung Lạc quay đầu nhìn theo tiếng động kia.

Nơi ngã đường có một người một ô giấy dầu đi gần lại, có thể thấy dưới mép tán kia là một người vóc dáng đĩnh trực cùng với mái tóc đen dài rũ bên vai, một thân y bào thuần trắng dội bóng mặt tuyết.

Đến trước cổng Lương phủ, người kia bỗng nhiên dừng bước, khẽ giơ chiếc tán lên.

Đôi mắt dưới lớp giấy dầu quá mức quen thuộc, sâu thẳm đen mặc như đầm nước cuối thu, hữu thần mà cuốn hút.

Mới nhìn tới đôi mắt ấy, Dung Lạc đã sửng sốt trợn tròn mắt.

Người kia cũng không nói gì, hắn quay người bước lên bậc tam cấp, giơ tay gõ cửa.

Chỉ một lát sau có người đi ra: “Ai đó?” – có lẽ là vừa bị khiểm trách, vị quản gia mang vẻ tức giận mở cửa.

“Xin hỏi… Lương lão phu nhân có ở nhà hay không?”

Khi đã trông thấy người đến, vị quản gia lập tức mừng rỡ: “Ôi, đây chẳng phải Mộ công tử ư?!”

Mộ Phù Sanh cười nhẹ: “Trần quản gia, đã lâu không gặp.”

Trần quản gia khom lưng cúi đầu, cười đến mức mặt mày dán lại với nhau: “Đã lâu không gặp, Mộ công tử mau vào trong, thỉnh!” – dứt lời, ông nghiêng người nhường hắn bước vào.

Mộ Phù Sanh gật đâu, ánh mắt vô thức lướt qua Dung Lạc, đặt cây dù trong tay lại bên cạnh cửa.

“Mộ công tử, sao muộn thế này mới đến, lão gia nhà chúng ta chờ ngài mấy ngày nay rồi, mấy hôm trước còn phái người tới y quán tìm ngài nhưng người bên đó luôn nói ngài không rảnh, giờ thì tốt rồi, cuối cùng ngài cũng tới.”

Mộ Phù Sanh vừa giữ vạt áo bước vào bên trong vừa cười nói: “Thật ngại quá, mấy hôm trước ta bận quá, tới tận đêm nay mới có chút rảnh, lại chẳng để ý thời gian mà chạy tới đây, thật là lại gây thêm phiền phức cho Lương phủ rồi.”

“Không phiền không phiền, tuyệt không phiền, Mộ công tử có thể tới đây là vạn hạnh cho chúng ta, bệnh của lão phu nhân còn phải nhờ ngài chiếu cố cho mà…”

“Lão phu nhân đã ngủ chưa?”

“Chưa, còn đang chơi đùa với tiểu thư…”

Âm thanh dần thấp, cuối cùng “Phanh” một tiếng, cánh cổng lại đóng lại lần nữa.

Đoạn đối thoại cũng tắt ngấm bên trong.

Dung Lạc chăm chăm nhìn chiếc cán dù dựng bên cạnh cửa, trầm mặc một lúc, bất chợt y xê dịch đôi chân đã chết lặng, nghiêng ngả đi qua nó.

**

Vào giờ này.

Hầu hết mọi người đã đi ngủ.

Dung Lạc mệt mỏi ngồi trên bậc thang trước cổng Lương phủ, đầu dựa vào con sư tử đá bên cạnh, gật gù.

Đúng lúc ấy, cánh cổng Lương phủ đột nhiên mở ra lần nữa.

Theo đó còn có tiếng cười hồn hậu của Lương lão gia: “Ha ha, lần này làm phiền Mộ công tử quá.”

“Lương lão gia khách khí.”

Nghe thấy tiếng động, Dung Lạc lập tức đứng thẳng dậy.

Lương lão gia đang song hành với Mộ Phù Sanh bước từ trong ra.

Lương lão gia cười nói: “Căn bệnh đau chân của gia mẫu đã lâu năm, gần đây khí trời chuyển lạnh thì càng ngày càng nghiêm trọng, đêm nào cũng trằn trọc không ngủ yên, làm phận con sao có thể an tâm. Hôm nay nhờ thủ pháp độc đáo của Mộ công tử, từ giờ gia mẫu đã có thể ngủ yên ngon giấc rồi. Mộ công tử quả không hổ là thần y tại thế!”

Mộ Phù Sanh mỉm cười: “Lương lão gia quá khen. Không dối gạt ngài, tật đau chân của lệnh đường là nhiều năm tích tụ mà thành, muốn trị tận gốc là không thể. Nhưng ta nghĩ, chỉ cần Lương lão gia lệnh cho tôi tớ ngày ngày bóp chân theo cách mà ta vừa làm, phối hợp với phương thuốc của ta, vừa uống vừa thoa ngoài da, kiên trì mất tháng là có thể giảm bớt đi rất nhiều đau đớn.”

Nói xong xoay người, liếc mắt thấy Dung Lạc vẫn đứng yên giữa tuyết như cũ, cước bộ khẽ dừng lại.

Theo đó cuộc đối thoại vừa hai người cũng ngừng.

Mộ Phù Sanh nhìn chiếc tán dựng trước cửa, cây dù vẫn y như khi hắn đặt xuống, hiển nhiên là chưa từng bị người động qua.

Mà Dung Lạc đang đứng trước bậc tam cấp, trên tóc và bên vai phủ một lớp tuyết mỏng đang lã chã rơi theo động tác đứng dậy vừa rồi của y.

Tuy sắc mặt tiều tụy, nhưng đôi mắt trong màn đêm vẫn trong trẻo như trước.

Vừa khắc khẩu một chập, Lương lão gia đã chẳng còn kiên nhẫn đối mặt với Dung Lạc, thấy y vẫn đứng lỳ đó từ nãy đến giờ, lòng lão lại tức giận, coi như không thấy.

Ông ngẩng đầu nhìn sắc trời, lại nói với Mộ Phù Sanh: “Thời giờ không còn sớm, lại đổ tuyết lớn thế này, lão phu cũng không giữ ngươi lại. Mộ công tử đi bộ mà tới, e giờ trở về bất tiện, có muốn lão phu sai người đánh xe đưa ngươi về không?”

Ánh sáng chớp lóe trong mắt Mộ Phù Sanh, hắn lập tức gật đầu không khước từ: “Vậy phải làm phiền Lương lão gia.”

Lương lão gia xoay người vào trong sai hạ nhân chuẩn bị xe, Mộ Phù Sanh dừng một chút, hắn bước về phía Dung Lạc.

Tuyết rơi dày, hai mắt Dung Lạc mê mang, ngoài trừ sắc đen tối của bầu trời còn cả mảng trắng của tuyết ngàn.

Thấy dáng người thon dài thân thuộc bước về phía mình, chẳng hiểu sao Dung Lạc lại có chút hoảng hốt.

Trái tim nổi nhịp “thình thịch”, vô thức muốn xoay người chạy trốn.

Nhưng mặc cho ý muốn ấy có mạnh mẽ đến cỡ nào, y vẫn không thể cử động bước chân cho được.

Rốt cuộc, Mộ Phù Sanh cũng bước tới bên người y, đôi mắt bao ẩn nỗi ưu sầu đươm đầy, hắn tỉ mỉ nhìn một lúc, chợt cất lời.

Nhưng Dung Lạc lại hoàn toàn không nghe thấy hắn nói gì, lỗ tai chỉ vang dội tiếng “Ong ong”.

Vạn vật trong mắt y hầu như đang lung lay sắp đổ.

Mộ Phù Sanh do dự vươn tay, Dung Lạc vô thức cầm cánh tay hắn.

Phảng phất như khí lực toàn thần đều bị rút cạn, Dung Lạc nghiêng ngả, cuối cùng mắt tối sầm, ngã vào một vòm ngực ấm áp vững chãi.