Lão Lý lúc này lại làm ra vẻ điềm đạm, dựa lưng vào ghế, phe phẩy quạt lông đủng đỉnh nói: - Tất nhiên, ngươi theo đại soái còn ngắn, nên chưa hiểu bản lĩnh đại soái thôi, Tiêu Hỏa Nhi là hạng tiểu nhi vô danh, dựa vào phúc ấm tổ tiên mà nắm quyền lớn, đại soái đánh thắng là hiển nhiên, một trận Thiên Quan, đại quân nước Liêu tan vỡ, năm vạn quân trốn chạy được chưa tới một nghìn mà thôi.
- Chủ tướng Tiêu Hỏa Nhi bị bắt, quan hậu cần Ô Cốt Độc bị bắt, hơn ba vạn tù binh đang giúp quân ta xây dựng thành trì mới ở Hà Khúc.
Lý Đông Sở hoan hỉ tới mức không biết phải thể hiện niềm vui thế nào, hết ngồi xuống lại đứng lên, hai tay liên tục trà vào nhau, giọng nói vô cùng phấn khích: - Giám quân, tin này hẳn cũng đưa tới phía địch, là lúc sĩ khí bọn chúng đi xuống, mạt tướng nhiều ngày qua quan sát cách đánh của Quách Hằng Xuyên đã phát hiện sơ hở của chúng, hay là cho mạt tướng đột kích một chuyến, đánh tan khí thế của Quách Hằng Xuyên.
- Không được, dứt khoát không được, quá mạo hiểm, chuyện gì cũng phải đợi đại soái về hẵng tính, nay chúng ta vẫn ít quân, không thể để tổn thất, giữ vững Nhạn Môn quan giao cho đại soái là công đầu rồi, ngươi không cần phải đi so với Lang Thản. Lý Thường hết hồn phản đối ngay, thấy Lý Đông Sở thất vọng ra mặt thì bước tới ấn hắn ngồi xuống ghế, chân thành khuyên: - Quách Hằng Xuyên đâu phải như tên nhãi Tiểu Hỏa Nhi, chúng ta có được hai nhi tử của lão ta trong tay vậy mà không thể làm lão ta loạn lòng, tấn công càng quyết liệt, có thể thấy lòng dạ sắt đá ra sao, đâu có thể vì tin Tiêu Hỏa Nhi bại trận mà rối loạn, hay có thể dễ dàng lộ sơ hở được, chẳng may chúng ta trúng phải kế lão ta thì sao? Đột kích chẳng may thất bại, Nhạn Môn Quan sẽ nguy hiểm, chúng ta dù có chết trăm lần cũng không đủ đền tội.
Lý Đông Sở như tỉnh ngộ, đứng lên chắp tay vái rồi: - Mạt tướng lỗ mãng rồi, thật hổ thẹn, giờ mạt tướng về Thiết Khỏa Môn kiên thủ, không cho một binh một tốt nào ra ngoài quan, nếu không sẽ mang đầu về gặp giám quân.
Thở phào một tiếng, Lý Thường vỗ vai hắn: - Tướng quân có tâm tư đó là lão phu yên tâm rồi, chỉ cần cố thủ không ra, Quách Hằng Xuyên không thể làm gì được, đợi đại soái về, lão phu sẽ thỉnh công cho, đừng lo lắng gì hết.
Trong lòng đã quyết, Lý Đông Sở vội vàng rời soái trướng, dẫn đám thân tín uống no một bụng nước đi theo, rời xa quân doanh rồi, một thân tín mới hỏi: - Tướng chủ, chúng ta có định đột kích Quách Hằng Xuyên bao giờ đâu? Trưa nay ngài còn nói phải dùng sự hiểm yếu của Thiết Khỏa Môn tiêu hao hết máu huyết của người Liêu cơ mà.
Lý Đông Sở cười nhạt: - Ngươi thì biết cái gì, chúng ta đánh trận, ông ấy trốn ở soái phủ không ra ngoài nửa bước, mấy ngày trước còn nói mình bị bệnh suýt chết, vừa xong ngươi cũng thấy rồi, trông có giống bệnh tật không?
- Thì quân ta từ trên xuống dưới có ai không biết ông ta là con quỷ nhát gan, theo đuôi đại soái còn dám sủa vài tiếng, đại soái đi rồi thì chẳng là cái gì? Nhưng mà liên quan gì tới việc chúng ta đột kích, con bà nó, khác gì chui đầu vào miệng hổ, Quách Hằng Xuyên đợi chúng ta đôt kích tới mỏi cổ rồi.
- Ngươi đi theo ta mười mấy năm uổng phí rồi, có điều vừa rồi ngươi so sánh rất xác thực. Lý Đông Sở giảm bớt tốc độ ngựa, nói: - Đại soái là con hổ, vì sao theo sau lưng hổ lại có một con chó, mà quan hệ hai bên còn không tệ. Vì hổ không sợ bất kỳ kẻ địch nào trên chiến trường, nhưng sợ có kẻ bắn trộm phía sau, chó không lên chiến trường được, nhưng khứu giác nhạy bén, giỏi phát hiện tiểu tặc cắn trộm.
- Lão tử trước kia không hiểu đạo lý này, cho nên mới cùng các ngươi ăn rau nuốt cỏ phòng thủ Ninh Vũ quan, ta nói muốn đột kích Quách Hằng Xuyên, mục đích là vì để giám quân đính chính, cảnh cáo. Quân đội phải có cái sai thì ý nghĩa giám quân mới thể hiện được, hiểu chưa?
Thân tín mắt sáng lên, tát mình một cái: - Thuộc hạ hiểu rồi, quan trên thích nhất là thuộc hạ biết làm việc, thi thoảng lại phạm lỗi, để quan trên nhắc nhở, như thế quan trên mới thấy nhờ có mình che chở mới có thể thành công, khi lập công mới không bị quan trên coi là uy hiếp.
- Hắc hắc, đúng thế, loại thuộc hạ mà cái gì cũng tự làm được, quan trên không áp chế hắn thì áp chế ai? Lão Tử trước kia là thế, Ninh Vũ quan chưa từng xảy ra chuyện, không cần Nhạn Môn Quan hỗ trợ, cho nên Cao Kế Tuyên không có cơ hội lên mặt quan trên với ta, kết quả chúng ta chịu khổ mười mấy năm.
Thân tín chỉ lá cờ chữ Vân bay phần phật, hỏi nhỏ: - Tướng chủ cũng làm thế với Vân soái sao?
- Ngu xuẩn, lão tử học thứ này từ Vân soái đấy, dám múa rìu trước mắt thợ khác gì chuốc khổ vào thân, trước mặt đại soái ngươi có bao nhiêu bản lĩnh thì lấy bấy nhiêu bản lĩnh ra, đại soái là hổ, đâu phải chó mà sợ thuộc hạ hơn mình, mà phải áp chế thuộc hạ của mình.
Những lời này mà tới tai Bàng Tịch, Hàn Kỳ thì chắc họ hộc máu mồm, luôn cho rằng Vân Tranh dại dột khơi lên hùng tâm của Triệu Trinh kết quả là nhận trái đắng, vác đá đập chân mình, không biết rằng Vân Tranh ngửi ra sự khác thường của Triệu Trinh lâu rồi, cho nên y lợi dụng tình thế danh chính ngôn thuận chuồn ra Nhạn Môn Quan phong lưu khoái hoạt, để bọn họ ở trong kinh sống trong thấp thỏm lo sợ.
À nói Vân Tranh phong lưu khoái hoạt thì không đúng lắm, vì Cát Thu Yên rất muốn ở nơi chiến địa thụ thai kiếm nhi tử đại anh hùng, nhưng Vân Tranh không chịu.
Triệu Vũ Linh Vương và hoàng hậu của ông ta cũng vì muốn sinh nhi tử anh hùng, sau đại chiến ân ái trên chiến trường, kết quả là họ thành công rồi, nhi tử của bọn họ sau này giam Triệu Vũ Linh Vương ở Sa Khâu cung cho chết đói.
Vì thế bất kể Cát Thu Yên có giở thủ đoạn mê hoặc thế nào, Vân Tranh cũng quyết tâm lòng như giếng sâu.
Ngồi trong xe xem văn thư, Cát Thu Yên ghé vào lòng kêu như mèo, cặp mông tròn lẳn đong đưa, Vân Tranh vươn tay vỗ đét một cái, thế là tiếng mèo kêu biến mất, Cát Thu Yên hậm hực đạp chân mấy cái, kéo tấm chăn mỏng quay mặt vào tường ngủ.
Văn thư xem mãi không hết, trước kia có Lão Tô đâu phải vất vả thế này, Tô Thức không đủ kinh nghiệm, nên Vân Tranh phải tự mình phê duyệt, còn chiến báo khắp nơi nữa, tướng sĩ ở Hà Gian phủ và Địch Châu phủ tuy giữ được phòng tuyến, nhưng tổn thất nghiêm trọng.
Tín An quân trú ở Bá Châu bị người Liêu đột phá, mất liền ba trại, đang phải dựa lưng vào đầm lầy tử chiến, tướng chủ Hà Lãng đã gửi thư tuyệt mệnh cho hoàng đế, để triều đình chuẩn bị tinh thần khi Nhạn Đầu trại thất bại.
Bá châu mất, Hùng châu sẽ bị uy hiếp, Hùng châu mất thì một dải phòng tuyến Hà Gian phủ sẽ bị thủng, sau Hùng châu thì không còn chỗ hiểm yếu nào nữa, kỵ binh người Liêu thoải mái rong ngựa nam hạ.
Hiện giờ Vương An Thạch thực thi Thanh miêu pháp và Nông điền thủy lợi pháp, làm nông nghiệp khôi phục lại chút sinh khí, lúc này không thể để kỵ binh người Liêu tràn xuống họa hại, nếu như nhiệt tình của bách tính bị chiến hỏa hủy mất, không biết khi nào mới khôi phục được.
Vân Tranh đặt văn thư xuống thở dài, thế lực của Khổng gia vẫn chưa trải khắp Yến vân, loại người Hán nhưng một lòng với Liêu như Quách Hằng Xuyên có khắp nơi, đại quân muốn vào Yến Vân chỉ e không khác nào tình trạng của Lang Thản ở Thiên Quan, thậm chí còn tệ hơn.
Vân Tranh vén rèm xe ngựa nhìn tịch dương trải xuống Chu Gia hà, gió tối phất qua man mát làm lòng người sảng khoái, mặt sông sóng bạc lăn tăn, thi thoảng có cá nhảy lên, có sơn, có thủy, có bình nguyên, đây đáng lẽ phải là một nơi lắm cá nhiều thóc mới đúng, nhưng vì kẹp giữa biên cảnh ba nước, nên vô cùng hoang vu.
Trong đồng ruộng lác đác, lúc này chỉ có mấy người gia tóc bạc phơ vất vả, thanh tráng niên, phụ nhân trẻ nhỏ, đều không thấy một người, thi thoảng người trong ruộng lại đưa mắt nhìn nhanh quân đội một cái rồi cúi đầu xuống, tư thế thì sẵn sàng bỏ chạy bất kỳ lúc nào.