Thuận Thiên Kiếm - Rồng Không Đuôi

Chương 280: Hồi hai mươi lăm (5)

Tối ấy, Lí Thường Thắng mang rượu đến đòi đối ẩm tâm sự với Tạng Cẩu, dây dưa thế nào đến tận sáng, thành ra hai người đành án binh bất động.

Phải sang hôm sau, lúc này Lí phủ bận chuẩn bị cho đại hội võ lâm vào ngày mai, hai người mới có cơ hội đi dò la tin tức. Tạng Cẩu bèn dùng Phách Không chưởng đánh vào tấm cửa. Nội lực Bách Quỷ Dạ Hành đặc thù, tức thì kình phong rít lên nghe như tiếng chân người hối hả chạy. Bốn phía tức thì có mấy bóng người nhảy ra chạy về bên ấy.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương bấy giờ mới tranh thủ mở cửa, rồi dùng khinh công nhảy ra khỏi cửa tây. Đêm trăng vằng vặc, cậu chàng mơ hồ phát hiện bốn phía đều có người đứng canh chừng. Thầm nghĩ:

[ Lăng Không Đạp Vân và Bách Quỷ Dạ Hành thần kì thế này, các đời Quận Gió không đi làm trộm thì cũng phí của trời. ]

Hai người cứ men theo bờ tường, luồn lách giữa các lối nhỏ đình viện, đi chừng thời gian uống xong chén trà thì trước mặt xuất hiện một hoa viên. Tạng Cẩu thấy giữa đêm tối trời mà hoa viên noi vẫn có ánh sáng vàng hắt ra tận lối nhỏ chẳng khác gì ban ngày, không khỏi kinh ngạc.

Lúc này lại có tiếng đàn cất lên, dập dìu trầm bổng, da diết ngâm nga.

Thế rồi, trong vườn hoa chợt có tiếng người lên tiếng:

“ Đồng bào từ xa đến tệ xạ, không kịp khoản đãi. Xin mời Quận Gió tân nhiệm là Tạng Cẩu thiếu hiệp và Hương công chúa vào gặp mặt. ”

Kinh ngạc hơn, kẻ vừa lên tiếng dùng tiếng Việt!

Tuy thói quen dùng từ vẫn còn lai lái tiếng Trung, chứng tỏ người này học tiếng Hán là tiếng mẹ đẻ, sau này lớn lên mới học thêm cả tiếng Việt, nhưng khẩu âm chẳng khác nào người nước Nam. Hơn thế, người này nhận ra được thân phận thật của hai người, nhất là chuyện Tạng Cẩu được Quận Gió chân truyền y bát thì lại càng khó hiểu.

Tạng Cẩu ngơ ngác nhìn Phiêu Hương, nhất thời không biết phải làm sao.

Lúc này ý nghĩ trong đầu cô nàng chuyển biến nhanh như điện, chớp mắt đã đoán được đại khái người lên tiếng hẳn là chủ nhân của Lí phủ.

Cô nàng bèn nói:

“ Cứ vào xem sao. Nhớ phải tĩnh quan kì biến. ”

Hai người theo đường mòn trải đá trứng ngỗng, qua một lần cổng tròn, thì đến một đoạn hành lang gấp khúc. Tuy tứ phía sáng rực nhưng chẳng thấy mùi khói đuốc cay mắt, hay hơi nóng phả ẳm, bởi mỗi cây cột gỗ đều khảm một viên Dạ Minh Châu soi sáng, tính ra dễ đến mấy chục viên. Phải biết thời ấy Dạ Minh Châu là thứ giá trị liên thành, đủ thấy Lí phủ này hoa lệ bực nào.

Hành lang len lỏi giữa cây quý hoa lạ, núi giả ao sen, hài hoà vừa vặn. Hương sen thanh mà không nồng, lẫn trong mùi gỗ trầm từ cột kèo khiến Tạng Cẩu và Phiêu Hương khoan khoái lạ, thần thanh khí sảng. Tuy là hoa lá um tùm, nhưng tỉa tót cẩn thận, nên dẫu có đứng ngay sát lan can mà ngó ra cũng không có cành lá nào quét vào mặt.

Hai người đi hết hành lang gỗ thì đến một ngôi đình nhỏ.

Trong đình bày một cái bàn đá trắng, mấy cái ghế con, trên bàn đặt một cây đàn bầu một dây. Bấy giờ đang có một trung niên ngồi gảy đàn, ấy là khúc cổ cầm Xuất Tái khúc của Vương Chiêu Quân lúc gả đến Hung Nô. Vốn dĩ khúc này đánh bằng hồ cầm ba mươi sáu dây, trung niên nọ biến tấu dùng đàn bầu một dây gảy nên, lại có một tư vị khác.

Y gảy xung một khúc, thở dài nhìn lên trăng sáng, ngâm khẽ:

“ Sàng tiền minh nguyệt quang.

Nghi kị địa thượng sương.

Cử đầu vọng minh nguyệt.

Đê đầu tư cố hương. ”

Hồ Phiêu Hương bấy giờ mới nói:

“ Bác đây giấu nỗi nhớ quê hương cố quốc trong thi ca, phải chăng có điều khó nói? ”

Trung niên bèn hỏi:

“ Công chúa đoán được tâm sự của tại hạ? ”

Hồ Phiêu Hương đáp:

“ Đã là dân mất nước, cái hư danh ấy cũng nên bỏ đi thôi. Không dám nói hiểu hết, nhưng một chút tâm tư thì cháu thấu được. ”

Tạng Cẩu nghe hai người nói chuyện, ù ù cạc cạc chẳng hiểu gì cả.

“ Mời nói… ”

Trung niên vuốt cần đàn một cái sau cuối, rồi lên tiếng.

Hồ Phiêu Hương bèn đáp:

“ Khúc phổ ngài khảy là Xuất Tái khúc của Vương Chiêu Quân, tương truyền sáng tác khi bà ra biên ải làm dâu xứ người. Tiếng đàn thê lương ai oán đến độ nhạn trên bầu trời nghe được cũng chẳng thiết sống, đâm đầu xuống chết. Từ ấy Chiêu Quân có hiệu là Lạc Nhạn. ”

Cô nàng chậm rãi kéo ghế, ngồi xuống nói:

“ Còn bài thơ thì là bài Tĩnh Dạ Tứ của thi tiên Lí Bạch. Riêng câu cuối ngày ngân rất nhập tâm, nói lên nỗi lòng nhớ về cố quốc. ”

Trung niên nọ dẹp cây đàn, nói:

“ Hai vị đến tận đây, hẳn là vì cách phá giải thế Rồng Không Đuôi và bí mật của chìa khoá có phải không? ”

“ Còn ngài đây, không phải là hậu duệ của Thánh Chèm đấy chứ? ”

“ Công chúa đoán không sai, Lí Thân chính là tiên tổ của tại hạ. ”

Hồ Phiêu Hương nghe đến đây, chợt nhíu mày.

Cô nàng đảo mắt một cái, rồi lại hỏi:

“ Tại sao ông biết thân phận của chúng tôi? ”

Lí lão cười nhạt, đáp:

“ Quận Gió đời trước với cha ruột tại hạ là chỗ quen biết, tất nhiên tại hạ nhận ra được sở học của ông. Hồi ấy ở Tất gia trang đã được chứng kiến Tạng thiếu hiệp đây động thủ, tự nhiên là biết. ”

Nói đoạn, lão chậm rãi đứng dậy khỏi ghế, nhẹ nhàng tiến ba bước.

Tạng Cẩu bèn nói:

“ Nếu đã nặng lòng với Đại Việt, sao gia tộc ông khư khư giữ mộ, mà không lấy lại bí mật Rồng Không Đuôi đem về Đại Việt? ”

“ Có phải bản nhân không muốn đâu?? Là cái chìa khoá, thiếu hiệp ạ. Thứ này lưu lạc ở phương Nam tính đến nay cả hai ngàn năm, cửa một nơi chìa một nẻo thì mở bằng cách nào?

Huống hồ, tại hạ nghĩ chìa khoá đang nằm trong tay hai người. ”

Xét gia phả mấy trăm đời, thì quả thực Lí phủ ở Tây An này là dòng chính hậu duệ của Thánh Chèm.

Năm xưa Thánh Chèm quyên sinh, Tần Thuỷ Hoàng xây mộ ông ở Tây An, đúc tượng người sắt như thật. Vợ ông là hoàng phi Bạch Tĩnh Cung – con gái Tần Thuỷ Hoàng, xin cha cho ở vậy chăm con, lo mộ chồng. Trải qua mấy thời chiến loạn, li tán, tuy người chết vô số, song cũng giữ được hương hoả dòng chính. Đến nay lại khai chi tán diệp ở Tây An, trở thành một đại gia tộc lớn bậc nhất phía bắc Trường Giang.

Hồ Phiêu Hương nheo mắt:

“ Nếu đúng thế thì sao? ”

“ Vậy mau lấy ra! Tại hạ được biết tiên tổ có để lại một thứ vũ khí vô địch, địch được ngàn quân đấy! Có nó lo gì không phá được giặc Minh? ”

Lão vừa nói, vừa phủi phủi bàn tay.

“ Chẳng lẽ kiếm Thuận Thiên thực sự có thật? ”

Hồ Phiêu Hương thấy y nhắc đến vũ khí vô địch, lòng hiếu kì nổi lên, lại chẳng hiểu tại sao lúc này đầu óc chợt mơ hồ không suy nghĩ kỹ càng được, thế là buột miệng.

Tạng Cẩu chợt kéo áo bạn, giật lên khỏi cái ghế, tiếc là không kịp. Chỉ thấy từ bốn phương tám hướng, dưới mặt bàn, dưới chân ghế đều có xiềng xích bắn ra, trói nghiến cả hai lại. Tạng Cẩu thử vận kình, nào ngờ đống xích tự nhiên trở nên nặng kinh hồn bạt vía, xem kỹ lại mới thấy té ra xiềng xích đều làm từ đồng đen.

Té ra ngôi đình nhỏ này có bẫy, chốt mở đặt dưới viên gạch mà Lí lão vừa mới dẫm vào.

Lão lúc này mới kinh hô lên thật to:

“ Chư vị đã nghe cả rồi chứ! ”

Tạng Cẩu và Phiêu Hương tuy bị trói nghiến, nhưng tai không điếc mắt không mù, tự nhiên có thể thấy tứ phía túa ra rất nhiều người của các bang các phái.

Có Nguyên Mãn đại sư, Diệu Định sư thái, Quảng Thành tử…v.v… cả thảy đều xuất hiện. Đứng xa hơn, lố nhố nơi đầu tường, ngồi la liệt trên mái nhà là nhiều võ lâm nhân sĩ nữa.

Chấn Nguyên Tử bèn quát:

“ Đấy chư vị thấy chưa? Năm năm trước đã sớm nói hai tiểu tặc này có tà tâm, chẳng hảo ý gì với Đại Minh ta đâu! Bây giờ thì thế nào??? ”

Nguyên Mãn đại sư cũng thở dài, niệm Phật hiệu mà không nói gì.

Diệu Định sư thái quắc mắt như điện, nói chậm rãi đều đều mà ngữ khí lạnh như băng:

“ Hai tiểu tử An Nam, uổng cho năm xưa ở Tất gia trang bần ni đã tha mạng các ngươi, thật là thả hổ về rừng! Hôm nay bần ni phải thay trời hành đạo! ”

Tạng Cẩu khi không lại bị xích trói nghiến lại, đã vậy chẳng hiểu vì cớ gì mà lửa giận trong lòng bùng phát không tài nào kiềm chế được. Lúc này tuy hai tay đã bị trói chặt, nhưng hai chân vẫn còn cử động, bèn quát:

“ Giở trò ngậm máu phun người, đánh lén như thế, còn xứng làm tiền bối trong võ lâm hay sao??? ”

Diệu Định sư thái quát:

“ Khá khen cho tên tiểu tặc, chuyện bỉ ổi bản thân làm ra chẳng nhẽ còn không nhận hay sao? Tiếp chiêu! ”

Hồ Phiêu Hương cũng ấm ức nói:

“ Cẩu, người ta là người Tàu, lẽ dĩ nhiên là muốn cướp đi nghìn dặm sông núi Đại Việt ta! Trước lợi ích dân tộc, quả thực chẳng còn kể đúng sai phải trái chi hết, lấy oán báo ân! Chúng ta nhìn nhầm người rồi. ”

“ Còn giảo biện? ”

Diệu Định sư thái quát lớn, kiếm trong tay đâm ra như thiểm điện.

Tạng Cẩu gầm lên:

“ Năm năm trước ta kính bà, cũng không đánh lại bà! Nhưng giờ đây thì khác! ”

“ Cá nằm trong rọ còn già mồm? Động thủ đi! ”

Diệu Định sư thái thấy một thằng nhóc còn chưa thành niên chẳng thèm coi mình ra gì, bèn xuất kiếm đâm liền năm bảy nhát.

Tạng Cẩu cười khẩy, nói:

“ Đánh bại bà cần quái gì phải dùng đến đôi tay? ”

Đoạn sử dụng vô ngã, kiếm của Diệu Định sư thái vừa chém ra thì cậu chàng cũng co chân xỉa ra một cái. Tốc độ ngọn cước thật là như điện xẹt, kình phong rít lên ầm ầm. Diệu Định sư thái cũng phải bàng hoàng, vội sử một chiêu Bạch Vân Xuất Tụ, ý đồ hoá giải thế công.

Nào ngờ Tạng Cẩu biến chiêu còn nhanh hơn. Chỉ thấy cậu chàng tung người, cước thế chuyển từ đâm thẳng sang đá ngang. Diệu Định sư thái vốn mang lòng xem nhẹ, không kịp hoàn thủ, bị đá trúng bốn cái nặng như núi đè.

Lúc này lửa giận Tạng Cẩu ngút trời, ra tay chẳng còn biết nặng nhẹ chi cả. Bốn cước này xuất ra, ba thức là trong Diệt Tuyệt Tam Bộ, đòn cuối cùng lại là võ học thành danh của bốn lão Địa Khuyết Thiên Tàn là chiêu Chân Cứng Đá Mềm. Diệu Định sư thái chỉ thấy hùng kình đánh vào người, rồi dội ngược ra liên hồi, kình phong nổ bùng như tiếng quỷ khóc, khiến bà ta cơ hồ tẩu hoả nhập ma. Kế đó từng chiêu từng chiêu đá vào mạng sườn, tiếng xương gãy tức thì vang lên răng rắc, nghe mà rợn người.

Diệu Định sư thái bị Tạng Cẩu dùng sức đá mạnh như vậy, thế mà không bay đi, trái lại đổ gục ngay dưới ngôi đình, miệng nôn máu hôn mê, chỉ còn nửa cái mạng. Tạng Cẩu cáu tiết đạp một chân lên mặt bà ta, quát:

“ Còn ai không phục nữa??? ”