Cô nàng lơ đãng nhìn theo một chiếc thuyền buôn vừa mới tháo dây neo rời bến, cánh buồm giương ra đón gió căng phồng lên. Hoa lả tả rơi theo cơn gió, tựa hồ muốn đuổi theo con thuyền đương rẽ sóng. Nhưng thuyền kia vẫn vô tình tăng tốc, nương theo cơn gió mạnh phóng mình hướng về dòng sông Hoàng Hà. Cánh hoa kia rốt cuộc chẳng thể tìm đến con thuyền, đậu xuống bến nước lạnh giá, sau cùng chẳng biết trôi đến phương nào.
Chợt sau lưng Hồ Phiêu Hương có tiếng gọi cất lên:
“ Xin lỗi nhé, chờ có lâu không? ”
Người đến tất nhiên là Tạng Cẩu.
Cậu chàng chạy đến bên cạnh cô bạn, vươn vai, nhắm mắt thưởng thức từng chút từng chút ấm áp của nắng sớm rơi lên gương mặt. Mùi hoa thoang thoảng lướt qua, không thanh thoát như sen, chẳng nồng nàn như lài. Đằm một hương hoa sữa khiến cho hai cánh mũi Tạng Cẩu máy động, không khỏi nhớ về một chiều thu Kinh Bắc.
“ Cẩu làm cái gì mà lâu thế? ”
Hồ Phiêu Hương quay sang, cau mày với cậu chàng.
“ Rửa bát mà được bằng một nửa lúc Cẩu khinh công thì đã xong từ đời nào rồi. ”
Tạng Cẩu ho khan mấy cái, đoạn gãi đầu:
“ Tớ mà không rửa kỹ, Hương về thấy bát đĩa bẩn thể nào cũng cằn nhằn tớ cả tối cho xem. ”
“ Thế bây giờ lại thành tại tớ à? ”
Tạng Cẩu thấy cô bạn có vẻ muốn nổi quạu, bèn vội vàng chuyển chủ đề:
“ Tại tớ, là tại tớ. Nhưng mà… sao tớ nghe như có mùi hoa sữa? ”
Hồ Phiêu Hương thản nhiên đáp:
“ Thì đúng rồi.”
“ Bên Tàu cũng có hoa này à? ”
Tạng Cẩu nhắm mắt, hỏi.
“ Tất nhiên là không. Nhưng có người đưa đến cho tớ. ”
Nói đoạn, Hồ Phiêu Hương vỗ vào cái túi lụa đeo lủng lẳng ở thắt lưng. Có vẻ cô nàng học cách làm túi thơm, rồi lấy hoa sữa bỏ vào đấy.
Tạng Cẩu lúc này mới chợt hiểu, nói:
“ Thì ra cậu dẫn tớ xuống thị tứ là muốn tớ gặp một người phải không? ”
“ Không sai. Một người Đại Việt. Hơn nữa còn là người quen cũ của mình đấy. ”
Hồ Phiêu Hương mỉm cười, đoạn chỉ tay về phía quán trà:
“ Đi thôi. Người ta chờ nãy giờ rồi đấy. ”
Tạng Cẩu tự nhủ không biết người nào lại vượt ngàn dặm từ Đại Việt lên tận nước Tàu để gặp hai người. Phải biết bây giờ là thời loạn, người ta đề phòng gian tế trà trộn rất gắt gao, thành thử biên ải đều bị phong tỏa. Muốn từ nam lên bắc, từ bắc xuống nam, thì phải đi qua vùng núi rừng phía tây bắc Đại Việt, sau đó xuyên qua vùng núi Xuyên Thục mới vào được đến trung nguyên.
Hành trình này chẳng những lâu, còn khó khăn nguy hiểm trùng trùng. Nếu không có trí có dũng, thì tuyệt đối không đi nổi. Ngay cả bốn lão Địa Khuyết Thiên Tàn những năm gần đây cũng không thể thường xuyên vào Đại Minh dạy võ cho cậu chàng.
Tạng Cẩu tự hỏi…
Nếu có người nào hội tụ cả trí và dũng để vượt qua núi non cách trở, lại là người quen của cậu chàng, thì có lẽ chỉ có một người mà thôi.
Tiết trung thu đã qua được nửa tháng, đang buổi nông nhàn, người ta bắt đầu rủ nhau tìm lấy một cái nghề phụ mà làm để mưu sinh. Quán trà cũng vì thế mà đông khách hơn mọi ngày.
Trà lầu cũng vì thế mà náo nhiệt.
Người ta đến đây uống trà, nói chuyện, kẻ thì vì mưu sinh, người thì vì khuây khỏa… duy chỉ có một ông sư già nua ngồi một mình ở bàn trong góc của quán trà là khác biệt. Lão đến đây không phải vì mưu sinh, cũng không phải để giải sầu. Lão cứ ngồi một mình, đổ trà ra chén, đoạn nhắm mắt lẩm nhẩm như đọc kinh. Cũng chẳng thấy lão dừng lại uống trà, mãi đến khi nước trà nguội ngắt lão mới mở mắt, lấy trà trong chén đổ lại vào bình, rồi rót thêm một chén.
Người ta thấy lão kì lạ, đều cho là bị điên, nên không lí gì đến nữa.
Tiểu nhị lúc thấy lão bước vào, ăn bận rách rưới, mình mẩy hôi thối thì đã muốn đuổi ra khỏi cửa. Nhưng rồi thấy lão cười lành quá, y lại không nỡ đuổi nữa.
Lão hòa thượng vừa mập vừa lùn, trông chẳng khác nào cái chuông, nhìn đến là tếu. Nhưng hiếm thấy là cái nét cười của lão. Hình thể của lão tuy không đến mức xúc phạm người nhìn, nhưng cũng chẳng thể coi là đẹp đẽ gì cho cam, tuyệt không thể coi là mĩ nam mĩ nữ gì… Coi như là hai chữ “ tầm thước ” gán cho lão cũng hơi gọi là nói quá lên. Nhưng nhìn lão cười toe toét, nghe tiếng lão giòn tan, người ta thấy thư thả, bao nhiêu phiền muộn trong lòng đều như có cánh. Nên tuy là lão hôi rình, không ai lấy làm khó chịu.
Tạng Cẩu và Phiêu Hương vào quán, trông thấy lão.
Hai người không nhịn nổi, reo lên như hai đứa trẻ.
“ Ông Khiếu Hóa! ”
Rồi cả hai cùng chạy. Mỗi bước chân là một năm trôi về quá khứ. Khinh công của cả hai đều rất cao, nên chỉ năm sáu bước là chạy đến bên ông sư.
Kí ức của hai người cũng quay trở lại cái miếu hoang nọ, lúc sư phụ hai người – Quận Gió – dẫn họ đến nhờ ông sư già trông nom.
Người xuất hiện ở quán trà đích thực là Khiếu Hóa tăng.
Bảy năm không gặp, giờ lão đã già hơn xưa một chút, lông mày đã điểm bạc. Nhưng có lẽ vì cái cách lão sống, cái cách lão cười, nên năm tháng không hề lưu dấu trên cái bản mặt tròn tròn của lão. Quả thực giống một lão trẻ con.
Khiếu Hóa tăng gặp lại hai người, bèn giang rộng hai tay, đón Tạng Cẩu và Phiêu Hương nhào đến.
Lão lại dựng họ lên, lấy hai bàn tay sờ lên mặt, đặt lên trán cả hai, rồi mới chép miệng:
“ Hai đứa lớn thế này rồi đấy à. Thầy chúng mày mà biết chắc mừng lắm. ”
Ông nhắc đến thầy, khiến lòng cả hai bất giác chạnh lại. Niềm vui mừng vì được gặp lại ông sư già cũng vì vậy mà thiếu đi cái trọn vẹn.
Tạng Cẩu nói:
“ Ông vượt ngàn dặm đường, chắc không phải chỉ để thăm chúng con xơi xơi thế đấy chứ? ”
Không phải cậu chàng không muốn gặp lại Khiếu Hóa tăng, ngược lại là khác. Dù sao, môn võ chó Khiếu Hóa dạy, Tạng Cẩu vẫn dùng đến tận bây giờ. Song nói sao thì nói, chặng đường từ Đại Việt lên tận phương bắc xa xôi này thực là hiểm trở, nguy hiểm trùng trùng. Nếu không phải có việc trọng đại, có lẽ Khiếu Hóa tăng đã không việc gì phải lặn lội đến tận nơi gặp hai người.
Thế nên lần này ông sư già xuất hiện, hẳn là có chuyện động trời.
Khiếu Hóa tăng quả thực có chuyện lớn cần phải nói cho hai người.
Chuyện lớn này… liên quan cái bí mật đằng sau chìa khóa Loa thành hai người đang giữ.
Khiếu Hóa tăng bèn hỏi:
“ Hai đứa đã giải được manh mối nào về vật của thánh tổ hay chưa? ”
Tạng Cẩu đảo mắt, thầm suy đoán rằng ông sư già đã được bốn người Địa Khuyết Thiên Tàn kể cho chuyện cái chìa khóa.
Hồ Phiêu Hương tuy rằng không đoán được vì sao Khiếu Hóa tăng lại biết về cái trống đồng con đấy, nhưng cô nàng thầm nghĩ ông sư này là bạn thân của thầy. Mà Quận Gió vốn là vua giới lục lâm, không thể không có thuộc hạ trung thành ngày trước. Chắc hẳn một trong số bộ hạ cũ của vua trộm đã báo cho ông biết. Dù sao, Tạng Cẩu lúc mang trống về cũng không nói rằng chuyện này chỉ một mình cậu chàng biết.
Hai người thở dài:
“ Cũng chưa đâu vào với đâu cả. Hiện tại bọn cháu biết manh mối tiếp theo nằm trong một quyển kinh ở Thiếu Lâm tự, tên là Niết Bàn kinh. Năm đó thánh tổ lên Tàu cuỗm đồng, đã đi qua Thiếu Lâm, giao lại quyển kinh cho trụ trì bảo quản. Chính thánh tổ cũng giao phó rằng người nào muốn có quyển kinh này thì phải vượt qua được trận mười tám người đồng canh giữ Tàng Kinh các mới được. ”
“ Rồi sao… ”
Khiếu Hóa tăng cau mày.
Tạng Cẩu đáp:
“ Khốn một nỗi là võ công của những người đồng này rất cao. Bọn cháu bị vây ở đây năm năm mà cũng chưa phá được trận. Chẳng biết đến năm nào tháng nào mới tìm được kinh Niết Bàn nữa. ”
Hồ Phiêu Hương chợt đảo mắt, rồi nói:
“ Ông Khiếu Hóa, ngày mai là lần phá trận tiếp theo, chi bằng ông theo giúp sức cho bọn con? Võ công của ông và họ đều là công phu của nhà Phật, biết đâu lại tìm được cách phá giải? ”
Khiếu Hóa tăng nói:
“ Thế thì để ông thử một chuyến xem sao. ”
Tạng Cẩu lại tiếp:
“ Quên nữa. Ông nói xem, ông cất công lên tận đây tìm bọn con làm gì? ”
Khiếu Hóa tăng bèn nói:
“ Thực ra, ông đã biết được mục đích thực sự vì sao thánh tổ bắc tiến, cũng như bí mật đằng sao chiếc chìa khóa nọ. ”