Thất Sơn Truyện

Chương 41: Phần 19 Xác ôm xác

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Hai bức vẽ, một bức ở tòa điện khổng lồ bên dưới, một bức trên cánh cửa làm chúng tôi đứng đực ra, không biết phải suy nghĩ như thế nào cho đúng. Nhìn vào nét vẽ có thể chắc mẩm là cùng một họa sĩ, ánh mắt, cử chỉ, cách tô màu, bố cục đều mang nét tương đồng, thêm vào đó là biểu tượng chim thần dang cánh và mười tám bóng đen vây quanh, đứa trẻ lên ba còn hiểu thừa rằng người họa sĩ này đang khắc họa một câu chuyện duy nhất. Thế nhưng, tại sao ở bên dưới là một người có hai đầu tứ chi, còn bức vẽ trên cánh cửa là hai người riêng biệt đang đứng đâu lưng vào nhau. Còn một chi tiết cũng khó hiểu không kém: nét đứt ở chỗ bả vai giờ được thay thế bằng một món trang sức được kết thành từ những cọng lông chim, che mất đi vị trí kết nối. Anh Hùng bảo Tú Linh hãy đọc lại dòng kinh văn, phải chắc chắn một trăm phần trăm, không thôi lại đi vào bãi mai phục của Ca Lâu Thành thì cả bọn lại khốn đốn. Tú Linh nhìn anh với vẻ khó chịu, nhưng cũng hiểu ra vấn đề, cô bèn lấy những tài liệu chứa trong ba lô, tra lại từng chữ một, khẳng định đây chắc chắn là điện công chúa.

Lúc này anh Hùng mới bước về phía cánh cửa, xem xét tình hình xong anh bảo mọi người sẵn sàng chưa. Nhóm sáu người giờ chỉ còn lại bốn, riêng phần tôi dù chưa định thần lại được nhưng cũng không ái ngại gì mấy, Thùy thì… Cô đang gục mặt, anh Hùng phải gọi thêm lần nữa mới giật mình, ánh mắt đảo ngang đảo dọc, cô nói lí nhí rằng nãy giờ không nghe mọi người bàn gì hết rồi ngồi thụp xuống khóc nức nở. Nói thẳng ra, tôi hiểu tâm lý của cả anh Hùng và Tú Linh hiện giờ khi hai người bọn họ nhìn vào cảnh tượng trước mặt mình, Dũng và Châu bị con tắc kè ăn thịt, chết không thấy xác, Tùng gần như cụt mất một chân, lại rơi xuống vực, khả năng sống sót nói thẳng ra là bằng không, nhóm khảo cổ bốn người giờ còn mình Thùy, có mạnh mẽ cỡ nào cũng bị sự thật này quật ngã mà thôi. Nhớ lại hang nhện, Thùy nhất quyết đu dây xuống cứu bạn mình mặc dù không biết phía dưới có thứ gì, những lúc Tùng tái máy tay chân hại cả bọn, cô cũng không buông một lời trách mắng, chỉ muốn cả đám trở ra ngoài an toàn. Tôi nhìn cô bé trút những gánh nặng trên vai theo dòng nước mắt mà không kìm được tiếng thở dài, định bước đến an ủi thì anh Hùng đã kéo tôi lại, anh nhìn tôi kiểu như muốn nói rằng “Để anh…”

Tôi gật đầu, anh tiến về phía Thùy rồi bảo: “Lục lâm là như thế, sống nay chết mai, nhưng đó là con đường họ chọn. Em, Tùng, Dũng và Châu chỉ tình cờ bước vào Động Bát Quái, đáng ra từ đầu anh nên dứt khoát hơn, giả danh kiểm lâm hay cảnh sát gì đó đuổi em đi ra thì mọi việc có khi lại không như thế này, chỉ là anh khâm phục cái thần thái ở hang nhện của em mà thôi.” Nói đến đây, anh Hùng ngồi xuống, ánh mắt anh ngang hàng với ánh mắt của Thùy, anh cũng thở dài: “Chính cái thần thái đó đã thôi thúc anh lôi em theo, nếu không có những kiến thức của em và Tùng, hoặc những lúc hai người chỉ điểm những hiểm nguy, có khi cả bọn không thể nào đi được đến đây. Anh biết em đang lo cho Tùng, dù gì thì đó là điểm tựa duy nhất để em có thể bước ra Hang Bát Quái mà ngẩng cao đầu được chút ít. Nhưng em đừng quên, Tùng đang đi với Sinh, anh tin thằng Sinh sẽ liều mạng để cứu Tùng cho nên em đừng lo lắng quá, Tú Linh cũng đã cầm máu phần nào rồi. Vấn đề chính ở đây anh muốn nói rằng, em đã có điểm tựa của Tùng, nếu em ngồi đây khóc mếu máo trong khi bọn anh khám phá ra những bí mật cuối cùng của tòa Ca Lâu Thành huyền thoại thì được thôi, anh không ép em. Về phần em kìa, em có muốn trở về trước mộ ông nội, kể cho ông nghe về những khám phá đó không? Đó là do em quyết định hết. Vậy nhe cô bé! À, nếu em sợ, đừng quên thanh niên Thiên Hổ kia lúc nào cũng chọn phía em mà nhảy qua thôi!”

Tôi giật thót mình, nhớ lại mấy lúc trước, đúng thật là đa số tôi đều nhảy về phía Thùy, nhưng mà chỉ là trùng hợp thôi mà, hay là không phải? Hừm. Tôi nhìn Thùy, thấy cô bé cũng đang ngẩng mặt nhìn lại tôi, lấm lem nước mắt. Tôi không hiểu là do những lời động viên của anh Hùng về bí mật của Ca Lâu Thành, hay là vì Thùy cũng suy nghĩ lại về chuyện có Thiên Hổ (cái này là do tôi tưởng tượng ra thì đúng hơn) cho nên cô đứng phắt dậy, cánh tay dứt khoát lau đi những giọt nước mắt rồi nói: “Em sẽ đi tới cùng, lúc nãy trong những tư liệu mà chế Tú Linh lấy ra có cả cuộn giấy của ông nội em để lại, em nhớ là người dịch giúp em cũng có nhắc đến cánh cửa vào điện công chúa, theo thiết kế thì chín chín phần trăm đây chính là nơi đó rồi.” Thùy nói xong còn nhìn sang Tú Linh như muốn hỏi ý kiến, Tú Linh gật đầu cái rụp. Không khí u ám lúc nãy bất chợt thay đổi, mọi người, trong đó có tôi cảm thấy phấn chấn rõ rệt, không biết phía sau cánh cửa này có điều gì đang chờ đợi nhưng mà nó là đích đến, là tôn chỉ của cả chuyến đi từ Hòn Sơn Rái, qua Nam Du rồi đến Kiên Lương lần này. Tôi nín thở khi anh Hùng tiến về phía cánh cửa, như thường lệ, anh thận trọng xem xét xung quanh rồi đặt tay lên khoen cửa hình tròn có khắc đầu chim thần Ca Lâu La, anh dùng lực đẩy nhẹ, nôm có vẻ nặng hơn những cánh cửa lúc trước hay sao đó nên anh áp cả vai vào nó mọi chịu hé ra một chút, một luồng gió lạnh ngắt thổi ánh sáng vàng vọt ra ngoài, gió mạnh đến nỗi tóc tôi bay lên rối bù, phải lấy tay che mắt lại. Cũng lạ ở chỗ là mở cửa ra liền nghe tiếng nước từ đâu chảy róc rách.

Điểm giao nhau của hai cánh cửa nằm ngay chỗ đâu lưng của hai người phụ nữ trên bức bích họa, ngoài tối, trong sáng, trông họ như đang dang tay ra kéo cả bọn chúng tôi vào trong. Căn phòng này cũng giống như nhiều căn phòng khác trong Ca Lâu Thanh: rộng và cao. Điểm khác biệt duy nhất là kiến trúc của nó, căn phòng hình tròn có đường kính khoảng mười mấy mét, chạy dài theo đường tròn là tượng mặc đồ trông giống với tỳ nữ bưng bình, một mảnh vải khoác từ vai xuống đến đầu gối, vì chúng không đeo mặt nạ nên có thể thấy những chi tiết cảm xúc được khắc họa rất tỉ mỉ, tôi nhớ đến mười tám con quỷ vừa rồi mà không khỏi rùng mình, cấm trên những chiếc bình là trường minh đăng bọc trong lồng thủy tinh, đáy bình chảy ra những dòng nước, chính là âm thanh róc rách tôi nghe được lúc nãy, có khoảng hơn hai chục bức tượng như thế này, điểm cuối của dòng nước là một đài phun xây theo hình chiếc dĩa khổng lồ cao hơn đầu người, bên trên có bức tượng chim thần khép cánh, gục đầu. Sao kỳ vậy? Tôi là người cuối cùng bước vào căn phòng, không biết tôi chốt đoàn tự lúc nào luôn, lúc này cả bọn cũng đang chú ý điểm kỳ lạ của bức tượng chim thần này, tôi nhớ rõ ràng, tất cả những bức tượng, bất kể là trưng trước cổng hay khắc trên kiến trúc, chim thần đều được miêu tả hết sức dũng mãnh, lúc nào cũng dang cánh, nhe nanh, đối lập hoàn toàn với bức tượng ủ rũ trước mặt.

Anh Hùng tiến đến bức tượng tỳ nữ gần chúng tôi nhất, xem xét cái bình rồi lấy tay gạt ngang dòng nước đưa lên mũi ngửi. Anh đanh mắt lại, quay sang nhìn Tú Linh, cô cũng tiến đến làm tương tự rồi thốt lên: “Dầu đèn?”

Anh Hùng gật đầu: “Chính xác là dầu lưu ly, cháy rất mạnh, anh từng suýt mất mạng vì nó.” Anh đang nhắc đến chuyện diệt con Phet Đặp với Sinh. Anh dừng lại suy nghĩ, bước qua những bức tượng, đi một vòng giáp căn phòng, nước từ những chiếc bình chảy về chính giữa qua những đường rãnh nhỏ đan xen, cắt đoạn lẫn nhau theo đường vòng cung, anh thận trọng nhảy qua các rãnh nước này rồi đặt tay lên đôi cánh đang rũ xuống của bức tượng chim thần. Dường như phát hiện được gì đó bất thường, tôi thấy ánh mắt anh sáng lên một chút rồi vụt tắt, anh quay sang nói với cả bọn: “Đây không phải chim thần Ca Lâu La mà là con của nó.”

Tôi thắc mắc: “Chim mà cũng có con hả anh?”

Tú Linh nhìn tôi với ánh mắt chế giễu, Thùy thêm vào: “Theo nhiều ghi chép khác nhau thì chim thần Garuda tức Ca Lâu La có sáu đứa con. Sáu con chim có màu sắc, tính tình khác nhau nhưng tổng thể đều khắc họa hình ảnh dũng mãnh và can đảm. Ủa anh, vị này là vị nào?”

Anh Hùng ngẫm kỹ rồi bảo: “Đôi cánh như che phủ cái gì đó, gương mặt gục xuống, lông chim tuy có nhưng không nhiều, theo anh thì đây chắc là chim thần Sát Phá Chủy.”

Thùy giật mình, cô kể rằng nếu đúng là chim thần đó thì những chi tiết trong căn phòng này trở nên khá hợp lý, theo một số tư liệu thì Sát Phá Chủy và Sát Đại Phù là hai trong số những người con của Ca Lâu La, lúc còn nhỏ Sát Đại Phù tưởng nhầm mặt trời là trái ngon nên đòi anh trai mình cho ăn, thần mặt trời nghe được liền nổi cơn thịnh nộ, phóng những tia lửa xuống trừng phạt nó. Sát Phá Chủy thấy vậy liền dang cánh che chắn cho em trai, chịu nỗi đau thiêu đốt của những tia lửa mặt trời này khiến Sát Phá Chủy gào thét dữ dội nhưng vẫn không hề buông em mình ra, vì thế mà lông cánh của nó rụng xuống từng chiếc, từng chiếc một. Phải nhờ đến thần Indra nói giúp, rằng trẻ con còn nhỏ dại chưa biết sợ sự vĩ đại, thần mặt trời mới chịu tha, tuy vậy thần vẫn buông lời nguyền rủa đến chim thần Sát Phá Chủy khiến lông cánh bị cháy mất của nó mãi mãi không mọc lại rồi đày nó đến hang động Hách Mật An Tỳ. Nghe đến đây anh Hùng mới bật đèn pin, rọi đến chỗ phía trên cánh cửa chính thì thấy trên đó có một khối cầu đặt trên chiếc dĩa, hình như được làm bằng kim loại. Tôi động não, bắt đầu thấy câu chuyện Thùy vừa kể có chứa những manh mối liên quan đến sự sắp đặt trong căn phòng này. Thứ nhất là khối cầu kim loại có thể tượng trưng cho mặt trời mà chim thần Sát Đại Phù muốn ăn, thứ hai là trong dầu lưu ly cũng liên quan đến lửa thiêu đốt, chẳng lẽ chúng tôi đang đứng trong phòng cơ quan nào đó, phải tìm cách giải mới có đường đi tiếp?

Khỏi nói cũng biết, tôi còn suy nghĩ được như vậy, mấy người kia chắc cũng đã hiểu ra gần hết. Anh Hùng lấy cây đuốc ra rồi tẩm dầu lưu ly đốt nó lên, ngọn lửa cháy trong hang Phet Đặp mà anh kể hiện lên rõ mồn một trước mắt tôi, nó không giống với lửa thường mà có cái gì đó rất tinh khiết, rất trang nghiêm. Anh tiến về phía khối cầu kim loại, nói là trên đầu chúng tôi nhưng nó cũng không cao lắm, anh Hùng lấy đà rồi bật lên, tay anh khéo léo rót một tí lửa vào chiếc dĩa, khối cầu kim loại liền bừng sáng, không biết dùng kỹ thuật gì để chế tạo ra nhưng khi ngọn lửa vừa chạm đến liền lan lên trên với sức cháy mãnh liệt, trông nó bây giờ chẳng khác gì một mặt trời thu nhỏ. Bỗng từ phía sau có tiếng động của bánh răng, tôi quay phắt đầu lại thì thấy đôi cánh của chim thần Sát Phá Chủy đang từ từ hé ra, cái đầu đang cúi cũng hướng lên nhìn về phía khối cầu rực lửa, ẩn sau đôi cánh thấp thoáng vật gì đó.

Tú Linh bảo: “Cơ quan trong này hoạt động bằng lửa à?”

Anh Hùng nói: “Có thể lắm, mỗi lần đốt sẽ kích hoạt những chốt bánh răng khác nhau, lợi dụng sự dãn nở dưới nhiệt lượng của kim loại, điều này làm anh thắc mắc, thiết kế được cơ quan tinh vi kiểu này, liệu Ca Lâu Vương và mười tám vị tư tế có làm nổi không? Không phải là chê họ, mà là thời điểm đó, trình độ công nghệ của họ vẫn chưa đủ cao.”

Thùy thắc mắc: “Từ Khoái thì sao anh…?”

Anh Hùng suy nghĩ một tí rồi nói tiếp: “Nếu là hắn thì cũng khá hợp lý, về khoảng các loại bẫy, cơ quan trong lăng mộ thì người Trung Quốc và Ấn Độ thời đó đúng là vượt trội thật. Từ Khoái lúc này là mối quan hệ mật thiết duy nhất mà chúng ta có.”

Tôi hỏi: “Giờ đốt cái gì tiếp anh?”

Anh Hùng nói theo truyền thuyết thì Sát Đại Phù muốn ăn mặt trời, giờ đã đốt mặt trời lên cho nó, tiếp theo nên châm lửa vào những bình chứa dầu lưu ly mà những bức tượng tỳ nữ đang bưng, kích hoạt cơ quan để đôi cánh của Sát Phát Chủy mở rộng hơn, anh cũng không quên căn dặn, tất cả đều từ suy luận mà ra cho nên phải hết sức cẩn thận. Đoạn, anh cầm ngọn đuốc tiến về phía dòng dầu lưu ly trên bức tượng gần nhất rồi quay về sau nhìn cả bọn, tôi khẽ gật đầu, anh Hùng đứng cách mấy bước chân, chìa tay, chầm chậm đưa ngọn đuốc lên phía trên rồi lắc mạnh, những miếng vải nhỏ thấm lửa bắt đầu rơi xuống rồi một tiếng “Phực!” vang lên, lửa lưu ly bắt rất nhanh, cả căn phòng rực sáng đến nổi có thể thấy rõ từng ngóc ngách, từng cảm xúc trên khuôn mặt của những bức tượng tỳ nữ. Chúng tôi đưa tay che trán khỏi sức nóng, hướng mắt về phía chim thần Sát Phá Chủy, chờ đợi nó dang đôi cánh ra.

Nhưng sự kiện xảy đến tiếp theo không phải vậy. Chuyển động là có nhưng không phải đến từ chim thần mà là từ hàng chục bức tượng tỳ nữ, chúng đang quay đầu về phía cánh cửa, chỗ chúng tôi đang đứng tụ lại, miệng chúng động đậy rồi cằm bị tách ra, đôi môi mở rộng, vòm họng đen ngòm. Bất chợt, trong một sát na, bả vai tôi đau dữ dội, rồi một lực tác động không biết từ đâu đè tôi gục xuống trên đầu gối, anh Hùng thấy cảnh đó liền lao đến chỗ Thùy bằng tốc độ kinh hoàng rồi chụp cổ cô ấn xuống, Tú Linh kế bên cũng đã cúi cả người sát mặt đất, tôi nghe những tiếng “Cạch! Cạch!” vang lên giòn khấu rồi từ cửa miệng của những bức tượng, những mũi tên phóng ra như muốn xé nát căn phòng, hàng trăm mũi tên bay vèo vèo trên đầu, nếu không nấp xuống chắc bị bắn thủng lỗ chỗ như tổ ong rồi. Tất cả mọi chuyện xảy ra trong vòng chưa tới ba giây. Một lát sau thì tên mới dừng bắn, ngồi dậy, bàng hoàng nhìn vào mắt nhau, chúng tôi trút một hơi thở nặng trịch, vừa thoát chết trong gang tất. Những bức tượng sau khi phóng tên thì quay đầu về vị trí cũ nhưng vẫn chưa chịu ngậm miệng lại, thay vào đó, từ phía bên trong bắt đầu chảy ra một dòng dầu lưu ly khác, cảm giác mực độ dầu chảy ra lần này nhiều gấp đôi nếu so với khi chảy ra từ chiếc bình, dòng dầu này men theo mảnh vải khoác trên mình tượng, rót vào những cái rãnh, dẫn đến tượng chim thần Sát Phá Chủy.

Anh Hùng bảo: “Lần này căng à. Cơ quan này chắc dựa vào nguyên lý hoạt động dây chuyền, phải tác động vào những bộ phận khác nhau trong căn phòng mới được. Lúc nãy hơi gấp rồi. Thùy, em còn quên đoạn nào trong câu chuyện em vừa kể không, chi tiết nhỏ cũng quan trọng lắm đó.”

Thùy vừa bị úp mặt xuống sàn, gò má vẫn còn dính tí cát, cô phủi phủi, ngẫm một hồi rồi thốt lên, giọng nói nghe như đang xin lỗi: “Em quên mất, đoạn cuối của câu chuyện còn nhắc đến sự việc được Hoàng tử Rama cứu khỏi Hách Mật An Tỳ nữa.”

Tú Linh chậc lưỡi: “Cứu như thế nào em?”

“Hoàng tử Rama đem chiếc nhẫn của nàng Sita tới hang động, cầu xin thần mặt trời hãy buông tha cho Sát Phá Chủy. Nàng Sita là biểu tượng của thủy chung, đức tính hy sinh, chiếc nhẫn của nàng chính là báu vật của trời đất nên thần mặt trời đồng ý ngay.”

“Chiếc nhẫn đó sau này thì sao em?”

“Sau này nàng Sita bị chằng tinh bắt cóc, Sát Đại Phù đã đánh nhau với nó nhưng bị nó nắm được điểm yếu, Sát Đại Phù chỉ gấp được chiếc nhẫn bay về báo với Hoàng tử Rama, sau đó tự đâm đầu xuống vực tự vẫn vì nỗi nhục bại trận. Lúc này, đau buồn nhất phải kể đến Sát Phá Chủy, nó ngồi ở bờ vực ngày đêm khóc thương, vì lông cánh đã cháy gần hết nên không tài nào bay xuống dưới được. Nó nguyền rủa thần mặt trời rồi cũng gieo mình xuống theo em mình...”

Anh Hùng lầm bầm: “Chiếc nhẫn… Chiếc nhẫn…” Chợt mắt anh nheo lại, nhìn sang phía bức tượng chim thần Sát Phá Chủy như nhớ lại chi tiết gì đó. Đoạn anh móc chiếc búa khắc rồng phượng ra rồi nói tiếp: “Ngày xưa chú Ba đi cùng người bí ẩn tự xưng là Lý sư phụ vào đây, không biết mục đích là gì nhưng chú có nhắc tới Ngô Công Kim Thân, nghĩa là đã đi qua ải này.” Anh móc đèn pin soi kỹ chiếc búa, ngay tại điểm tiếp giáp giữa lưỡi búa và cán búa có một vòng kim loại quấn ngang, phải soi vào trong mới thấy được vì phần lớn đã bị lưỡi búa che mất, lờ mờ trên đó có dòng chữ viết bằng kinh văn. Tú Linh nhìn anh Hùng, ánh mắt cô trợn trừng, có vẻ như cô cũng bất ngờ vì lâu nay có búa mà không biết có nhẫn, lần đầu tiên tôi thấy cô như vậy. Cô mấp máy: “Dành cho sự đau khổ của nàng Sita.” Anh Hùng nghe đến đó, không chút do dự, vung tay chém mạnh vào đáy của lưỡi búa trong sự ngỡ ngàng của toàn thể chúng tôi, lưỡi búa này tôi nghĩ chỉ là thứ kim loại được rèn bình thường hay sao ấy, vừa rớt khỏi cái cán khắc rồng phượng liền đen lại rồi rã ra thành tro. Anh Hùng tháo chiếc nhẫn rồi cất cái cán vào ba lô, đoạn tiến về phía tượng chim thần Sát Phá Chủy, săm soi chỗ cái mỏ một hồi thì vặn đúng cơ quan, cái mỏ mở ra, bên trong đúng thật là có dấu để đặt một vật hình tròn lên. Vừa xong, tôi lại nghe thấy tiếng cơ quan, bánh răng chuyển động âm vang khắp tòa điện, tay của những bức tượng tỳ nữ mở miệng bắt đầu chuyển động, tay bưng bình đưa xuống hứng lấy một nửa dòng dầu lưu ly làm nó bớt chảy xiết. Đôi cánh chim thần Sát Phá Chuỷ lần này dang rộng, tôi thấy hình ảnh bức tượng chim thần Sát Đại Phù nhỏ nhoi đang rúc đầu vào mé cánh của anh mình.

Anh Hùng quay sang hỏi Thùy: “Còn chi tiết nào nữa không em, phải chắc là đã đủ hết nghe, theo như bố trí với mọi sự sắp đặt nãy đến giờ thì căn phòng này được thiết kế dựa theo truyền thuyết đó đó.”

Thùy ngẫm một hồi rồi nói là đủ cả rồi, lần này là chắc trăm phần trăm. Anh Hùng nói chúng tôi dù vậy cũng phải đề phòng chứ không chủ quan nữa, nói rồi anh đốt đuốc, thận trọng tiến về phía dòng dầu lưu ly rắc lửa lên. Chúng tôi nín thở chờ đợi kết quả.

Nhưng không được!

Bức tượng chim thần không hề cử động thêm gì nữa, thay vào đó là cái miệng mở rộng hơn, thiếu điều gấp đôi lúc trước của lũ tượng tỳ nữ, rồi hàng trăm mũi tên bay vèo vèo trên đầu chúng tôi, tôi nghe anh Hùng chậc lưỡi, Tú Linh thì như muốn hét: “Mẹ nó, còn thiếu cái gì nữa vậy??” Câu hỏi tu từ đầy phẫn nộ của cô vừa dứt cũng là lúc tên ngừng bay, giờ tên ghim lởm chởm trên những bức tường của tòa điện, rồi xác tên bị xé đôi sắp lớp dưới sàn như lá bàng sân trường. Anh Hùng thở dài, quay sang nói với tôi: “Không được rồi chú em ơi, không lẽ lại bắt mày phải đọc lại bốn câu thơ? Làm vậy nguy hiểm lắm. Chậc, lần này về nhất định khai phù, cứ chọc ngoáy Thiên Hổ bị nó vật chết không kịp ngáp chứ chẳng chơi!”

Tôi nghe đến đoạn bị vật chết tuy cũng thấy sợ sợ nhưng không thể phủ nhận được sự hân hoan đang dân lên trong lòng, cuối cùng thì tôi cũng có thể giúp cả đoàn, hay là tại tôi muốn thể hiện với Thùy nhỉ? Hừm, để vậy hoài có vẻ không ổn. Đành vậy, giờ ngồi chờ quyết định của anh Hùng chứ không vội đọc bốn câu thơ. Ca Lâu Vương để lại một bài toán tưởng chừng như vượt quá sức bọn tôi, cảm giác bất lực bắt đầu xuất hiện trong suy nghĩ mỗi người. Anh Hùng suy nghĩ gì đó lung lắm, rồi đột nhiên mặt anh giãn ra, lập tức lục tìm trong ba lô một lúc sau lấy ra được nửa mảnh đồng đen hình tròn nhặt được trong mộ Reahu. Có vẻ anh định đứng dậy lao đến chỗ nào đó để tra cục đồng đó vào, tuy nhiên vừa mới đứng dậy, mặt đất rung chuyển dữ dội, bỗng nhiên nền nghiêng hẳn sang một bên, tựa hồ như cái dĩa để trên cát chảy, làm cả đám bọn tôi ngã nhào vào góc. Bình thường thì cú ngã đó không sao, tuy nhiên hiện giờ căn phòng đang có rất nhiều dầu lưu ly, nền nghiêng sang một bên khiến dầu đổ hẳn về phía bên này, lửa trên quả cầu vẫn đang cháy hừng hực, chực chờ rơi xuống chỉ một mồi nhỏ thôi cũng đủ biến bọn tôi thành người quay! Anh Hùng cũng nhận thấy tình thế hết sức cấp bách, một mặt bảo bọn tôi đu bám lên các cây cột chờ đợi, rồi anh băng thẳng qua đống dầu nhớp nháp, nhắm đến một bức tượng tỳ nữ trong góc. Dầu trơn làm anh suýt té mấy lần, đến khi nền nhà bỗng sụp nghiêng xuống một ít nữa thì anh té hẳn. Chúng tôi tuy biết anh đang liều mình vì cả đám nhưng cũng chẳng biết giúp đỡ thế nào được, đành làm theo lời anh nói là bám chặt vào cây cột. Nền nhà vừa nghiêng vừa trơn nhẫy, dù anh đã trang bị giày đinh nhưng di chuyển cũng hết sức khó khăn chậm chạp, lúc này tôi cảm nhận nền nhà rung nhẹ, chuẩn bị cho đợt sụp tiếp theo, anh Hùng có lẽ cũng hiểu được chuyện đó, anh bắt đà phóng thật mạnh, tay cầm mảnh đồng đen vươn ra hết sức, nhắm đến phần ngực một bức tượng tỳ nữ.

Chúng tôi im lặng, nín thở, cố căng mắt ra trong ánh sáng lập lòe của căn phòng, theo dõi từng bước chân của anh Hùng. Mặt đất rung chuyển rồi sụp xuống, nền lúc này nghiêng dễ đến hai mươi độ, cú nhảy của anh vừa đáp ngay đích đến, mảnh đồng nằm gọn vào phần bị khuyết trên thân tượng. Tiếng cạch vang lên, cơ quan đã di chuyển, lúc này nếu thất bại rồi để tên bắn ra, mười phần chắc mười là thân thể cả đám đều ghim đầy tên! Tiếng cơ quan vang ngày một to, nền đất rung nhẹ, tôi cảm nhận rằng nó không giống như sắp sụp xuống thêm nữa, quả nhiên đúng như vậy, từ các hốc tường những viên gạch di chuyển, để lộ ra một khe nhỏ, không lớn lắm nhưng cũng rút bớt dầu lưu ly chết người đó đi. Vừa lúc ấy, đám ba người bọn tôi cũng đến giới hạn chịu đựng, buông tay phóng xuống. Cả bọn còn chưa kịp hoàn hồn, tức thì bức tượng chim thần đang chầm chậm dang đôi cánh ra, đầu tượng chim Sát Đại Phù ngẩng lên cao, các cánh tay tỳ nữ nối thành một đường dài dẫn lửa từ quả cầu rót thẳng vào miệng tượng. Liền theo đó, những tiếng bánh răng cơ quan di chuyển nặng nề làm cả căn phòng kêu lên ầm ầm, tựa hồ như có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Từ phía trên đầu tượng Sát Phá Chủy, trần nhà tách ra làm hai, để lộ ra một lỗ hổng, đồng thời, tượng chim thần được cơ quan nâng lên chui tọt vào lỗ hổng đó, thì ra phía dưới chân tượng có một cái cầu thang ngầm, khi bức tượng được cơ quan đẩy lên, phần cầu thang này mới xuất hiện. Có ánh sáng lân tinh màu đỏ phát ra từ phía trong, anh Hùng nói khả năng rất cao lối đi này sẽ dẫn đến chánh điện của công chúa, chúng tôi ai nấy cũng hồ hởi, phần vì vừa thoát nạn, phần vì đích đến đã ở rất gần.

Nhưng thật xúi quẩy, chúng tôi chưa kịp mừng với nhau thì bức tượng chim thần Sát Phá Chuỷ ôm em bắt đầu cử động, chiếc nhẫn nó đang ngậm trên miệng rơi xuống vì cái mõm đang dần há to. Một âm thanh chói tay nghe như tiếng còi xe vang lên, bốn bức tường và trần nhà run dữ dội, kèm theo đó là tiếng tạch tạch như ai đang mồi lửa phát ra từ trong họng chim thần, tôi trợn mắt khi nhận ra chuyện gì sắp đến, Sát Phá Chuỷ sắp phun lửa mất rồi! Anh Hùng dục cả bọn chạy mau vào hang động, chỉ vừa kịp lúc ngọn lửa xối ra từ cửa họng chim thần, dội thẳng vào khối cầu kim loại làm nó đỏ ửng, màu đỏ đậm đến nổi mặc dù đã bị vây quanh bởi đám lửa vẫn thấy được hình hài tròn trĩnh đang bị thiêu đốt của nó. Chúng tôi mặc dù đứng sâu trong hang để quan sát nhưng vẫn cảm nhận được sức nóng kinh người từ lửa dầu lưu ly. Thuỳ nói, giọng pha chút xúc động: “Tình anh em của Sát Phá Chuỷ và Sát Đại Phù có lẽ đã làm Ca Lâu Vương động lòng, Sát Phá Chuỷ vì thương em đau lòng mà tự vẫn, nhưng nó đau mười thì cha nó là Ca Lâu La đau một ngàn.

Chắc Ca Lâu Vương chính là người cho xây tòa tháp này một là để làm vừa lòng chim thần Ca Lâu La, suốt đời để đứa con ngài thiêu đốt mặt trời; hai là nhắc nhở đến tình phụ tử, tình anh em trong một nhà mỗi lần ông mở công đi vào mộ công chúa…”

Tôi nghe thì nghe vậy thôi, nói không tin cũng không phải nhưng cái cơ quan mà Thuỳ hết mực cảm kích vừa suýt lấy mạng cả đám, nên tôi chỉ cười cho cô thấy vui.

Chúng tôi đứng xem cũng chẳng lâu, anh Hùng sốc lại tinh thần bằng một điếu thuốc, trước khi châm lửa không quên lau chùi dầu lưu ly bám trên người thật kỹ lưỡng, tôi và Tú Linh cũng làm một điếu, không gian bao phủ bởi màu đỏ thỉnh thoảng có đốm lửa nhảy múa trông cũng vui vui. Tôi hỏi anh vì sao anh biết cục đồng đen đó là mấu chốt, và tại sao trên tượng người nữ đó lại khuyết đúng chỗ đó. Anh kéo một hơi thuốc, nhả ra rồi nói bằng giọng quả quyết chắc nịch: “Thật ra chúng ta đã làm đúng bước để khởi động cơ quan dẫn lên cầu thang, tuy nhiên, có người nào đó đã phá vỡ thế trận cơ quan đó bằng việc phá bỏ một chốt lẫy - chính là cục đồng đó, hòng ngăn chặn việc đi lên phòng của cô công chúa đó mà thôi. Anh chỉ đoán lờ mờ được kế hoạch gì đó đằng sau tất cả những việc này tuy nhiên lúc nãy đảo mắt quan sát, anh thấy trước mỗi ngực tượng nữ hầu đều có một vật gì đó nhô lên, thế là anh ướm thử may thôi.” Tôi gặng hỏi mãi anh ấy cũng không nói gì thêm về chuyện này nữa, tuy nhiên việc “linh cảm” của anh Hùng đạt đến như vậy, cũng khiến tôi khó nghĩ.

Nhìn vào lối đi lên cầu thang, tôi đã thấy không còn ánh sáng của đèn cầy vĩnh cửu nữa, hai bên lối đi là những bức tượng bán thân của những người đeo mặt nạ chim thần, đếm ra có tổng cộng mười tám bức, chắc là những vị tư tế, cuối cầu thang là cánh cổng vừa hai người dẫn vào một gian phòng nhỏ, chính giữa phòng có một chiếc giường treo rèm phủ kính tứ phía, ánh sáng đỏ nhuộm lên một màu chết chóc lên khắp nơi, nhưng không hiểu sao tôi rất chắc chắn đây chính là phòng của công chúa. Chúng tôi chưa ai nghĩ đến chuyện giở rèm ra xem bên trong có gì mà chỉ đi quanh phòng dò xét, tính ra nếu căn phòng này không liên quan thì cũng không cần thiết phải kéo rèm lên, cứ nhằm lối đi lên bên gian trái mà bước tiếp thôi, tôi còn mong như vậy, rắc rối là một món ăn nếm mãi thành ra ngán ngược cổ họng rồi. Tôi đi một hồi, thấy một cái bàn trang điểm, trên đó có hai chiếc lược và hai cái kiếng nhỏ, chậu hoa ngàn năm không ai chăm nên thân cây giờ đã hoá tro mất tăm, thấy không có gì đặc biệt nên tôi quay lên xem ba người bọn họ, Thuỳ đang đứng cạnh một chiếc bàn to hơn, chắc là chỗ học hành của công chúa, Tú Linh đang đi dọc bờ tường xem bích hoạ hoặc tìm kinh văn gì đó còn anh Hùng thì đang đứng săm soi mấy tấm rèm, tôi tá hoả khi thấy anh định giơ tay mở nó ra xem nhưng tiếng gọi của Thuỳ đã ngăn tôi lại, tôi nhìn sang, thấy ánh mắt cô lộ rõ vẻ hoang mang. Cô ấp úng: “Anh có thấy...thấy gì đó ngộ ngộ không?” Tôi lắc đầu, Thuỳ nói tiếp: “Vật dụng trong phòng này...sao nhỉ, ngộ lắm, có điểm gì đó bất hợp lý với nó...mà sao em không nghĩ ra nó là cái gì vậy? Anh?” Tiếng Thuỳ gọi tôi bằng “anh” nghe ngọt quá, bất giác mấy câu nói của cô lọt từ lỗ tai này qua lỗ tai kia. Đang mê mẩn, Thuỳ gọi phát nữa tôi mới bừng tỉnh còn Thuỳ nhìn tôi ngơ ngác, tôi đỏ mặt quay đi, chưa kịp giải trình thì nghe tiếng anh Hùng: “Lại đây coi cái này nè mấy đứa!”

Tiến đến đứng sau lưng anh (giờ ảnh kéo cái màn ra luôn rồi, trời ạ), trên giường lại là hai bức tượng khác, tư thế khá giống với tượng chim thần ôm em bên dưới, điểm khác biệt ở chỗ thay vì tượng chim, thì ở đây là tượng người. Một cánh tay bao bọc lấy cơ thể, nhưng không hùng dũng như bên dưới, mảnh khảnh nữa là đằng khác. Tôi nói: “Tượng phụ nữ hả anh, chẳng lẽ là con gái của Ca Lâu La?” 

Không thấy ai trả lời, anh Hùng và Tú Linh nhìn tôi ngộ lắm, Tú Linh nói: “Tượng gì? Tượng nào? Đây là hai cái xác mà!”



Ảnh minh hoạ: (

Nguồn ghi trên ảnh.