Thất Sơn Truyện

Chương 16: Chuyện kể Hùng Bon-sai - Hồ Ly bưng đèn

Lâm Gia Thái Bảo

Thông nhảy lùi về sau một bước, Hùng ôm tay rú lên những tràng chói tai. Từ vết đâm, một lớp mủ đen chảy ra bốc mùi hôi thối. Thông chửi lớn: “Mẹ mày, định dụ bố cũng diễn cho đạt một chút, đại ca tao không phải loại uỷ mị với tham sống sợ chết như vậy!”. Quả nhiên, vật thể trước mặt Thông co quắp lại rồi chỉ còn một vũng đen bầy nhầy. Bỗng theo cảm tính, da gà Thông nổi rần rần - nguy hiểm đang đến. Lúc này, thân cây xung quanh Thông bỗng cử động. Lớp vỏ sần sùi dần tách ra, để lộ phần thịt cây bên trong đỏ ối như thịt người, một khuôn mặt nổi lên, miệng nó ngoác rộng ra thè chiếc lưỡi gớm ghiếc, kèm theo đó là những tiếng kêu re ré làm Thông muốn bay cả não. Thoạt đầu Thông còn rất lo sợ, nhưng rồi anh sực nhớ lại, từ đó tới giờ và đặc biệt là mấy ngày qua, mỗi lần gặp ma quỷ thì đều là Hùng cân hết, anh đâu thể cứ là gánh nặng mãi vậy được. Nghĩ đến đó, Thông lấy hết can đảm, đầu tiên anh giữ bình tĩnh phân tích tình hình, xem nên chạy hướng nào. Quay về có lẽ là an toàn hơn cả, Thông lăm lăm cây dao trong tay, dù gì cây dao vẫn còn vướng chút tro xá lợi Sinh cho hôm trước nên nó vẫn còn khá hiệu quả. Ban đầu có vài con quỷ núi xông ra, Thông đành liều mình nhắm mắt chém bừa, thế lại hù được bọn nó, vậy nên chúng chỉ núp sau các thân cây, kích động Thông bằng những âm thanh hết sức hỗn tạp. Bỏ qua tất cả mấy cái giọng cười khóc vớ vẩn đó, Thông băng băng chạy về trước, nhưng Thông chới với khi phát hiện mình vừa chạy một vòng, trở về chỗ lúc nãy anh đâm chết con quỷ núi. 



Lúc này, tâm trạng Thông hết sức hoang mang, anh chửi thầm: “Con mẹ nó, tưởng vượt qua được Vách Ma Giấu rồi, sao lại bị vẽ nữa vậy trời!”. Không để nản chí, anh xốc lại tinh thần chạy thêm một lần nữa - vẫn về đến chỗ cũ. Bọn quỷ núi núp sau các thân cây đồng loạt ré lên cười man dại, như muốn Thông mau chóng cạn kiệt tinh thần thì lúc đó chúng sẽ xông ra ngay lập tức. Lúc này, anh ngồi thụp xuống, nỗi sợ bắt đầu xâm chiếm trí óc. Dù đã cố gắng kìm nén, nhưng tình hình hết sức tuyệt vọng làm anh khó mà lạc quan được. Tiếng cười càng lúc càng dồn dập, đột nhiên Thông đứng phắt dậy, cầm dao chém phập vào một thân cây gần đó, một con quỷ không còn cười nữa mà chỉ rú lên. Thông như hóa điên, anh cầm dao đâm chém loạn xạ, mục đích là có chết cũng đem theo bọn quỷ núi khốn nạn này. Vung tay một hồi lâu, Thông bắt đầu thấm mệt trong khi bọn chúng chẳng hề suy yếu, Hùng nói đúng, có khi chúng có hẳn biên chế sư đoàn quỷ núi cũng không chừng. Trong đầu Thông lúc đó đã sẵn sàng cho cái chết: “Đại ca, mong kiếp sau vẫn là anh em!”. Thông vừa nhắm mắt lại, anh thấy bàn tay giựt lưng áo mình, anh ngã xuống đất rồi cứ thế nằm bất động. Không gian xung quanh tối đen, chẳng nhìn thấy được gì cả, nhưng có một mùi rất nặng xộc lên mũi làm Thông buồn nôn. Mùi này kỳ thực không hôi, nhưng khó chịu vô cùng, một hỗn hợp của sả, tỏi, nghệ và quế. Phen này dù có chết cũng nôn cái đã, Thông nghĩ vậy rồi cứ thế mà ọc ra, miệng anh đắng nghét làm thần trí tỉnh táo lại. Anh đang nằm dưới con dốc, ngậm đầy hỗn hợp bột sả nghệ, Hùng thì đang lấy tay xoa vào vai. Thấy anh tỉnh dậy, Hùng mắng: “Ê, mày có cái gì hay mà ma quỷ Thất Sơn này khoái dụ mày quá vậy?”, Thông chỉ cười, anh nhìn ra xung quanh: mình đang đứng trước ba cái nhà vong! 



Thật ra, lúc nãy Hùng đang ngủ ngon giấc thì nghe tiếng Thông bật dậy đi ra cửa, cảm thấy không ổn nên anh định đuổi theo, nhưng cả người cứng đờ, không nhúc nhích được. “Má! Bóng đè ngay lúc này!”- Hùng chửi thầm. Thông khuất sau cửa, nghe tiếng là đang bước dần xuống dốc, kiểu này bị vong nhập rồi. Hùng cố gắng tập trung phá bóng đè nhưng vô dụng. Bỗng anh sực nhớ lại bức tranh Chuẩn Đề Phật Mẫu, trong đầu trì chú, đến lần thứ ba thì vả người nhẹ tênh. Lập tức anh bật dậy, nhưng không chạy thẳng xuống dốc mà vòng vào bếp tìm sả, tỏi, nghệ và quế rồi lao ngay xuống dốc. Tới nơi, Hùng thấy Thông đang đứng ở trong nhà vong, đầu bị tấm vải liệm quấn quanh. Cảnh tượng hết sức ma quái, ánh đèn cầy màu xanh lơ cháy bừng lên trong đó làm Hùng phải e ngại ma khí. Cọc kỳ nam nằm trong túi Thông, Hùng chỉ có cây dao phủ tro xá lợi, liều xông vào thì quá nguy hiểm nhưng nhìn thằng em mình đang giẫy từng hồi thì Hùng đành thử một phen. Hùng lấy đà lao thẳng vào, miệng đọc chú, một tay chém đứt tấm vải liệm, một tay nắm cổ áo Thông lôi mạnh ra, tất cả chỉ diễn ra trong vòng chưa tới ba mươi giây. Cũng may là Hùng thuộc dạng nặng vía, cộng với mùi sả nghệ cay nồng làm anh tỉnh táo, cho nên chưa rơi vào bẫy của nhà vong. Hùng đặt Thông nằm xuống, nhét sả nghệ vào miệng rồi xoa tay cho ấm ấn lên trán và hai vai, mục đích là thắp lại tam muội chân hỏa, ổn định thần trí hồn phách. Quả nhiên lát sau Thông nôn ra thì tỉnh hẳn. Anh lấy cây cọc ra đưa lại cho Hùng, nói: “Khụ… em tưởng.. Khụ… Có nó thì không bị ma dẫn… Khụ.. Ai dè, thôi trả anh nè." 

Đến lúc này, quả thật Hùng có hơi tò mò, từ lúc bắt đầu chuyến đi An Giang đến giờ, toàn là Thông bị ma hù, không lẽ nó có điểm gì khác thường? Lúc trước đi săn lan, cũng băng rừng lội suối, ma quỷ cũng có kinh qua một hai lần, nhưng không lần nào Thông bị nhát nhiều đến vậy. Bỗng trong nhà vong thổi ra một luồng gió, làm mảnh vải liệm bay phần phật, nhưng cánh cửa làm bằng gỗ quan tài thì khép lại kêu ken két giữa đêm khuya, ánh đèn trong đó mờ dần rồi tắt hẳn. 



Hùng đỡ Thông đứng dậy, cả hai nhìn về hướng cái giếng, rồi Thông quay sang hỏi: “Sao giờ đại ca?”

Hùng vẫn nhìn thẳng, trả lời chắc nịch: “Mày biết rồi còn hỏi!” Rồi không ai bảo ai, cả hai cùng tiến từng bước đến bìa rừng. Hùng ra dấu dừng lại, anh nói: “Anh đoán được cách vượt qua vách này rồi, mày thử với anh không?”

Thông gật đầu cái rụp, Hùng thấy vậy nói tiếp: “Có nhớ bức tranh trong phòng không? Theo anh đó là chìa khóa” 

Thông nói: “Có phải là bắt ấn đọc chú Chuẩn Đề không anh?”

Hùng lắc đầu: “Phải bịt tai lại!” Anh nhìn xung quanh có vẻ như củng cố lại suy nghĩ của mình rồi nói: “Theo anh đoán, nơi này không phải tự nhiên mà hình thành vách ma giấu, có lẽ có cao nhân nào đó trấn yểm nơi này, tạo nên một ma lộ để che giấu thứ bên trong. Xác suất khá cao là sư trụ trì chùa biết những chuyện này, nên ông ta mới treo bức tranh Chuẩn Đề Phật Mẫu nhắm mắt. Tranh Phật thường vẽ Phật ở trạng thái trung dung, không vui không buồn, nhưng không bao giờ vẽ nhắm mắt. Ấn Chuẩn Đề là ấn trừ ma, theo anh, ngụ ý của bức tranh đó chính là nếu lạc trong vách ma giấu này, không bắt ấn Chuẩn Đề được, vì cơ bản ở đây làm gì có ma mà trừ!”

Thông không giấu nổi vẻ khó hiểu, hỏi: “Ma nó hù em muốn đái trong quần, anh nói không có là sao?”

Hùng giải thích tiếp: “Các loại ấn chú trong Phật Giáo, kỳ thực là một hình thức triệu hồi thế lực siêu nhiên. Người thường thì triệu hồi được thổ địa, ma giữ nhà, có pháp lực cao hơn thì gọi hộ pháp, thiên binh, đạo hạnh cao thâm thì thỉnh được chư phật thánh thần. Chuẩn Đề vốn dĩ là bậc “cao cấp”, không phải ai cũng bắt ấn được, ý nghĩa bức tranh tựa như là chê trách thói ảo tưởng của nhân loại, chỉ biết bắt ấn cho có nhưng lại quên để ý Phật có mở mắt đâu mà thấy. Khu vực bìa rừng này, có thể đã được quỷ thần canh giữ, tạo ra ma lộ cho những ai muốn vào. Mày có nhớ lần mình đi ngang giếng, có chuyện gì xảy ra không?”

Thông suy nghĩ một hồi thì nhớ lại: “Tiếng hét.”

Hùng gật đầu, nói: “Đó giờ mày có nghe về Tiêu Đồ Hống chưa, tương truyền rồng có chín đứa con, trong đó đứa út là Tiêu Đồ, thần thú có hình dạng rắn, vảy đồng, đầu sói, nanh cọp, chỉ thích nằm ngủ, không muốn ai phá rối, cho nên những nhà giàu giữ của thường yểm bùa Tiêu Đồ, kẻ trộm vào thì sau đó không thoát ra được. Anh nghĩ cái gương dưới giếng kia là vật yểm, thế Tiêu Đồ phủ ngang nơi này, người nào dựng nên cũng thuộc dạng cao thủ trong cao thủ!”

Thông nói vậy giờ làm sao, Hùng vớ nắm đất dưới chân, vò lại thành cục, nhét vào hai tai. Thông hiểu ra cũng làm tương tự. Cảm thấy đã “cách âm” ổn, họ lần bước qua giếng, cả hai đều hết sức hồi hộp, không biết liệu cách này có ổn không, nếu không được thì đúng là hết cách.

Họ đi ngang giếng, không có tiếng hét nào vang lên, tuy nhiên vẫn chưa chắc là có thoát được vách ma giấu này hay không cho nên hai người vẫn thận trọng từng bước. Địa hình vẫn giống như lúc trưa họ đi, lên dốc rồi lại xuống dốc, rồi lại băng rừng một chốc sau, đến tán cây cuối cùng, họ vạch đường ra, cả hai vui mừng hết sức khi trước mắt họ hiện lên khung cảnh vách đá sừng sững, cao hơn hai mươi thước, chạy hình vòng cung đều đặn dài hơn ba trăm thước, ngổn ngang đá tảng to như chiếc xe hơi. Ánh trăng trên cao rọi sáng một ánh vàng vàng êm ả. Không hề có tiếng con côn trùng hay ếch nhái, chỉ có tiếng gió lùa qua vách núi, phát ra âm thanh như tiếng hú khe khẽ. 



“Thành công rồi đại ca ơi!” - Thông kêu lên.

Hùng chỉ cười nhẹ rồi nói: “Thành công một phần ba thôi, tìm được ngọc rết là thành công hai phần ba”

“Vậy làm sao mới thành công trăm phần trăm đây?” - Thông leo lên một tảng đá, đầy vẻ đắc ý.

“Toàn mạng trở ra."

Thông nghe xong liền cụt hứng, anh leo xuống rồi hỏi Hùng rõ hơn về những gì Hùng và Chín Danh trao đổi lúc sáng, chính xác là anh muốn biết con Hồ Ly Bảy Núi là cái quỷ gì. Hùng ngồi xuống một tảng đá, lấy bao thuốc ra làm một điếu rồi đưa cho Thông, ra dấu cho cu cậu ngồi nghỉ, sẵn anh kể hết. 



Ban sáng, Chín Danh nói rằng thực ra trong này có viên Ngô Công Kim Thân hàng thượng phẩm, nhưng không phải là nó sinh ra trong vách núi, mà do người ta đặt đây để trấn yểm một con hồ ly. Những năm thế kỷ mười sáu, vùng Bảy Núi ngày nay vẫn chưa nằm dưới sự quản lý của Đàng Trong, mà nơi này là một thành thị nhỏ mạnh về nông nghiệp, giống như một tiểu vương quốc thuộc Thủy Chân Lạp. Tuy chỉ là vùng đất nhỏ, nhưng do địa thế nhiều núi non kênh rạch, nơi này vẫn có sự tự chủ nhất định cộng với khả năng quân sự và thế mạnh nông nghiệp, tóm lại đó là một đô thị trù phú. Vị trưởng quan của thành mộ hôm đến chân núi Cấm đi săn bỗng trời kéo mây đen, sấm đánh vang trời, con ngựa bỗng lồng lên rồi chạy thẳng vào núi. Vị này đi lạc, lúc sau trời đổ mưa to nên đành tìm chỗ trú, chưa quay về thành được. Thấp thoáng sau một cây còng cổ thụ là một mái nhà tranh. Ngài đến đó trú mưa. Trong nhà chỉ có một bà lão và con gái. Cô gái xinh đẹp tuyệt trần làm vị trưởng quan kia mê mẩn, sau hôm đó thì đến cưới cô ấy về làm vợ. Ông mời bà lão về ở trong thành nhưng bà nhất mực từ chối, bảo là muốn sống ở mái nhà tranh này hơn, chỉ xin ông ban cho mỗi tháng ba con bò để bà cúng tế thần linh và làm từ thiện. Ông ấy chuẩn y. Hàng tháng cứ ngày 15 thì đem bò đến cho bà lão. Vài tháng sau, cư dân vùng ven thành bảo là gia súc hay bị con gì cắn chết. Sự việc càng ngày càng nhiều khiến trưởng quan không khỏi lo nghĩ. Hôm đó cô gái xin về nhà thăm mẹ, ở vài hôm, ông đồng thuận. Cô ấy vừa đi, có người dân ở gần núi Trà Sư đến báo trong thôn nhiều heo gà bị cắn chết. Vị ấy liền đến xem, khung cảnh hết sức ghê tởm, súc vật bị cắn ngang cổ họng, uống sạch máu, một số con bị moi lòng ra vứt bừa bãi. Ông cử một số lính tráng ở lại tuần rồi quay về thành sai người đến điều tra. Trên đường về thấy tiện đường nên ông ghé thăm nhà mẹ vợ. Đến nơi, ông dừng ngựa phía trước, đi bộ vào. Vừa đến hiên nhà, ông nghe tiếng rên gừ gừ bên trong, ghé mắt nhìn sang ông vô cùng kinh hãi khi thấy trong nhà là hai con hồ ly có bộ lông trắng muốt, đang gặm nham nhở bộ lòng bò còn tanh máu. Người vợ xinh đẹp của ông ta thì đang dùng tay thọc tiết một con lợn. Máu bắn cả lên người, bỗng cô ta đứng dậy, lấy tay tách da đầu ra, lột bộ da trên người xuống, bên trong là lớp thịt bầy nhầy có cái đầu con hồ ly. Trên vách là bộ da của bà lão. “Cô ta” quay sang nói với hai con hồ ly kia, chỉ cần ăn thêm ba mươi sáu con bò nữa là có thể chuyển hóa hoàn toàn thành người. Nghe đến đó, cả bọn lại cười lên những tràng như chồn kêu. Vị quan sợ hãi, lên ngựa chạy thẳng về thành, huy động quân lính lập tức bao vây toàn bộ chân núi. Bọn hồ ly sợ hãi trốn vào rừng. Vây mấy ngày mà vẫn chưa bắt được đám hồ ly, vị quan tức giận đốt rừng, cả đám yêu tinh chết cháy, trước khi chết chỉ rú lên những tiếng đầy oán giận. Cứ tưởng vậy là đã trừ xong ác nghiệp, tuy nhiên sau đó linh hồn bọn chúng liên tục đến quấy phá, làm cho mất mùa hạn hán và dịch bệnh liên tục xảy ra. Vị quan hết sức lo buồn, bèn mời một vị cao tăng ở Phú Xuân vào, bày thế trấn yểm linh hồn bọn hồ ly. Vị ấy chọn Hòn Chông Chênh, dùng quan tài thép, quấn xích sắt, đóng đinh tán giữa nắp rồi chôn chính giữa núi. Xung quanh là các mộ cải táng của người khác. Về sau, đúng là cuộc sống trở lại bình thường, tuy nhiên vị quan kia bỗng hóa điên, thế lực thành thị đó suy giảm nhanh chóng, bị phỉ liên miên, sau này người dân cũng tứ tán, cả một vùng trù phú bỗng chốc hoang tàn đổ nát. Vách Ma Giấu là nơi dẫn vào Hòn Chông Chênh, hay chính xác là mộ của con hồ ly. Tuy bị trấn yểm, nhưng yêu khí lâu ngày đã hồi phục, nghe đồn viên ngọc rết được đặt vào quan tài của nó. Điều đó đồng nghĩa với việc, muốn lấy được ngọc rết, phải tiêu diệt con hồ ly, bằng không sẽ là thả hổ về rừng. Chín Danh và chú tiểu trong chùa có ý ngăn cản bọn Hùng Thông có lẽ là vì lẽ ấy. 



Chuyến đi lần này, đúng là bọn họ đã tận mục sở thị được những thứ vốn dĩ là truyền thuyết, tuy nhiên thực tình mà nói, hồ ly thì quá mức kỳ vọng của Hùng. Nửa phần anh lo sợ nhưng cũng có nửa phần tò mò. Anh đâu biết rằng, sự tò mò hôm đó khiến anh hối hận rất nhiều. Kể xong, Hùng cũng hút hết điếu, bảo Thông xắn tay lên, chuẩn bị tìm ngọc rết. Cẩn thận hơn, anh đưa cho Thông một ít sả còn dư, đề phòng cu cậu lại bị ảo giác. Thông hỏi cả vách núi rộng lớn thế này, biết ngọc rết nằm ở chỗ nào. Hùng nhìn địa thế rồi nói: “Vách núi đều đặn, cỏ cây xanh tốt như nhau, theo anh đoán, ngọc rết chỉ nằm đâu đó ở giữa chỗ này, như vậy mới cân bằng âm dương, nơi này không có dấu hiệu mất cân bằng càng làm anh nghĩ như vậy!”. Cả hai leo qua một số tảng đá nhỏ, tiến đến sát chân vách. Gió lúc này nổi lên, vách núi kêu u u như tiếng khóc, không gian ngoài âm thanh đó thì tĩnh mịch hết sức. Bỗng đâu từ phía bên kia chân núi, có âm thanh nghe như tiếng bước chân. Cả hai soi đèn về phía âm thanh nhưng chỉ có bóng tối và vách đá sừng sững, sau lưng phía chân bên kia lại vang lên tiếng bước chân, họ lại rọi đèn qua nhưng cũng như vậy. Hùng đã cầm cọc trong tay, Thông cũng sẵn sàng, anh nói: “Mẹ nó, gặp sớm quá vậy đại ca?”, Hùng quay sang nói chắc thần hồn nát thần tính thôi, bỗng Thông trợn mắt hỏi: “Anh, ông Chín Danh có nói bọn hồ ly thích cầm đèn cầy không?”. Hùng ngạc nhiên nói không, sao Thông hỏi thế. Anh chỉ tay về sau lưng Hùng, trên một mỏm đá nhỏ, có ánh đèn cầy leo lét, soi sáng một khuôn mặt trông như chồn, với cặp mắt đen ngòm chòng chọc nhìn vào họ.