Thất Sơn Truyện

Chương 10: Chuyện kể Hùng bonsai - Đò Ma Trà Sư

Lâm Gia Thái Bảo

Hùng quay sang nhìn cây đuốc bên phải - nó đã tắt ngấm! Anh quay lại lia đèn vào chỗ vật thể lạ kia thì không thấy nó đâu cả. Cả một vật lù lù thế mà cứ như bốc hơi trước mắt hai người bọn họ. Hùng hết sức ái ngại, về việc hai cây đuốc biểu thị sự đe doạ tính mạng, anh thấy thái độ của Sinh thì nó là hoàn toàn nghiêm túc. Bên cạnh đó, tay anh đang cầm pháp bảo, ma quỷ muốn gây hại anh thì hẳn có ma pháp hết sức cao cường, vùng này mà lại có một con quỷ mạnh như vậy sao đó giờ anh chưa nghe được? Theo những gì anh và Thông vừa mới thấy, hai người đã chạm trán “miểu biết hát” thật rồi, vấn đề là họ chỉ như con cá trên thớt, con quỷ kia thì đã ẩn mất. Hai người lập tức trở về thế thủ đâu lưng quen thuộc. Xung quanh tĩnh lặng như tờ, một mùi hôi thối xộc lên, ngày càng nặng hơn, hôi như mùi chuột chết, đúng hơn là cả ngàn con. Bỗng nhiên trong đầu Hùng chợt loé lên một suy nghĩ, giống như là linh cảm được đúc kết qua hàng chục năm trong nghề khi kinh qua muôn trùng hiểm nguy, anh lấy tay đẩy Thông ra xa. 

Thông ngơ ngác quay lại nhìn, Hùng dùng hết lực đẩy Thông văng mạnh, cả hai vừa tách nhau ra, một bàn chân to bèn bẹt như cái thúng dậm mạnh xuống. Cái chân khô đét, nhăn nheo và bốc mùi kinh tởm. Trước mặt họ là một bóng đen cao hơn chóp tháp mộ, thân hình đồ sộ, khuôn mặt nó chỉ có một màu đen, từ đó cặp mặt đỏ như máu và hai cái răng nhanh lòi ra. Hai cánh tay gầy nhẵng cũng như đôi chân, đầy móng nhọn sáng quắc. Nó đứng trông thật kỳ quặc, phần đầu nằm dưới thấp, hai tay giơ ra như bò cạp, lưng uốn kên trên, cong như chữ “o”, hai chân đặt ra trước đầu,Hùng nhảy ra xa, còn Thông thì mất đà lộn hai ba vòng rồi cũng nhanh chóng ngồi dậy, Hùng la với lên: “Bỏ mẹ, gặp quỷ La Sát rồi!”.

Lại nói về phần Sinh, kết cấu mộ tháp này anh đã từng đi vào một lần cùng sư phụ, cho nên tuy chỉ có trong tay cây đèn bão chập chờn leo lét, anh vẫn leo xuống một cách nhẹ nhàng. Bên trong là tường gạch nung nham nhở, kết dính với nhau bằng chất liệu đất sét trộn rơm, phần trên nhọn, phần dưới thoải, đáy mộ cách đỉnh chừng 15m. Thời gian đã bao phủ lên nó một lớp rêu. Tuy có lỗ hổng phía trên, nhưng dưới này vẫn còn nặng mùi ẩm mốc, tuy nhiên không hề nghe mùi phân chuột phân gián. Chuyện này Sinh cho rằng, làm gì có con nào sống được dưới này, ác linh ăn sạch cả rồi, chỉ trừ bọn mèo thì trốn ra ngoài sống. Nghĩ tới đó Sinh thoáng rùng mình. Anh không biết đạo hạnh sau tám năm tu tập của mình có đủ để diệt trừ hoạ kumanthong này hay không. Trên đường leo xuống, xung quanh Sinh vang lên tiếng cười rúc rích của con nít, cảm giác có con gì bò qua bò lại xung quanh nhưng soi đèn vào thì không thấy đâu. Khỏi phải thấy tận mắt, Sinh cũng biết bọn kumanthong bắt đầu giở trò. Đáy mộ là một căn phòng hình chữ nhật, trần chừng hơn hai mét, xung quanh Sinh tối đen, dưới chân đầy xương động vật. Anh đặt cây đèn bão xuống nền, chỉnh cho tim đèn cao lên, ánh lửa cháy mạnh hắt ánh sáng vàng vọt lên căn phòng. Xung quanh vẫn là những hình vẽ Đức Phật, La Hán, Hộ Pháp như lần trước anh xuống, màu sắc cs phần ảm đạm hơn nhiều. Trong góc phòng, nơi ánh đèn chiếu ít nhất, là thi thể co quắp của lão thầy Nam Vang. Có vẻ trước khi chết, lão đã chịu sự tra tấn dã man như cách lão luyện bọn ma con. Kế bên lão là bốn chum sành bị vỡ một phần, bên trong đựng thi thể kumanthong. Trần Đương lúc trước cũng thử dùng nhiều phương pháp để huỷ cả xác, nhổ cỏ tận gốc bọn ma con này, tuy nhiên vị đạo sĩ ông mời về không thể trừ được hoàn toàn, cũng chỉ có cách giam chân bọn này mà thôi. Tuy nhiên, sau này Sinh mới biết, Phục Ma Chú trên tay anh, cộng thêm chú Bồ Tát Kim Cương Thủ, có thể chế áp bọn ma con, làm chúng suy yếu thực sự rồi mới dùng đèn lưu ly, loại dầu trong đèn cầy đốt lâu năm ở gian thờ Phật mới có thể thiêu đốt được bọn chúng. Sinh đến chỗ cái xác lão thầy ngải, dùng sợi dây đỏ đính bùa luồn qua cổ lão, sau đó lôi ra giữa phòng. Bốn chum sành anh cũng đặt gần đấy. Không gian im lặng, thỉnh thoảng lại nghe tiếng cười khúc khích, tiếng bò loạt soạt trên tường. Sinh vẫn bình tĩnh buộc những sợi dây đỏ kia lên miệng chum. Xong xuôi anh ta tọa thiền ngay giữa phòng, trước khi tiến hành nghi thức, Sinh thoáng chau mày khi nghe tiếng hét của Hùng từ trên vọng xuống…



Trong thần thoại Phật Giáo, có một con quỷ tên là quỷ La Sát. Truyền thuyết về loài này gặp rất nhiều, nó do oán khí của ác linh và súc vật kết hợp mà thành hình, thân cao ba trượng, tay dài ba trượng, không đứng thẳng, chân gập như chân nhện, mặt đen như tro, nanh dài, mắt đỏ, mùi hôi thối, chuyên hút máu huyết người và vật nuôi, thường sống ở những nơi nhiều ác linh. Hùng từng nghe một số người bạn là dân tìm trầm kể đã gặp bọn này ở dải Hạ Lào, Trường Sơn nhưng chuyện ở An Giang này có, anh không ngờ chính mình lại được trải nghiệm. Dân săn trầm thường gọi quỷ này là Quỷ Mắt Đỏ. Tuy nhiên, những lần nghe kể, Hùng biết bọn này thường đi theo đôi, sống chung một nơi là thân cây lớn, tuy nhiên hiện giờ anh chỉ thấy có một con. Loài này sợ loại nước được pha với bùa trấn yêu, sợ ánh mặt trời. Hiện giờ nếu đợi mặt trời lên chắc anh và Thông đã hoá người thiên cổ rồi, còn bùa thì Hùng lại không biết vẽ. Tình hình bọn họ lúc này cũng chỉ như mành treo chuông, nếu cả hai không có những tháng ngày săn đá, đu leo vách núi rèn sự khéo léo và phản xạ, chắc bây giờ đã bị móng con quỷ này xẻ thịt mất rồi. Tuy bị con quỷ dồn ép, nhưng cả hai vẫn cố gắng chạy loanh quanh ngôi mộ tháp, không phải vì họ muốn giữ lời bảo vệ Sinh, mà vì chạy vào rừng lúc này chỉ có nước chết thảm, thà ở đây còn có ánh đuốc, phần nào cũng làm con quỷ mắt đỏ không bộc phát toàn bộ ma lực được. Thông chạy thế nào chân vấp phải tảng đá, ngã lăn quay, con quỷ ở ngay sau lưng anh vồ tới, chực chờ dùng vuốt xả thịt, Hùng lúc này đang đứng trên tháp mộ không ngần ngại phóng xuống, dùng dao xả mạnh một đường vào lưng con quỷ, tuy nhiên Hùng cảm giác anh chỉ đang chém vào không khí. Nhờ vậy mà con quỷ cũng bỏ quên Thông, quay ra sau dùng tay tán mạnh vào Hùng, anh chưa kịp né hoàn toàn nên bị hất văng ra xa, lúc này Thông kịp đứng dậy và chạy vòng ra sau tháp mộ, còn Hùng thì ngã vào một bụi sả dại. Sả cứa vào da thịt đau rát, mùi sả bốc lên nồng nặc, Hùng hơi hoa mắt nhìn về phía ngọn đuốc và con quỷ, anh không thấy con quỷ đâu cả, chỉ thấy Thông đang chạy loanh quanh, vừa chạy vừa như đang tránh né cái gì đó. Lập tức Hùng hiểu ra mọi chuyện, anh nói với qua chỗ Thông: 

“Mày ráng trụ giùm tao một chút, tao có cách xử con chó này rồi!” 

Thông vừa cuống cuồng né tránh vừa hét lên: “Nhanh nhanh đại ca ơi, em chưa muốn báo mộng cho anh đánh đề đâu!” 

Nói đoạn, Hùng bứt ngay một nắm sả, dù tay không bứt sả tứa cả máu anh cũng không quan tâm, dùng giày đạp dập phần rễ rồi đưa lên mũi hít một hơi thật mạnh, anh lấy một ít nhét vào cổ áo giữ mùi, tay anh cầm nắm rễ sả dập còn lại cùng cây dao, lao phăng phăng về phía Thông… 



Mồ hôi trên trán Sinh túa ra ngày càng nhiều mặc dù bên trong mộ tháp hết sức lạnh lẽo. Tiếng cười ngày một ma quái hơn, không hề tỏ ra sợ sệt trước những lời chú anh đọc. Xung quanh Sinh lúc này, cảm giác như có hàng trăm bóng trắng đang đứng, đôi mắt đen ngòm xoáy chòng chọc vào gáy. Nếu Sinh chưa tu tập đủ lâu thì không cần bốn con ma con, chỉ riêng cái áp lực ấy cũng đủ làm anh vỡ mật mà chết. Phương pháp Sinh đang làm là dùng chú siêu thoát cho những oán linh bị bọn ma con vật chết, sau đó áp chế tinh thần bọn chúng bằng chú Bồ Tát Kim Cương Thủ, khi chúng yếu đi rồi mới dùng đèn lưu ly thiêu đốt. Những bóng trắng xung quanh anh là những oán hồn đã chết vì bọn ma con, anh vẫn nhận ra sáu vị sư huynh của mình đang đứng lẫn trong đấy. Lời chú được đọc ra đều đều, cứ chốc chốc, lại có một nhóm bóng trắng biến mất. Tâm lý Sinh đến thời điểm hiện tại vẫn tĩnh, chỉ có điều anh đang suy nghĩ, bốn con ma con đó, có hai con phụ trách “coi nhà”, một con chuyên đi phá phách và một con chuyên giết người. Theo như Sinh quan sát, hai con giữ nhà đang ngồi trong góc, thời gian bị giam cầm dưới mộ tháp, bị yểm bùa siêu thoát của Lý sư phụ, cộng thêm tiếng tụng niệm từ chùa truyền lại ngày này qua tháng nọ, ít nhiều cũng làm tâm tính chúng không còn hung hăng; con phá phách thì đang bò quanh tường, thỉnh thoảng lại ném xương vào người Sinh, điều này cũng không sao, duy chỉ có con ác nhất - Phet Đặp, chuyên hạ sát kẻ thù thì anh vẫn chưa thấy nó xuất hiện. Sinh dồn hết pháp lực vào những câu chú, các bóng trắng biến mất ngày một nhiều hơn, bóng dáng con Phet Đặp vẫn chưa thấy đâu. Tuy nhiên, tiếng cười của của ma phá phách bò loạn xạ trên tường kia dường như đang nhỏ lại, rồi im bặt, hai con ma giữ nhà trong góc cũng lùi dần vào bóng tối. Cứ như là bọn chúng đang rất sợ một cái gì đó sắp xuất hiện! Những bóng trắng cuối cùng vừa biến mất, một trong bốn cái chum vỡ ra, sợi dây đỏ bị đứt, đó là cái chum đựng xác con Phet Đặp. Nó đã xuất hiện. Sinh trấn tĩnh tiếp tục đọc chú, ba con ma con kia lo sợ ác linh con này một phép, nên đã biến mất. Từ trong góc phòng, ánh đèn bão leo lét soi lên thi thể khô queo của tay thầy ngải Nam Vang, Sinh thấy cánh tay lão cử động, rồi cái đầu lão ngoẹo hẳn sang một bên, miệng há to ro, một bên xương hàm sắp rớt xuống, rồi lão từ từ đứng dậy.



Thông lồm cồm bò trên đất sau cú hất như trời giáng của con quỷ, đầu óc anh quay cuồng, chỉ thấy Hùng từ xa lao tới chém vào hạ bộ con quỷ, nó ré lên một tiếng đầy đau đớn, từ nơi vết thương rỉ ra làn khói đen dày đặc. Hùng quăng nắm sả qua, bảo Thông đưa lên mũi hít một hơi thật sâu. Sả nồng làm Thông sặc vài giây, nước mắt dàn dụa. Hùng đỡ anh dậy, lui về sát tường của tháp mộ. Thì ra lúc ngã vào bụi sả, hương sả làm Hùng tỉnh ra. Vốn dĩ, quỷ không như ma, nơi quỷ xuất hiện là tâm trí, chúng điều khiển tâm trí ta, khiến ta rơi vào ảo giác, khi đó những thầy pháp thường dùng lưu huỳnh hoặc mùi sả, một là để hắt xì, khiến não có rung động, đẩy sự ảo giác của quỷ ra, mùi sả giúp tần trí tỉnh táo, không tiếp tục rơi vào ảo giác nữa. Trong lúc hít mùi sả, Hùng phát hiện ra trước mắt mình không phải là quỷ mắt đỏ nguy hiểm nữa mà là ông kẹ. Ông kẹ là loại ma quỷ thường gặp, chỉ gây được ảo giác, làm con người sợ hãi rồi dồn họ vào chỗ chết, từ đó mà cướp được sinh khí. Ông kẹ không có hình dạng cố định, lúc Hùng tỉnh táo, anh thấy thực ra nó chỉ là một cục dạng như khói, màu đen đặc bay vòng quanh. Lúc đó, nó đang dồn Thông vào góc, Hùng vội phóng tới, cắm dao vào cục khói, chỉ nghe tiếng rống lên sau âm thanh “phập” gãy gọn. Bị thương, ông kẹ biến mất, tuy nhiên Hùng cảm giác như nó chưa bỏ đi mà chỉ chực chờ cơ hội phục thù. Cả hai nhét sả vào cổ áo giữ mùi, tay cầm dao lăm lăm. Thì ra do ảo giác của ông kẹ gây ra mà họ thấy cây đuốc của họ bị tắt, tâm lý hai người suýt chút nữa đã rơi vào tuyệt vọng. Lúc này thực tế hai cây đuốc vẫn cháy đều đều. Bỗng nhiên khói đen từ cánh rừng túa ra đầy chân họ, Hùng nhanh chóng nhảy lên tường tháp mộ, Thông chưa kịp làm vậy thì bị làn khói đó quấn lấy chân lôi đi, anh nhanh chóng dùng dao chặt mạnh vào làn khói, quả là có công hiệu khi đánh trúng vào thực thể của nó. Nó buông chân Thông ra, rít lên những âm thanh chói tai, lúc này một lần nữa Hùng lại phóng xuống nhưng anh không dùng dao đâm, mà là cọc kỳ nam. Cây cọc vốn dĩ bản thân nó đã có pháp lực, lại trải qua không ít năm trấn yểm bọn kumanthong, chỉ có càng ngày càng cứng chắc hơn chứ không hề yếu đi. Cú đâm rất mạnh, làn khói như dính chặt vào đất, tiếng hét của ông kẹ yếu dần rồi tắt hẳn, khói cũng tan đi. Tuy nhiên Hùng biết, ông kẹ không thể bị giết, cũng như con người không thể nào hết sợ, khi nào con người còn sợ hãi, ông kẹ vẫn hiện diện đâu đó. 

Cảm giác được ông kẹ đã đi mất Hùng và Thông dựa lưng vào tường nghỉ sức, chia nhau một điếu thuốc. Việc chiến đấu với ông kẹ vừa rồi khá nguy hiểm, tuy nhiên khi đuổi được nó, hai người họ cũng rất hưng phấn, sẵn sàng thử sức nếu có thêm ma quỷ nào xuất hiện. Từ khu rừng, chỉ vang lên những tiếng mèo kêu thỉnh thoảng, còn không thì nó hoàn toàn im lặng, im lặng đến ngột ngạt và đáng sợ. Lúc này, Hùng nghĩ chỉ cần đợi Sinh chui lên rồi anh và Thông té ngay, khỏi cần đi tìm cái viên ngọc rết kia nữa, khúc kỳ nam này cũng đủ để hai người trở thành đại gia nửa đời còn lại rồi. Nghĩ vậy, anh vô tình liếc về hướng cây đuốc, lần này là cây đuốc của Sinh, nó không tắt, nhưng ánh sáng xanh lơ chuyển thành màu đỏ rực, ánh lửa không còn mạnh, chỉ leo lét chực chờ tắt ngóm. Hai người vội đứng dậy nhòm xuống dưới thông qua lỗ hổng, chỉ thấy được giữa ánh đèn bão mờ mờ, Sinh đang co quắp lại bởi một thứ gì đó không nhận dạng được. Hai người vội rụt cổ lại, Thông lên tiếng: 

“Té lẹ thôi đại ca!”, vừa nói anh cũng vơ luôn cái ba lô. Có lẽ chỉ trong mười giây hoặc ngắn hơn, Thông đã chạy tót đến chân núi rồi, nếu như anh không thấy Hùng vẫn đang đứng lại đó, đang chuẩn bị dây thừng. “Anh có bị gì không? Anh định xuống đó cho nó vật chết hả?”

Hùng chỉ lặng lẽ đáp: “Ừa, anh quyết rồi, anh bỏ chạy bỏ mặc thằng Sinh ở đây, cả đời chắc anh không còn mặt mũi nhìn ai!” vừa nói, Hùng vừa nhìn vào chiếc hộp đựng cọc kỳ nam - có lẽ chính sự tin tưởng Sinh đặt cho anh đã làm anh quyết định xem Sinh là đồng đội, mà là đồng đội thì ai lại bỏ mặc cho được nếu kẻ đó còn chút lương tri. 

Huống hồ giới trồng lan, quan trọng nhất là sống có đạo nghĩa. Hùng nói tiếp: “Anh với mày coi như xong việc ở đây, mày cầm lấy hộp kỳ nam này, đợi anh ở thị trấn!”

Thông vốn là người thẳng tính, suy nghĩ đơn giản và hơn hết là tin tưởng Hùng tuyệt đối. Tuy trong tâm vẫn còn thấy cân cấn, cảm giác kiểu bất an không biết là gì nhưng anh vẫn chụp lấy hộp kỳ nam rồi quay đầu chạy. Trước khi đi không quên nói vọng lại, quả quyết rằng sẽ đợi Thông và Sinh ở thị trấn như lời hẹn.

Lại nói về Sinh, khi thấy thi thể của lão thầy Nam Vang cử động, cậu ta hiểu ngay là con Phet Đặp đã nhập vào cái xác để giảm bớt sự ảnh hưởng của chú Bồ Tát Kim Cương Thủ. Cái xác đứng dậy, tứ chi co gập khó coi, phần bụng của lão nứt ra, từ đó lòi ra một khuôn mặt nhỏ, hốc mắt to và sâu hoắm, nó ngoác miệng ra hét lên những tiếng chói tai. Từ tứ chi của lão thầy ngãi mọc ra những thứ như xúc tu, nó phi tới đánh vào người Sinh những cú mạnh như trời giáng. Lúc đó xung quanh Sinh có pháp khí toả ra từ Ấn Chú Phục Ma, cộng với lời kinh Bồ tát Kim Cương Thủ, con Phet Đặp khó lòng lại gần, đành dùng xúc tu tấn công từ xa, tuy nhiên có vẻ sau mỗi cú đánh, người đau lại chính là nó. Sinh biết lúc này là lúc nó đang trên đà suy yếu, nên đành bất chấp hiện nguyên hình, chỉ cần cậu cố gắng thêm chút nữa sẽ thành công. Con Phet Đặp lại tuôn ra một tràng tiếng thét, bỗng đâu ba con ma con còn lại lù lù xuất hiện từ bóng tối, đầy e dè nhảy vào cắn Sinh. Hai con giữ nhà do quỷ khí hãy còn yếu, bị đánh bật lại, chỉ có con quỷ phá, nó cứ bò loanh quanh cười the thé vào tai Sinh… Từ trạng thái thiền định, cứ nghĩ Sinh không thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên con quỷ phá lại sợ con Phet Đặp, nó cứ bất chấp pháp khí toả ra, bò lên người Sinh, làm anh nhớ đến cái chết đầy đau đớn của Lý sư phụ. Hình ảnh đó quả đúng là đã đánh trúng tâm lý của Sinh, chỉ trong một sát na dao động, anh đã bị phá vỡ khỏi trạng thái thiền định, pháp khí anh tỏa ra bị suy yếu, ngay lập tức con Phét Đặp vung tới tấp xúc tu đánh vào anh. Sinh cuộn tròn người lại né tránh, không quên găm một dao vào con quỷ phá làm nó kêu ré lên rồi biến mất. Đến nước này, Sinh đành bất chấp đốt hết tất cả. Nghĩ đoạn, anh lấy tay che chắn, đồng thời lộn vòng chụp lấy cây đèn cầy, định lực cầm chắc rồi xông vào cái xác ông thầy ngãi, đồng quy vu tận. Tuy nhiên, vừa đứng dậy thì xúc tu tứ phía đã bủa vây đánh vào chỗ hiểm. Sinh không kịp suy nghĩ nhiều, anh bộc phát toàn bộ dương khí của Bồ Tát Kim Cương Thủ, khai phá Ấn Chú Phục Ma cầm cự. Hai bên giằng co, con quỷ muốn huỷ cây đèn nhưng cũng bị áp chế, Sinh muốn xông tới được thì phải giữ thế cân bằng đám xúc tu. Mồ hôi Sinh túa ra ướt cà sa, do việc vận pháp khí như vậy rất tốn sức chỉ một giây sơ sẩy như lúc nãy sẽ phải trả giá bằng tính mạng. Đang căng mình ra, Sinh bỗng nghe từ phía đỉnh tháp có một tiếng hét, rồi từ trên, Hùng nhảy xuống chém mạnh vào đám xúc tu. Con quỷ con thét lên, rụt về. Tuy Hùng chém đứt đến mấy cái xúc tu, tuy nhiên trước áp khí quỷ dị quá lớn từ Phet Đặp, anh cũng văng ra xa hồn phách cũng bị dao động. Cơ hội ngàn vàng xuất hiện, Sinh lập tức lao tới, luồng pháp khí dâng cao mạnh mẽ, tay cầm ngọn đèn lưu ly, anh ấn vào bụng của cái xác. Ngọn lửa lưu ly cộng hưởng với pháp khí, cháy lên rừng rực, con Phet Đặp vừa trọng thương lại dính ngay lửa lưu ly, chưa kịp thoát ra ngoài, chịu thiêu đốt hồn phách. Nó vun xúc tu khắp nơi, những tiếng thét như cả ngàn con trâu rống cùng lúc. Loại lửa lưu ly này bạ đâu cháy đó, khi cháy rồi thì vật bị đốt thành tro mới dừng, con Phet Đặp vun vẫy một hồi làm lửa bắn ra như pháo bông, thoáng cái cả cái hố đã chìm trong biển lửa. Chỗ đứng của Hùng và Sinh giờ thu lại chỉ vừa đủ hai người. Hùng quát lớn:

“Lên được rồi. Một hồi tao với mày thành người quay bây giờ!” 

Không chờ câu trả lời của Sinh, Hùng chụp lấy sợi dây thừng, giựt mạnh vài cái để kiểm tra độ chắc, theo bản năng thôi. Anh thúc Sinh leo lên trước rồi anh cũng nối gót theo sau. Ai ngờ, con Phet Đặp dường như còn chút ý thức, thấy cả hai bỏ chạy liền nảy ra ý định lôi xuống chết chung. Nó khua toàn bộ xúc tu về phía sợi dây, lửa lưu ly bay như súng súng phun lửa, Sinh nhìn lên trên, miệng anh liên tục niệm Phật, mong sau cho đám lửa đừng trúng sợi dây thừng. Nhưng thật xúi quẩy!

Dây thừng đứt.

Cả hai chưa trèo được bao nhiêu lại phải rớt xuống, lưng đập xuống sàn đá nghe như tiếng bao cát. Cũng may không rớt xuống chỗ đám cháy, không thì một phần sống chín phần người quay. Sinh quay lại, thấy con ma phá phách cười lớn hơn bao giờ hết, giọng điệu ma mi như báo trước cái chết giờ đã đuổi đến sát đít: chỉ còn một lần vẫy lửa của con Phet Đặp nữa thôi. Hùng chửi thề mấy tiếng, cố bám bờ đá mà trèo nhưng vô ích, nó quá trơn. Anh quay sang Sinh, thấy vị sãi trẻ đã toạ thiền tự bao giờ, giống như nhiệm vụ của Sinh đã xong, cái chết giờ chỉ nhẹ như cái lông gà lông vịt mà thôi. Chợt Hùng rưng rưng, không phải vì sợ cái chết, mà chỉ thấy cái an yên này thật đẹp và phi thường. Anh cũng bắt chéo hai chân, định ngồi xuống cạnh Sinh. 

“Đại ca!” Giọng nói rắn rẻo không lẫn được vào đâu của Thông gọi vọng xuống, tiếp theo đó là cái đầu dây thừng nặng chịch rơi cạnh chân Hùng, “anh đánh giá thấp thằng em này quá rồi. Cùng đi thì cùng về, trèo lên nhanh, chỗ này sắp thành lò luyện đơn mẹ nó rồi!”

Thấy Sinh đã mở mắt nhưng còn chưa định thần, Hùng chạy đến lay rồi nói: “Coi như đức Phật vẫn còn thương anh em mình!” Hùng nhanh nhẹn đu người lên sợi dây, trên trần đã xuất hiện những vết nứt sau trận lửa lưu ly lúc nãy. Hùng vừa leo, vừa ngoái nhìn bên dưới. Ngọn lửa nhanh chóng thiêu đốt con Phet Đặp, màu lửa xanh lơ mạnh mẽ rồi chập chờn dần, lúc này trần cũng đã bắt đầu sụp lở. Sinh đu theo dây leo lên nhanh, cả hai vừa ra đến ngoài, những tảng đá tảng đỡ trần tháp đã sụp xuống, đè lên cái xác cháy đen của oán linh. Ba người ngồi thụp xuống, còn chưa kịp thở thì họ rợn người khi nghe một âm thanh còn kinh dị hơn tiếng thét con ma con - tiếng ong đập cánh. Do phần chóp tháp mộ dính với một phần dây leo của một nhánh cây, trên đó có một tổ ong vò vẽ. Khi mộ tháp sụp đổ đã kéo theo cành cây đó rớt xuống. Tiếng rơi nói lên tổ ong đó không hề nhỏ. 

Cả ba nhìn nhau, rồi Sinh nói: “Chạy theo tôi! Nhanh!”. Cả ba phóng như bay, phía sau là muôn triệu tiếng đập cánh đáng sợ. Mỗi người chỉ cần để nó chích khoảng hơn chục mũi, thì mình mẩy đã tròn như cái bánh tét, chết như vậy quả thật không ai muốn. Rừng đêm âm u, chỉ có nước chạy đến hồ Tà Pạ gần đó, phóng xuống nước mới cắt đuôi được, Hùng và Thông bám đuôi sát sau chân Sinh, luồn lách các thứ thì sau lưng rất gần vẫn là tiếng đập cánh chết chóc. Vừa may, khi bọn ong đuổi kịp, cả ba người đã phóng thẳng xuống hồ.

Hồ Tà Pạ là thành quả còn lại sau đợt khai thác đá, hồ sâu nhất có chỗ lên đến 17m, giữa đêm phóng xuống, làn nước lạnh hơn băng nhưng cả bọn không thể ngoi lên ngay được. Theo sự hướng dẫn của Sinh, họ lặn vòng qua một nhánh nhỏ hơn của hồ. Vừa trồi lên, họ hít lấy hít để không khí trời đêm cũng lạnh ngắt, phía bên kia mô đá, tiếng đập cánh nghe như một trận cuồng phong. Họ men theo mép nước, bơi ra xa rồi mới leo lên bờ. Cả ba vừa ngồi xuống thở, còn chưa kịp nói với nhau câu gì, Sinh bỗng hét lên rồi đổ vật ra, điệu bộ đầy đau đớn. Hùng vội xem cánh tay của Sinh, chỗ Ấn Chú Phục Ma xuất hiện những vết thâm, gân máu nổi lên bầm đen, nhìn như vùng đó có dấu hiệu hoại tử, chúng đang lan ra, tuy rất chậm! Hùng nghĩ, phen này Sinh bị nhiễm âm khí nặng rồi. Sinh gom chút sức lực, thì thào gì đó nghe không rõ, Hùng phải kê sát tai vào mới hiểu được. Vẻ mặt Hùng căng thẳng cực độ khi Sinh ngất đi, không nói được nữa. Hùng bỗng kéo tay áo anh lên, xem bắp tay, trên đó cũng đã xuất hiện vết bầm giống của Sinh, nhưng nhỏ hơn nhiều. Thông lo lắng hỏi: “Có chuyện gì nữa vậy anh?”, Hùng bối rối trả lời: “Tao cũng không hiểu ý nó là gì, ngoại trừ… “, Hùng bỏ lấp lửng làm Thông hỏi mãi, Hùng định thần lại rồi mới nói đầy nghi hoặc: “Từ đây tới 3h sáng, nó bảo mình phải tới được Trà Sư, tìm cái “đò ma”, nếu không thì tao với nó chết chắc trong ngày mai!”