Một ngày nữa lại trôi qua, mặc dù sự lo âu của Innokenty không giảm, vẫn không có gì khả nghi là việc làm của chàng bị bại lộ xảy ra hết. Tuy vậy, Innokenty biết rằng đêm xuống, chàng sẽ lo sợ nhiều hơn, bởi vậy chàng quyết định sẽ đi coi hát cùng với Dotty, vợ chàng. Chàng sẽ trốn trong rạp hát để khỏi phải giật mình mỗi khi có tiếng chuông cửa.
Bỗng tiếng chuông điện thoại reo vang. Đây là lúc vợ chồng Innokenty sửa soạn đi coi hát. Dotty, tươi trẻ và quyến rũ trong bộ áo tắm mặc sơ trên người, vừa đi ra khỏi phòng tắm.
Innokenty đứng đó, chàng mệt mỏi nhìn xuống máy điện thoại:
"Dotty" - chàng bảo vợ - "em trả lời cho anh. Có ai hỏi anh em trả lời anh không có nhà, không biết đến bao giờ anh về. Họ có thể làm hỏng đêm nay của vợ chồng mình".
Một tay nắm ngực áo. Dotty nhấc ống nói:
"Alô? Nhà tôi không có nhà… Ai? Ai đó?"
Bỗng dưng giọng nói và vẻ mặt của nàng đổi thành thân thiện:
"Alô… Kính chào Đồng chí Đại tướng… Dạ… dạ…để tôi hỏi lại xem… Xin chờ…"
Nàng che ống nói và đôi mắt sáng lên, nhìn chồng:
"Đại tướng muốn nói chuyện với anh. Ông ấy có vẻ vui lắm…"
Nghi ngờ nổi lên trong Innokenty. Việc ông Đại tướng đích thân gọi tới nhà một nhân viên dưới quyền ban đêm, và ông lại tỏ ra vui vẻ nữa, là một việc ít có.
Dotty ghi nhận sự do dự của chồng, nàng linh động nói vào máy:
"Có người mở cửa. Chắc là nhà tôi về… Dạ, đúng là nhà tôi. May quá…. Ini… lại đây mau… Đại tướng gọi anh…"
Mặc dù Dotnara chưa từng bao giờ học về diễn xuất, nàng cũng chưa bao giờ lên sân khấu đóng kịch nhưng giọng nói của nàng làm cho kẻ đa nghi nhất ở đầu dây nói bên kia cũng phải nhìn thấy cảnh Innokenty vừa mở cửa vào nhà, giơ tay định cởi áo ngoài và trước tiếng gọi của vợ, đi tới chỗ đặt máy điện thoại.
Giọng nói của ông Tướng đúng là giọng nói vui vẻ như Dotty đã nhận thấy. Ông hiền hòa báo cho Innokenty biết rằng sự ủy nhiệm của chàng đã được cấp tối cao chấp thuận: sáng thứ Tư, chàng sẽ ngồi phi cơ bay đi Paris, ngày mai chàng sẽ bàn giao chức vụ ở Bộ và ngay bây giờ, chàng phải tới sở để nhận những chỉ thị mật cuối cùng. Chàng sẽ mất chừng nửa tiếng đồng hồ. Một chiếc công xa đã được Bộ Ngoại giao cho tới nhà chàng để đón chàng.
Innokenty đặt máy xuống. Chàng thở ra một hơi dài, hài lòng, nhẹ người. Cùng với hơi thở này, chàng trút hết cơn sợ hãi và nghi ngờ dồn ép ở trong ngực chàng kể từ phút chàng gọi điện thoại đến nhà Giáo sư Dobroumov.
"Dotty… anh sẽ bay đi Paris vào sáng thứ Tư. Ngay bây giờ anh phải tới sở…"
Vợ chàng đã ghé tai vào ống nghe và nàng cũng đã nghe rõ tất cả, nàng nghiêng đầu, duyên dáng hỏi chồng:
"Chỉ thị mật là những chỉ thị gì? Có chỉ thị nào liên can đến em không?"
"Có thể".
"Anh sẽ nói gì với họ về em? Không có em, làm sao anh đến Paris được? Anh cứ nói là không có em, anh không thể làm việc được. Em muốn đi Paris với anh".
"Tất nhiên là em cũng đi chứ, nhưng không đi ngay thôi. Anh phải đến Paris trước, làm quen với mọi việc, mọi người…"
"Nhưng em muốn đi Paris ngay kia".
Innokenty mỉm cười, chàng hôn nhẹ lên má vợ:
"Để anh gắng xem, cũng có thể là em cùng đi ngay với anh, có thể là em phải đi sau. Chưa thấy họ quyết định gì cả. Bây giờ anh tới Bộ. Họ cho xe đón anh, em cứ sửa soạn, nhưng từ từ thôi. Đừng vội. Chúng mình sẽ bỏ màn đầu. Đêm còn dài. Trước khi về, anh sẽ gọi điện thoại từ Bộ cho em biết".
Chàng vừa bận xong bộ sắc phục ngoại giao thì có tiếng chuông cửa, người tài xế của Bộ đem xe đến đón. Người tài xế này không phải là Victor, người vẫn thường đến đón chàng mọi ngày. Hắn hơi gầy, cử chỉ nhanh nhẹn, nét mặt vui và có vẻ có học. Hắn đi sát sau Innokenty trên đường xuống thang lầu, tay hắn quay quay dây chìa khóa xe.
"Tôi không nhớ mặt anh…" Innokenty vừa gài nút áo ngoài vừa nói.
"Tôi có được đến đón ông hai lần…"
Gã tài xế nhanh nhẩu đáp. Nụ cười của hắn vừa ngây thơ vừa tinh quái. Innokenty nghĩ rằng hắn thuộc tài xế khôn lanh rất được việc và làm được nhiều việc khác ngoài việc lái xe.
Họ vào chiếc xe đen đậu trước cửa và xe mở máy chạy đi. Innokenty ngồi ở băng sau. Hai lần, gã tài xế gợi chuyện nói với chàng nhưng chàng không nghe. Bỗng chiếc xe quẹo gấp vào vỉa hè và dừng lại. Innokenty nhìn thấy một người đàn ông hãy còn trẻ đứng ở bên hè với ngón tay giơ lên:
"Ông này là Ủy viên Kiểm soát Công xa…" - gã tài xế giải thích - "chúng tôi bắt buộc phải cho ổng đi nhờ…"
"Được. Được. Không sao…"
Gã tài xế nhoài người ra mở cánh cửa băng trên, nhưng khóa cửa bị kẹt, hắn tắc lưỡi rồi ngoảnh lại nói:
"Đồng chí Cố vấn… xin phép đồng chí cho ông ấy được ngồi băng sau… Tôi bị bắt buộc…"
"Được. Được. Không sao".
Innokenty nhắc lại. Chàng đang ở trong trạng thái tâm hồn phơi phới, chàng như đang nhìn thấy chàng nhận sổ thông hành, chiếu khán, đi theo đoàn hành khách vô tư lên phi cơ, bay vút lên trời, bỏ hết mọi nguy hiểm, âu lo lại sau lưng.
Gã Ủy viên Kiểm soát Công xa, một điếu thuốc dài gắn trên vành môi, cúi mình vào xe. Gã nói: "Xin lỗi" và buông mình ngồi phịch xuống.
Chiếc xe chồm trên mặt đường.
Trong khoảnh khắc, Innokenty cảm thấy cái cảm giác ghê tởm phải ngồi ăn với một gã đàn ông lạ mà chàng nghi là không được sạch sẽ lắm. Chỉ trong nửa phút xe chạy, gã đàn ông lạ đó đã làm không khí trong xe tràn đầy khói thuốc lá.
Innokenty nói, giọng hơi gay gắt:
"Hạ cửa xe cho khói ra chứ".
Nhưng gã đàn ông lạ như không nghe rõ chàng nói gì. Gã không hạ cửa kiếng xe, thay vì làm thế, gã nghiêng người móc trong túi ra một tờ giấy, mở rộng, đưa cho Innokenty:
"Này, đồng chí, đọc giùm tôi cái này, để tôi chiếu đèn cho sáng".
Xe chạy vào một con đường tối, có thể là đường Pushecnhaya. Gã đàn ông lạ móc túi lấy ra cây đèn bấm làm theo kiểu cây viết. Gã chiếu vòng ánh sáng vàng lên mặt giấy xanh. Innokenty nhún vai, chàng đỡ lấy tờ giấy với cảm giác ghê tởm và bắt đầu lơ đãng đọc:
"Tôi, Chưởng lý Công tố viện Liên bang Xô Viết ra lệnh…" Vừa đọc chàng vừa nghĩ đến chuyện tại sao gã lạ mặt này lại đưa cho chàng đọc tờ giấy này, bộ gã không biết chữ hay sao, hay là gã say rượu? - "bắt giam" - chàng đọc nhưng vẫn chưa hiểu là chàng đang đọc gì - "tên Volodin, Innokenty Aratemyevich, sinh năm 1919…"
Chỉ đến lúc đó, khi thấy tên mình hiện lên trên tờ trát tống giam, Innokenty mới thấy chàng bị đâm suốt từ đầu đến chân, bằng một mũi kim dài và nhọn hoắt. Chàng mở lớn miệng, nhưng không một âm thanh nào thoát ra được. Bàn tay, vẫn cầm tờ giấy, rơi xuống đùi chàng và gã đàn ông lạ mặt, đưa tay trái lên nắm cổ áo chàng, chiếu đèn bấm vào mặt chàng, gằn giọng:
"Ngồi im. Ngồi im. Đừng làm bậy. Chết ngay lập tức…"
Gã làm Innokenty hoa mắt vì ánh đèn và thở khói thuốc mù mịt mặt chàng.
Mặc dù Innokenty vừa đọc lệnh bắt giam chàng, và mặc dù chàng hiểu rằng đời chàng đến đây là hết, ngay lúc đó, điều làm chàng không sao chịu nổi là những ngón tay cứng như sắt của kẻ lạ túm lấy cổ áo chàng, và ánh đèn, khói thuốc phà vào mặt chàng:
"Buông ra…"
Chàng đưa những ngón tay run rẩy lên gỡ bàn tay nắm cổ chàng, tuy chàng biết hơn ai hết rằng trát bắt giam không phải là trát giả mạo, chàng bị bắt thực sự nhưng chàng vẫn còn tin rằng nếu chàng tới được Bộ Ngoại giao, gặp được những thượng cấp quen biết của chàng, lệnh này sẽ được hủy bỏ. Chàng run rẩy mở cửa xe, nhưng khóa cửa không mở.
"Tài xế…" - chàng giận dữ kêu lên - "thế này là nghĩa lý gì? Các người định làm gì tôi?"
Gã tài xế thay đổi hẳn thái độ, vừa gia tăng tốc lực cho xe chạy mau hơn, gã vừa hung hãn trả lời:
"Tôi phục vụ Liên bang Xô Viết…"
Xe chạy qua công trường Lubyanka sáng trưng ánh đèn như cố ý để cho Innokenty nhìn thấy lần cuối cùng không những là thế giới mà chàng sắp rời bỏ mà còn cho chàng thấy cả hai tòa nhà Lubyanka Cũ và Mới, một trong hai tòa nhà đó, năm tầng cao, là nơi kết liễu cuộc sống của chàng.
Nhiều dãy xe hơi dừng lại khi đèn đỏ và từ từ chuyển bánh khi đèn đổi màu xanh. Những chiếc xe buýt chở đầy người. Hai bên vỉa hè, người ta chen vai nhau đi. Không ai biết gì đến nạn nhân đang bị bắt đi đến chỗ chết thê thảm ngay ở trước mắt họ.
Chiếc xe chạy tới ngang mặt tòa nhà nổi tiếng khắp thế giới và quẹo vào đường Lubyanka Bolshaya. Những cánh cổng sắt đen mở ra khi xe vừa tới và đóng ngay lại khi xe vừa đi qua.
Khi xe chạy qua cổng sắt, nắm tay trên cổ áo Innokenty mới nới lỏng, khi xe vào đến sân, gã lạ mặt mới hoàn toàn buông chàng. Gã nhanh nhẹn mở cửa xe bên phía gã và bước ra:
"Đi ra…"
Gã tài xế cũng xuống xe. Gã mở cánh cửa xe phía Innokenty. Rõ ràng là ở trong xe mở không được cửa nhưng ở ngoài thì mở được.
"Đi ra. Tay để ra đằng sau".
Gã cũng nói bằng giọng ra lệnh. Lúc này, gã không còn giống chút nào với gã tài xế tươi tỉnh, vui vẻ khi Innokenty mới nhìn thấy gã.
Innokenty ra khỏi xe. Chàng đứng thẳng người lên và làm theo lời ra lệnh, mặc dù chàng không biết tại sao chàng lại làm theo, chàng đặt hai tay ra đằng sau.
Bọn đi bắt chàng đã đối xử với chàng một cách thô bạo nhưng dù sao, việc bị bắt, đối với chàng, cũng không đến nỗi ghê khiếp quá như chàng tưởng tượng trong thời gian chờ đợi bị bắt. Chàng có cái cảm giác gần như là dễ chịu. Như vậy là chàng không có cái gì phải sợ nữa, không còn gì để phải chiến đấu, phải giả vờ. Chàng có cảm giác tê dại như người lính khi bị thương.
Chàng nhìn quanh mặt sân nhỏ, tăm tối. Mặt sân này là đáy một cái giếng sâu, thành giếng là những tòa nhà cao bao quanh.
"Không được nhìn" - gã tài xế đẩy chàng - "Đi".
Họ đi thành hàng một, Innokenty đi giữa, qua những nhân viên mật vụ bận đồng phục MGB thản nhiên, qua một cổng đá thấp, xuống vài bậc đá, vào một mặt sân nhỏ khác - sân này có mái che nên u tối hơn - rồi rẽ trái. Gã tài xế mở một cánh cửa, cánh cửa này trông sang và đẹp như cửa phòng mạch bác sĩ nhà giàu.
Cửa mở vào một hành lang nhỏ, sạch, sáng đèn. Gã tài xế đi đầu bắt đầu tắc lưỡi như để gọi chó mặc dù không thấy bóng một con chó nào hết.
Hành lang ngừng trước một cánh cửa khác. Nửa trên của cánh cửa này là kiếng nhưng có màn nhung che bên trong. Trên tường có tấm bảng đồng khắc hàng chữ: PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT.
Gã tài xế nhấn chuông cửa. Tấm màn bên trong được vạch ra và bộ mặt dài như mặt ngựa của người gác, bận đồng phục mang cấp bậc Trung sĩ, thản nhiên nhìn ra. Rồi y mở cửa và gã tài xế một mình bước vào phòng. Cánh cửa đóng lại sau lưng chúng.
Innokenty và gã mặt lạ đứng im lặng trước khung cửa.
Tấm bảng PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT là thứ bảng giống như bảng NHÀ XÁC hoặc PHÒNG TIẾP NHẬN XÁC CHẾT - và nghĩa của nó cũng như thế. Innokenty không còn có cả ý lực để tỏ thái độ bất bình với gã đàn ông lạ mặt đã đóng kịch để bắt chàng, gã đàn ông đầy hỗn xược. Chàng nên phản đối, la hét, đòi hỏi pháp luật và công lý, nhưng lúc này, chàng quên mất cả việc chàng vẫn giữ hai tay sau lưng. Tâm trí chàng đã ngừng hoạt động và chàng nhìn ngây, như bị thôi miên, lên tấm bảng PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT.
Cánh cửa lại mở và gã nhân viên mặt dài ra hiệu cho họ bước vào. Gã đi trước họ, lưỡi tặc tặc như gọi chó.
Trong phòng này cũng không có chó.
Phòng có đèn sáng và sạch như phòng bệnh viện.
Trong phòng có hai cửa sơn xanh, gã nhân viên mở một cánh cửa và nói:
"Vào đây".
Innokenty bước vào. Chàng vừa vặn kịp nhìn quanh để biết rằng phòng này không có cửa sổ và đồ đạc trong phòng chỉ là một cái bàn gỗ dài và hai cái ghế đẩu, hai tên mật vụ đi bắt chàng đã tới sau lưng chàng. Một tên khóa hai tay chàng ra sau lưng, tên kia lục soát các túi chàng.
"Các người ăn cướp à?" - Innokenty kêu lên, nhưng tiếng kêu của chàng đã yếu "…Ai cho các anh có quyền khám tôi…?"
Chàng yếu đuối chống cự, nhưng tự biết rõ rằng đây không phải là bọn cướp bóc và hai gã mật vụ này chỉ làm công việc được giao phó cho chúng làm sức lực của chàng tiêu tan và giọng nói của chàng thiếu những thanh âm quyết liệt.
Họ lấy chiếc đồng hồ vàng ra khỏi túi chàng cùng hai cuốn sổ tay, một cây bút bằng vàng, và một chiếc khăn tay. Chàng nhìn thấy trong tay chúng cái phù hiệu đeo ở vai áo của nhân viên ngành ngoại giao nhưng ngay lúc đó chàng không biết đó chính là phù hiệu của chúng lột ra ở vai áo của chính chàng. Cuộc giằng co tiếp tục. Gã mật vụ đóng vai Ủy viên Kiểm soát đưa trả chàng cái mùi-soa.
"Cầm lấy".
"Bàn tay bẩn thỉu của các anh đã cầm nó…"
Innokenty rít lên và lùi lại, như chàng bị bắt cầm một vật gì ghê tởm.
Chiếc khăn rơi xuống sàn.
"Người ta sẽ cho anh một tờ biên nhận những vật này…"
Gã mật vụ lái xe nói, sau đó cả hai đi vội ra khỏi phòng.
Gã Trung sĩ mặt dài, trái lại, đủng đỉnh không chút vội vàng. Nhìn chiếc khăn tay nằm dưới sàn, gã khuyên:
"Nên nhặt lên là hơn".
Nhưng Innokenty vẫn không chịu cúi xuống.
"Chúng nó lột phù hiệu của tôi…"
Chàng điên lên vì giận. Đến lúc này chàng mới biết là cặp phù hiệu trên vai áo của chàng đã bị hai tên mật vụ lột mất.
"Hai tay sau lưng" - gã Trung sĩ nói bằng một giọng máy móc - "Đi".
Và gã tắc lưỡi.
Hành lang đi vòng và mở vào một hành lang khác, hai bên có những ô cửa nhỏ sơn màu xanh ô-liu. Mỗi ô cửa có một bảng số ghi hình bầu dục. Trong lúc Innokenty và gã Trung sĩ đi qua hành lang, một cô nữ nhân viên mật vụ đã có tuổi, cũng bận đồng phục MGB, cũng mang cấp bậc Trung sĩ, đang đứng nhìn qua lỗ nhòm đục trên cánh cửa vào một văn phòng. Mụ thản nhiên buông miếng gỗ che lỗ nhòm xuống và quay lại nhìn Innokenty như chàng từng đi qua đi lại trước mặt mụ cả trăm lần trong ngày và không hề có gì lạ đáng để ý trong việc chàng đi trước mặt mụ một lần nữa. Mụ tra một chìa khóa dài vào ổ khóa thép của ô cửa ghi số 8, đẩy cánh cửa và ra hiệu cho chàng:
"Vào đi".
Innokenty bước qua cánh cửa vào phòng. Trước khi chàng kịp quay lại để hỏi, cánh cửa đã đóng lại.
Như vậy đây là nơi chàng phải sống? Một ngày? Một tháng? Một năm? Nhiều năm? Không thể gọi đây là một căn phòng, cũng không thể gọi đây là một xà lim, bởi vì, qua những gì ta biết nhờ sách vở, một căn phòng ít nhất cũng phải có một cửa sổ, và có chỗ để có thể đi đi lại lại, dù rất nhỏ, rất hẹp. Ở đây Innokenty không thể bước đi, cũng không thể nằm xuống được, chàng chỉ có thể ngồi. Một cái bàn gỗ và một cái ghế đẩu chiếm hết chỗ. Ngồi lên ghế, chàng không duỗi thẳng chân ra được.
Không còn gì nữa trong cái ô nhỏ này. Tường và trần sơn trắng được chiếu sáng rực bởi một bóng điện 200 nến nằm trong cái giỏ dây thép trên trần.
Innokenty ngồi xuống. Hai mươi phút trước chàng còn đang tưởng tượng ra cảnh chàng đến Paris nhận chức vụ mới. Hai mươi phút trước cuộc đời chàng là một dòng sự kiện êm đẹp, trôi chảy nhịp nhàng, những sự kiện ăn khớp với nhau, soi sáng cho nhau và mỗi sự kiện đánh dấu một thành công. Nhưng hai mươi phút đã qua, giờ đây trong cái bẫy nhỏ hẹp này, cuộc đời cũ đối với chàng chỉ là một xâu những lỗi lầm, những thất bại.
Không có tiếng động nào vang từ ngoài hành lang vào, trừ đôi khi có tiếng mở cửa đâu đó. Chừng hai phút một lần, một số gỗ che lỗ nhìn được nhấc lên và một con mắt nhìn qua làn kiếng vào chỗ chàng. Ở trong nơi nhỏ hẹp này, người tù không thể có chỗ tránh được mắt nhìn soi mói của người canh.
Innokenty bắt đầu cảm thấy nghẹt thở và nóng bức. Chàng cởi chiếc áo ngoài và buồn rầu nhìn vai áo bị lột mất cầu vai. Không có đinh treo áo trên tường, chàng phải để áo và mũ lên bàn.
Một chuyện kỳ lạ nữa xảy ra, giờ đây cuộc đời chàng đã bị sét đánh trúng, Innokenty vẫn không thấy trí óc mình tê liệt vì sợ hãi. Thực ra, trí óc chàng lại bắt đầu làm việc, nó tập trung vào những lầm lỗi chàng đã phạm. Tại sao chàng không đọc kỹ, đọc hết trát bắt giam? Tờ trát ấy có hoàn toàn hợp pháp không? Có con dấu của nhà nước trên đó không? Có chữ ký của ông Biện lý không? Có. Chàng nhớ rằng chữ ký ở ngay trên đầu tờ giấy. Nhưng chàng không nhớ trát được ký vào ngày nào. Và chàng bị kết tội gì? Không biết ông Đại tướng có biết vụ này hay không khi ông gọi điện thoại cho chàng? Chắc chắn là ông phải biết. Như vậy nghĩa là cuộc điện đàm đó cũng chỉ là một phần trong màn kịch bắt chàng. Tại sao họ phải bày ra hai tên tài xế và Ủy viên Kiểm soát?
Chàng cảm thấy có vật gì nhỏ và cứng nằm trong một túi áo. Móc ra xem, chàng thấy đó là cây viết chì nhỏ rơi ra từ một quyển sổ tay của chàng. Innokenty mừng rỡ khi tìm thấy cây bút. Nó có thể hữu dụng với chàng. Bọn này thật tồi. Ngay cả trong khám đường Lubyanka bọn mật vụ cũng không thực hiện được một cuộc khám xét chu đáo. Sau khi lựa chỗ tốt nhất để giấu cây bút, Innokenty bẻ bút làm hai, đặt mảnh bút vào trong giày, chỗ giữa lòng bàn chân.
Ồ, chàng đã quá vội vã. Lẽ ra, chàng phải đọc hết trát lệnh bắt giam để xem họ bắt chàng vì tội gì. Rất có thể chàng bị bắt không phải vì tội chàng gọi điện thoại đến báo tin cho Giáo sư Dobroumov. Rất có thể là họ bắt lầm, cũng có thể là sự tình cờ. Chàng phải có thái độ gì bây giờ?
Chỉ có một thời gian ngắn trôi qua, nhưng chàng đã nhiều lần nghe thấy có tiếng kêu của một thứ động cơ nào đó sau bức vách đối diện với cánh cửa. Giàn máy nào đó nổi lên, chạy đều chừng hai phút, rồi ngừng bặt. Innokenty bị ám ảnh với việc tìm hiểu cái máy đó là máy gì? Đây là một khám đường, đây không phải là một xưởng máy. Với một người đàn ông bắt đầu lớn lên trong những năm 40, từng nghe nhiều chuyện đồn đại về những giàn máy giết người, ý nghĩ về cơ khí lập tức gợi cho người nghĩ một cái gì ghê gớm. Ý nghĩ đến trong óc Innokenty - chàng biết nghĩ vậy là vô lý nhưng cùng một lúc, chàng vẫn nhận là rất có thể như thế - rằng giàn máy mà chàng nghe tiếng đó là giàn máy nghiền nát bộ xương của những người tù bị giết chết. Chàng bắt đầu kinh sợ.
Cùng một lúc, một ý nghĩ khác đến như mũi kim nhọn đâm sâu vào trái tim Innokenty: chàng đã phạm một lỗi lầm sơ hở quá nặng, một lỗi lầm ghê rợn, không những là chàng chỉ không đọc trát bắt giam từ đầu đến cuối mà thôi, tệ hơn nữa là chàng đã quên không phản đối mà là trình bày, là kêu la - rằng chàng vô tội. Chàng chịu đựng cuộc bắt bớ này với thái độ quá mềm yếu làm cho họ có lý để tin rằng chàng có tội. Tại sao chàng lại có thể quá mềm yếu như thế được? Sao chàng lại có thể để cho họ bắt chàng mà không kêu lớn là chàng oan? Thái độ của chàng cho họ có lý khi nghĩ rằng chàng đã chờ đợi để bị bắt, chàng đã chuẩn bị để bị bắt!
Chàng điếng người vì sự sơ hở oan nghiệt này. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là phải chồm ngay lên, đập cửa, đá mạnh vào cánh cửa, hả họng la lớn là chàng vô tội, đòi hỏi phải mở cửa… Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ khác tới trong óc chàng, ý nghĩ thứ hai này sáng suốt hơn: dù chàng có làm như vậy ở đây cũng sẽ chẳng có ai ngạc nhiên, chắc chắn là đã có nhiều người trước chàng từng đập cửa, từng kêu oan, và sự im lặng của chàng từ nãy đến giờ đã làm hư hỏng tất cả.
Ồ… Tại sao chàng có thể tự để cho chàng rơi vào tay họ một cách quá dễ dàng như thế? Không một cử chỉ chống cự, không cả một lời phản đối, một nhân viên ngoại giao cao cấp đã để cho mình bị thiên hạ đến tận nhà riêng bắt đi, bị tóm cổ trên đường phố Mạc Tư Khoa đưa tới nhốt trong phòng giam nhỏ xíu này.
Tới đây chàng không còn lối thoát. Từ đây chàng hết lối thoát.
Rất có thể, những vị thượng cấp của chàng vẫn chờ chàng đến ở Bộ Ngoại giao? Bằng cách nào chàng có thể tới được đó bây giờ? Dù là tới đó với sự áp giải của nhân viên mật vụ?
Giàn máy bí mật ở bên kia bức tường lại chuyển động, gừ lên rồi lại ngừng.
Hai mắt Innokenty mỏi và đau nhức vì ánh đèn điện quá sáng trong phòng giam quá hẹp, dừng lại ở một khung đen trên trần - đây là khung đen Chúa nhật trong phòng giam này - đó là một ô vuông nhỏ có lưới sắt, có vẻ là ống thông hơi.
Đột nhiên, chàng nghĩ rằng đó không phải là ống thông hơi, ô vuông đó là lỗ người ta xì hơi độc vào phòng này, và giàn máy chàng nghe thấy chuyển động đó là máy thổi hơi độc, và hơi độc đã được xì vào phòng này ngay từ lúc cánh cửa đóng lại sau lưng chàng, gian phòng nhỏ xíu, kín mít, với cánh cửa đóng khít chặt này chỉ có thể là một phòng dùng để giết người bằng hơi độc.
Chính vì vậy mà họ luôn luôn nhìn vào phòng này qua ô kiếng trên cánh cửa: họ nhìn để xem chàng còn tỉnh hay đã chết.
Vì hơi độc mà trí óc chàng không còn được minh mẫn. Chàng sắp bị mê man. Vì hơi độc mà chàng khó thở. Vì hơi độc mà đầu chàng nhức như búa bổ.
Hơi độc đang tràn vào - không màu, không mùi.
Kinh sợ, niềm kinh sợ hoàn toàn thú vật, niềm kinh sợ từng làm cho những con thú dữ săn mồi và những con mồi cùng cuống cuồng chạy trốn lửa rừng, ào đến chụp lấy Innokenty. Không còn suy nghĩ, tính toán gì nữa, chàng đấm loạn lên cánh cửa, đá rầm rầm lên cửa và miệng chàng kêu lớn:
"Mở cửa… Mở cửa… Tôi ngạt…"
Đề phòng tù nhân đập cửa, người ta đã đặt mặt kiếng của lỗ nhìn nằm sâu trong lòng gỗ, nắm tay của tù nhân không thể chạm được vào mặt kiếng để có thể làm vỡ kiếng.
Một con mắt man rợ, quái đản, một con mắt mở không chớp, hiện ra ở mặt kiếng bên ngoài, con mắt đó nhìn cơn hoảng loạn của Innokenty với vẻ thú vị tinh quái.
Đó là một sự xuất hiện đáng sợ: một con mắt rời khỏi mặt người, một con mắt đứng riêng rẽ, một con mắt có tinh thần riêng nhìn ngắm cảnh người sắp chết.