Đây là lần đầu tiên Hoàng đế Long An thái độ luôn mập mờ biểu đạt rõ lập trường phá cựu lập tân của mình trên đại triều hội, trước đó chưa hề lộ ra nửa chữ với bất cứ ai, không riêng gì đảng Phương Khâm, đến cả Sở quân cơ cũng hoàn toàn không hiểu.
Trường Canh không hề xuất hiện dị sắc trên mặt, lập tức đứng ra không mặn không nhạt vỗ mông ngựa. Tuy y chơi trò quyền mưu, nhưng trời sinh có tiên khí của kẻ ngoài vòng giáo hóa, ngay cả tư thế vỗ mông ngựa cũng hết sức sủng nhục bất kinh, hoàn toàn là bộ dáng đã thông đồng nhất trí với Lý Phong.
Lập tức có kẻ biến sắc.
Trong lòng Lý Phong biết Nhạn vương cố ý mượn thế mình, văn võ cả triều thì đang ôm mưu toan riêng, song điều này không hề quan trọng, hắn có thể bắc thang cho Nhạn vương, thì cũng có thể bắc thang cho bất cứ một ai.
Lần này Lý Phong dùng hai chính lệnh đẩy Sở quân cơ lên nơi đầu sóng ngọn gió, chỉ muốn xem mấy kẻ lôi đan thư thiết khoán của tiên đế ra nói có làm gì được vị Nhạn vương giữa chừng xuất gia, cả đời chỉ từng kêu một tiếng “phụ hoàng” này hay không.
Ngày hôm ấy chốn kinh hoa lại định trước là một đêm không ngủ.
Trong Sở quân cơ, Giang Sung nói nhỏ với Trường Canh: “Vương gia, làm thế nào đây, chúng ta cứ theo kế hoạch ban đầu chứ?”
Trường Canh không chút do dự nói: “Rèn sắt nhân khi còn nóng.”
Giang Sung nhìn Trường Canh một cái thâm sâu, lại hỏi: “Vương gia, nếu ép căng quá, họ chó cùng rứt giậu thì làm thế nào?”
Trường Canh quay đầu nhìn hắn, ý tứ sâu xa nói: “Ta sợ chính là họ không rứt giậu. Hàn Thạch huynh, huynh biết câu hữu dụng nhất mà đời này ta từng học là câu gì chứ?”
Giang Sung tự dưng cảm thấy hãi hùng khiếp vía.
Trường Canh nói: “Ra trận, ai không muốn chết thì chết trước.”
Trên đường rời Sở quân cơ về nhà, Trường Canh vừa vặn đụng phải xa giá của Phương Khâm, liền phân phó Hoắc Đan: “Nhường Phương đại nhân đi trước đi.”
Hoắc Đan vâng dạ, lát sau lại chạy về báo cáo: “Vương gia, Phương đại nhân nói không dám thất lễ, đã nhường đường rồi.”
Trường Canh vén màn xe, nho nhã lễ độ chắp tay chào Phương Khâm, hai người hòa khí đi qua nhau, giống như chưa từng muốn một mất một còn.
Trường Canh dựa xe, thầm nghĩ nếu mình đổi chỗ cho Phương Khâm, tốt xấu gì cũng sẽ nhịn qua thời điểm căng thẳng này, đợi đến khi tân quý trong triều chớp nhoáng chiếm lĩnh tài chính giao thông, căn cơ bất ổn lại khuếch trương quá nhanh mà đẩy một phát, sau đó chỉ cần im lặng chờ Lý Phong ra tay là được rồi – vương công quý tộc như mạng nhện trong triều này, khắp nơi đều là cố sự, khắp nơi đều có thế lực, nếu chịu từ từ chờ thời, chờ đến hậu chiến, sẽ có cả tá cơ hội khôi phục chế độ cũ.
Trường Canh còn biết với sự ổn thỏa của Phương Khâm, trong lòng hắn nhất định cũng nghĩ như vậy.
Thế nên, dù có phải lôi mọi người cùng đi trên dây, cũng tuyệt đối không thể để hắn bình tĩnh đợi được cơ hội này.
Phương Khâm nhìn theo xa giá Nhạn vương đi xa, mới phân phó gia nhân đi tiếp. Xung quanh hoàng hôn bao phủ, chậm rãi tiến vào đêm dài đằng đẵng, hắn tựa hồ mang máng nhìn thấy đại thế như động mạch kia, tựa nước chảy mà cuồn cuộn đổ qua trước mặt. Song hắn vô lực ngăn trở, đê dài vạn dặm dưới chân hắn là do cát bụi chất thành, trông thì uy vũ hùng tráng, thực tế không chỗ mượn lực, là tình đời vô biên đang làm ngược lại hắn.
Quay về Phương phủ, trong phủ theo thường lệ đã có khách chờ đợi, Phương đại học sĩ chẳng thiết tu tiên cầu đạo nữa, tự mình tiếp đãi ở tiền sảnh. Phương Khâm vừa vào cửa thì mọi người đều đứng hết dậy, thần sắc khác nhau mà nhìn hắn.
Trong lòng Phương Khâm lại có dự cảm xấu: “Cha, sao vậy?”
Phương đại học sĩ mặt trầm như nước nói: “Nghĩa muội ngươi hôm nay ở trong cung va chạm trung cung bị tội, vừa mới bị cấm túc, không cho phép thân nhân thăm viếng.”
Phương lão phu nhân có mối quan hệ rất tốt với Triệu thị nhũ mẫu của Hoàng thượng, như đùa giỡn mà để tam đệ của Phương Khâm nhận Triệu thị làm nghĩa mẫu, vốn trong đây chẳng có chuyện gì liên quan đến Phương Khâm, chỉ là để tỏ ra thân cận khách khí, trước mặt người ngoài cũng gọi con gái Triệu thị đang làm trong cung là “nghĩa muội”.
Phương Khâm ngạc nhiên hỏi: “Vì sao?”
“Vì sao? Chẳng cần nguyên do gì cả,” Phương đại học sĩ chậm rãi nói, “Nhớ năm ấy kim thượng gọi Cố Quân là ‘thúc’, từ nhỏ tình cảm sâu đậm, cũng chẳng qua một lời bất hòa liền hạ ngục, huống chi là chúng ta – kim thượng khắc bạc quả ân, vô tình vô nghĩa, thật sự khiến người ta lạnh lòng.”
Phương Khâm suy tính nhanh chóng, tức thì quay đầu phân phó gia nhân: “Lập tức cho người truyền tin đến Triệu quốc công, bảo hắn đừng giở trò ấu trĩ kiểu này nữa, hãy biết điều đi.”
Hắn vừa nói thế, mọi người liền ồ lên, tức khắc có kẻ đứng ra dị nghị: “Phương đại nhân, sao ngươi lại thò tay ra ngoài rồi?”
Phương Khâm lờ người khác đi, chỉ nhìn chằm chằm Phương đại học sĩ mà nói: “Cha, người còn chưa nhận ra sao, Hoàng thượng không phải là tiên đế, mọi sự chỉ có thể thuận theo y, nếu khiến y cảm thấy mình bị bức bách, tất nhiên sẽ bị dội ngược, chúng ta chỉ muốn diệt trừ đảng Nhạn vương, khiêu chiến Hoàng thượng có ích lợi gì?”
Không đợi Phương đại học sĩ mở miệng, Phương Khâm lại tiếp tục giận dữ nói: “Con cũng rất muốn bảo vệ tam đệ, nhưng nếu tiếp tục như vậy, thì bị cuốn vào sẽ không chỉ là một tam đệ. Ở đây đều là người mình, ta nói một câu không dễ nghe, các ngài thực cho là Triệu quốc công chính mông mình cũng lau sạch rồi sao? Nếu để Nhạn vương bắt được thóp mà mượn đó tấn công, đến lúc ấy chỉ có thể bị động hơn! Chỉ là một đường ray xe lửa, ngài không cho dựng, ngoại trừ hơi cản chân Lý Mân thì còn tác dụng thực tế không? Cố Quân nói động binh là động binh như thường, khiến đoàn ngoại sự cũng chẳng kịp tới tiền tuyến! Các ngài còn có thể làm gì? Cắt đứt tiếp viện tiền tuyến, bán nước luôn à?”
Trong lòng hắn khó chịu rất lâu rồi, nay rống hết ra, ngay cả cha ruột cũng chẳng thèm nể nang, mọi người im lặng chốc lát, sau đó một kẻ nói: “Thế chẳng lẽ Phương đại nhân định bấm bụng nhịn?”
Phương Khâm: “…”
Hắn phát hiện ra là mình quả thật chẳng tài nào nói thông với những người này, đặc biệt là sau khi Phương đại học sĩ một lần nữa xuất sơn.
Chắc hẳn khi thứ gì đó vận số sắp tận, không hề là mưa rào gió giật vì nguyên do bên ngoài. Trong thế gia như nấm của đại quốc mênh mông, mỗi họ chẳng cần nhiều, nếu một thế hệ có một kẻ có thể đỉnh môn lập hộ, không cần tài năng xuất chúng, không cần văn trị võ công, chỉ cần đầu óc rõ ràng, đủ tự mình biết mình, hiểu mình nên làm gì và không nên làm gì – như vậy nhờ vào mấy đời tích lũy, đảng Nhạn vương dù ba đầu sáu tay cũng tuyệt đối không leo lên đầu họ được.
Phương Khâm nhìn xung quanh, không lời nào để nói mà cười khẩy một tiếng, phất tay áo bỏ đi.
Phương đại học sĩ hạ mắt ngồi ngay ngắn lại, vuốt râu nói: “Khuyển tử không nên thân, để chư vị chê cười rồi.”
Một vị công khanh sắp xuống lỗ bên cạnh nói: “Nhị công tử tài hoa hơn người, chỉ là suy cho cùng hơi trẻ tuổi khí thịnh.”
Với tuổi tác của Phương Khâm, thực sự không thể nói là “tuổi trẻ khí thịnh”, Phương đại học sĩ lại ý tứ sâu xa mà lắc đầu: “Quả thật, khi Vũ đế tại vị nó còn nhỏ, không trải qua những việc đó, thiếu chút rèn luyện. Ta thấy có một số thứ đừng nên để bọn tiểu bối biết, tránh để chúng lo trước lo sau, dễ hỏng việc. Các lão huynh đệ năm đó đưa tiên đế lên hoàng vị còn ở đây, trở về gom con cháu các nhà một chút, có lẽ còn có sức thành sự… Có điều bất hiếu tử kia nói cũng đúng, bảo Triệu quốc công sắp tới dẹp bớt mấy thủ đoạn trẻ con đó đi, một kích không thể tất sát, thì phí sức làm gì? Chỉ tổ bị cười chê.”
Song Nhạn vương không cho Triệu quốc công cơ hội bớt lại.
Ngày hôm sau, trước là Linh Xu viện dâng tấu tuyên bố xe hơi nước đã trải qua thử nghiệm nghiêm mật, mọi sự đã sẵn sàng, ngôn từ khẩn thiết mời Hoàng đế Long An đích thân đi xem. Lý Phong vui vẻ dẫn Thái tử tới, còn tự mình ngồi một đoạn đường, kết quả là sau khi về cung không đợi sự hưng phấn mới mẻ qua đi, lại nhận được tấu giục đường ray từ Diêu Trấn, thành công chất thêm nôn nóng trong lòng hắn.
Chất đến tối, Ngự sử đài đưa tới cọng cỏ cuối cùng châm bùng lửa giận của Hoàng thượng.
Ngự sử đài tố Triệu quốc công không biết quản kẻ dưới, dung túng gia quyến biển thủ, hạ giá cướp đoạt ruộng đất của nông dân, mấy tội trạng liền.
Ban vận hà và Linh Xu viện chung tay phụ trách đường ray hơi nước vội vàng hùa theo. Hàng loạt nhân sĩ cố ý đẩy thuyền theo sóng bám sát đằng sau, mau chóng làm tình hình trở nên căng thẳng, thế lực Nhạn vương nhân mấy năm chiến loạn phát triển lộ ra một góc núi băng, con đường thăng chức từ cuối thời Vũ đế bắt đầu dần dần chật ních bị y nạy ra một góc.
Trình báo chiếm đất phi pháp các nơi liên tiếp đổ tới như có dự mưu, cuối cùng liên lụy đến vấn đề chiếm đất phi pháp tồn tại đã lâu ở Đại Lương.
Lập tức có mấy kẻ xem náo nhiệt không ngại to chuyện đứng ra yêu cầu thanh tra toàn cảnh-
Dĩ nhiên, đề nghị vớ vẩn này bị Lý Phong bác bỏ, Lý Phong dù còn muốn ra oai phủ đầu thế gia thì cũng phải từ từ từng bước, hắn một lần còn chưa đủ rộng miệng như vậy.
Song con chim đần xuất đầu là Triệu quốc công này là không chạy thoát được, chưa đến mấy hôm đã bị bắt, sau đó lại liên lụy cả đám con cháu môn khách chó cậy thế chủ, lúc áp giải xét nhà người vây xem thậm chí trèo lên tường kiễng chân ngó vào, người kể chuyện của Vọng Nam lâu hai ngày đã soạn xong một bộ mới, rất được ủng hộ.
Thái tử mới bắt đầu nghe chính sự đã gặp vụ án lớn như vậy, tiểu thiếu niên được thêm một phen kiến thức, trợn mắt há mồm mà nhìn, mở mang hơn rất nhiều.
Lúc sắp hạ triều, Nhạn vương vẫn không tỏ thái độ đột nhiên hỏi: “Thái tử điện hạ thấy thế nào?”
Tiểu Thái tử được Lý Phong bảo vệ rất tốt, hồn nhiên ngây thơ, bụng dạ chưa sâu, từng phụng mệnh Lý Phong “thỉnh giáo” tứ hoàng thúc, nghe Trường Canh hỏi liền không cần nghĩ ngợi buột miệng nói luôn lời người ta dạy: “Hàn Phi có nói, ‘Quân vô thuật tắc tế vu thượng, thần vô pháp tắc loạn vu hạ*’, quốc gia yên ổn nhờ vào pháp luật, người có hiền ngu trung gian, sự có thị phi đúng sai, nếu pháp luật không rõ ràng, tất khiến bè đảng hoành hành, tiểu nhân hoành hành, thế… người cầm quyền chẳng phải là không quản nổi nữa?” (*Vua không có thuật thì sẽ bị thần tử lừa dối, thần tử không có phép tắc ràng buộc ắt loạn)
Giọng trẻ con ấy còn non nớt, như một học trò nhỏ bị lôi dậy trả lời câu hỏi của sư phụ, nói xong còn tràn trề chờ mong nhìn Trường Canh.
Trường Canh chỉ cười không nói gì, Lý Phong thì đanh mặt quát to một câu: “Học vẹt còn khoe khoang cái gì, mau quay về học hành đàng hoàng, không được lười biếng.”
Thái tử không dám lên tiếng, đành phải cúi đầu đáp vâng, nhưng lời trẻ con này lại là người nói vô tâm người nghe hữu ý.
Kẻ suy bụng ta ra bụng người, cho dù nhìn thấy một đứa trẻ choai choai, cũng sẽ cảm thấy người này lắm tâm cơ, câu nào cũng đầy ẩn ý như mình.
Đêm ấy, những lời này của Thái tử mười một tuổi không chân mà chạy khỏi thâm cung, Phương đại học sĩ giấu Phương Khâm, triệu tập đám lão sài lang từng ủng lập tiên đế lại, tách mỗi một giọt nước bọt của Thái tử ra phân tích một lần, hiểu được ý của Lý Phong.
“Ba đời rồi,” Phương đại học sĩ cười gằn nói, “Thiên ân khó với, chắc hẳn chư vị cũng đã nhận ra, Hoàng thượng để Thái tử nghe chính sự, là quyết tâm muốn mạng đám lão già chúng ta.”
Một người khác nói: “Khi đó nếu không phải Vương quốc cữu làm rối, chúng ta mưu tính thích đáng, không chừng Nhạn vương hiện giờ đã vì xáo trộn huyết thống hoàng thất mà bị tước vương vị, đày đến thâm sơn cùng cốc rồi. Dã chủng nơi nào bò ra cũng dám trèo lên đầu chúng ta diễu võ dương oai, Phương huynh, nên đoạn không đoạn, tất bị loạn.”
Mặt Phương đại học sĩ căng lên đường nét sắc bén, lão chậm rãi nhìn chung quanh, thấp giọng nói: “Chư vị không ngại viết lời trong lòng vào tay.”
Nhiều năm trước, đám âm mưu gia dã tâm bừng bừng này từng tụ lại, xòe bàn tay mỗi người ra, viết trên đó chính là tên của tiên đế Nguyên Hòa, lúc này họ đã gần đất xa trời, lớp chết lớp già, một lần nữa tụ lại, xòe lòng bàn tay hom hem nhăn nheo-
“Thanh quân trắc.”
“Thanh quân trắc.”
“Thanh quân trắc, hoàng trưởng tử không mẹ.”
…
“Năm xưa Túc vương trên đường giả bệnh, là lão hủ trước đó được tin hắn tính âm thầm vào kinh, bèn thỉnh lệnh của trưởng công chúa, để Bắc đại doanh chặn lại, lấy danh ‘mưu phản’ bắt hắn, đẩy tiên đế thượng vị, thành tựu một phen được làm vua thua làm giặc.” Phương đại học sĩ thấp giọng thì thào rất khẽ, “Hiện giờ tình hình trong kinh thành chư vị cũng nhìn thấy rồi, tiên hạ thủ vi cường như thế nào, người nào dùng được, chắc hẳn hôm nay đến đây, chư công đã có kế hoạch.”
Phương đại học sĩ không hề là nóng đầu, lão biết lần này không có người của Cố gia đứng ở bên họ, muốn điều động Bắc đại doanh là không thể. Mà từ lần trước Ngự lâm quân Lưu Sùng Sơn làm loạn, biên chế Ngự lâm quân cũng đã có điều chỉnh rất lớn, phàm từ bách hộ trở lên, phải trải qua thẩm tra chặt chẽ, xác nhận gia thế trong sạch, quân công hàng thật giá thật, chặn một số kẻ lợi dụng sơ hở, đồng thời phân hai bộ song hướng quản lý, kiềm chế lẫn nhau, không can thiệp chuyện của nhau, nghiêm phòng trong Ngự lâm quân có kẻ một tay che trời, phạm thượng tác loạn.
Phàm là việc có lợi tất có hại, thế gia Đại Lương chia văn võ, võ tướng cũng có dòng dõi công hầu, song phần lớn đều suy bại, nếu không thời Nguyên Hòa đã chẳng thiếu người đến mức để một đứa trẻ choai choai lĩnh binh. Đám con cháu danh tướng dựa bóng tổ tiên này, nếu văn không thành võ không tựu, sẽ giống Lưu Sùng Sơn đi cửa sau vào Ngự lâm quân, qua vài năm có tư lịch, sẽ tìm một cái cớ kiếm quân công, một bước lên mây.
Sau nhiều năm va chạm, giữa đám lính thiếu gia và tướng sĩ chân chính này đã hình thành hình thái đặc biệt nào đó, song phương nể mặt nhau, vừa có thể cam đoan sức chiến đấu, vừa kiêm cố quan hệ và thể diện.
Tiếc thay, sự cân bằng này từ sau khi Ngự lâm quân làm phản, đã bị Lý Phong phá hủy.
Một đạo pháp lệnh của người thượng vị trong cơn kích phẫn có lẽ tự cho là tỉnh táo, lúc ấy cũng không ai nhắc nhở Lý Phong đang giận dữ, để hắn phá hỏng mộng thăng quan của đám thiếu gia kinh thành.
Thiếu gia nhà ai không phải được nuông chiều từ bé? Ai có thể cam tâm cả đời làm một quân hộ con con?
Đắc tội thiếu gia không đáng sợ, quan trọng là, Đại Lương triều trước đây trọng võ khinh văn, tổ tông lưu lại một đặc quyền – kẻ quân công phong tước có thể nuôi gia tướng, giữ lại một phần võ trang, đồng thời che chở đời sau, khi nguy nan có thể làm đạo chiến lực cuối cùng của quốc gia, khi bọn Lưu Sùng Sơn Lữ Thường phản loạn, Phương Khâm chính là dùng chiến lực này để níu chân phản quân, kéo dài tới khi Bắc đại doanh đến.
Phương đại học sĩ nhìn bốn phía, nói: “Cố Quân tăng binh Tây Nam, đồng thời lại gây chiến ở Đông Hải, người khả dụng rất thiếu, trước mắt người của hắn toàn đang trấn thủ tứ cảnh, Bắc đại doanh lại không truyền triệu không được vào. Lý Mân là hạng mua danh trục tiếng, không thích nhiều người bên cạnh, đi đến đâu cũng chỉ dẫn theo một lão già, nghe nói công phu cưỡi ngựa bắn cung của hắn không tệ, nhưng chẳng qua khoa chân múa tay vài lần trên thành lâu, chắc hẳn cũng chẳng bóp được mấy cây đinh, muốn diệt trừ hắn không khó – chỉ là không biết chư vị muốn ‘ám thanh’ hay ‘minh thanh’?”
Bên cạnh có người hỏi: “Xin hỏi Phương công, ám như thế nào, minh như thế nào?”
Chỉ nghe vị đại học sĩ tài mãn nửa triều này mặt không đổi sắc nói: “Nếu muốn ám, chỉ cần mời khoảng hai ba mươi tử sĩ, nhân đêm mai phục trên đường Lý Mân hạ triều, tiệt sát hắn, hủy hết chứng cứ, lúc này gió êm sóng lặng, không giải quyết được gì, Hoàng thượng cũng chẳng có biện pháp. Nếu muốn minh… Vậy thì cần phải để Hoàng thượng biết, ai là trung thần lương tướng, giang sơn xã tắc của y là do ai bảo vệ, loạn thần tặc tử là bị bắt như thế nào – và trữ quân ai đảm đương được.”
“Việc này… Phương công, minh chỉ sợ không dễ.” Mở miệng là con trai Bình Ninh hầu một trong ba hầu tước kinh thành năm ấy, lão Hầu gia sớm qua đời, kẻ này béo ục ịch, đi cũng rất mất sức, một năm chẳng biết ra cửa mấy lần, hoàn toàn không giống hậu duệ danh tướng, đầu óc lại rõ ràng đến bất ngờ, lúc này chậm rãi nói, “Chưa bàn đến lúc động thủ nên tránh né Ngự lâm quân và cấm vệ thế nào, chỉ nói vạn nhất đắc thủ, với tính tình thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành của Hoàng thượng, y sẽ không truy cứu đến cùng sao? Bắc đại doanh quả thật đã chết sạch bọn cứng đầu, hiện tại ngoan ngoãn không truyền triệu không được vào, vậy nếu Hoàng thượng trong cơn giận dữ thật sự truyền triệu thì sao? Dù họ ở xa, cấm vệ trong cung và Ngự lâm ngoài cung thì sao? Đảng Lưu Sùng Sơn Lữ Thường làm phản đến nay phong ba còn chưa qua, chỉ sợ không dễ dàng đâu.”
“Trong cung không phải nơi nào cũng có cấm vệ, Ngự lâm quân càng không phải nơi nào cũng vào được, nửa tháng sau đại thọ Hoàng thượng, năm nay tiền tuyến Đông Hải Lưỡng Giang có tin chiến thắng, Lễ bộ nịnh hót tất sẽ nhân thời cơ này đề xuất làm to, cơ hội sẽ rất nhiều,” Phương đại học sĩ hờ hững nói, “Về phần Hoàng thượng sau đó phát tác…”
Nói đến đây, lão dừng lại, cười khà khà, mí mắt hẹp dài hơi cụp nâng lên: “Vậy thì đành phải khiến y ‘phát tác không nổi’… Sao nào, chư công thực sự cho rằng không còn Lý Mân thì Hoàng thượng sẽ dễ dàng bỏ qua cho chúng ta? Lời của Thái tử hôm nay lúc lâm triều chư vị cũng đều nghe thấy rồi, Thái tử là một đứa trẻ ranh, biết gì quốc gia đại sự, những lời đó là ai dạy? Mới mười một tuổi, mà mở mồm ra là ‘pháp bất dung tình’, ‘trừ bè diệt đảng’, đương đình chỉ dâu mắng hòe, thiếu mỗi chỉ mũi chúng ta nói rặt một lũ tiểu nhân, chư vị nên quyết mà không quyết, chẳng lẽ muốn đợi ngày sau Thái tử đăng cơ, ban cho một trượng bạch lăng?”
Lời ấy không hề mập mờ, ly kinh phản đạo mà kinh thế hãi tục. Phương đại học sĩ không hổ là lão thần từng đưa tiên đế Nguyên Hòa lên đài, to gan lớn mật, không hành động thì thôi, vừa xuất sơn liền làm lớn, nói thẳng “Hoàng đế không làm thì làm hoàng hoàng đế”, “Thái tử không nghe lời, thì đổi đại ca đã mất mẹ đến làm con rối”. (Hoàng là vua nhưng hoàng hoàng là lo sợ)
Bình Ninh hầu nghẹn họng trố mắt rất lâu, hơi cà lăm đưa ra vấn đề chết người kia: “Thế… Cố Quân há chịu để yên?”
“Đoàn ngoại sự còn ở trên đường, đều đã an bài xong rồi,” Phương đại học sĩ cười khẽ một tiếng, “Tiền tuyến, phiên bang tặc khấu như hổ rình mồi, sứ đoàn – thế nào, thiên thời địa lợi như vậy, chẳng lẽ chư vị không nhớ hai mươi năm trước từng xảy ra chuyện gì?”
Một cơn bão đang ấp ủ ngay trung tâm, nhưng Nhạn vương trong tâm bão lại tựa hồ không hề hay biết, vẫn mỗi ngày điểm danh đúng giờ, dốc hết sức thi hành tân chính.
Còn mới vui vẻ nhận được một phong thư đến từ Cố Quân.
Phong thư này Cố Quân gửi thẳng về nhà, hoàn toàn là một phong thư nhà, lúc Hoắc Đan đưa y, đôi mắt đột nhiên sáng lên của Trường Canh làm Hoắc thống lĩnh đỏ bừng mặt.
“Y còn có ba đầu sáu tay hay sao?” Trường Canh vừa giơ phong thư kia lên nhắm ngay hướng ánh sáng, thật cẩn thận cách bao thư xem nội dung bên trong, vừa nửa thật nửa giả phàn nàn với Hoắc Đan, “Vừa đối phó người Tây Dương, vừa có nhàn tình dật trí, bảo ta phải nói gì đây.”
Hầu phủ chưa bao giờ có “nữ chủ nhân” trên ý nghĩa truyền thống, Hoắc bá hộ vệ cận thân này mơ hồ biết chút gì đó, song đến nay vẫn khó mà thích ứng, đặc biệt không cách nào cùng vị “chủ nhân còn lại” này thảo luận thư nhà của Đại soái. Nghe Nhạn vương nói vậy, hắn cảm thấy vai diễn của mình từ thống lĩnh gia tướng biến thành một ma ma lắm mồm, đành phải hết sức ngượng ngùng đứng đó, làm một cây cột nhà đỏ bừng mặt.
Từ khi khai chiến tới nay, đây là lần đầu tiên Cố Quân gửi một phong thư nhà dày như vậy cho Trường Canh, Trường Canh nhất thời không nỡ mở, cầm phong thư vuốt tới vuốt lui, để lên mũi khẽ ngửi một vòng, phảng phất có thể ngửi thấy một chút mùi của người phương xa, vẻ mặt mê mẩn.
Máu trên mặt Hoắc Đan sắp chảy ra lỗ chân lông, hắn cà lăm nói: “Vương, Vương gia, ngài… ngài làm gì thế?”
Trường Canh quét mắt nhìn hắn một cái, giống như cảm thấy bộ dáng đỏ mặt tới mang tai của Hoắc Đan đặc biệt thú vị, liền cố ý trêu: “Hôm qua nằm mơ còn mơ thấy nghĩa phụ ta, nửa đêm tỉnh dậy không ngủ được nữa, xem như đã một lần biết thế nào là ‘trằn trọc’, kết quả là hôm nay liền nhận được thư của người, ngươi nói có khéo không?”
Hoắc Đan: “…”
Ba chữ “nghĩa phụ ta” khiến hắn rùng mình, Hoắc Đan vô cùng đau đớn mà nghĩ: “Tiểu Hầu gia làm việc gì thế này? Sao càng lớn càng không ra gì! Đây là muốn lão soái và công chúa dưới cửu tuyền tức đến sống lại mà!”
Trường Canh lén nở nụ cười, đang định lấy tiểu đao mở phong thư, đột nhiên, một con Lâm Uyên mộc điểu lao vào – ngày ấy Lưu Trọng đến quy phục, Trường Canh không tin tưởng hắn lắm, phái hai người của Lâm Uyên các một minh một ám đi theo đến Lưỡng Giang, minh giả trang tiểu tư Lưu gia, liên lạc giữa Lưu Trọng với kinh thành, ám là một vị cao thủ, bám đuôi đoàn sứ tiết tra xét các loại dị động, tùy thời truyền tin về kinh thành.
Trường Canh vội cất phong tư tín của Cố Quân vào lòng, mở mộc điểu ra xem trước.
Giây lát sau, y cười gằn một tiếng – có một số kẻ nghĩ còn rất chu toàn.