Thứ hai, sau vụ lộn xộn ở Buckhorn, Kate bị cảm nặng, phải ở nhà không đi làm được. Cô ngồi ở cuối giường, chuyển tivi hết kênh này sang kênh khác, tự thấy thương hại mình. Khắp người cô đau nhức. Cô buồn quá, chỉ muốn hét lên, nhưng không thể vì tức ngực.
Cô lôi cáp Internet bà lắp mấy năm trước và ông vẫn trả tiền nhưng không sử dụng. Cô lấy laptop cất trong ngăn để đồ ra dùng. Lướt net độ một giờ, cô nghiên cứu mấy thứ rất thú vị như phần mềm tích hợp cho người bán lẻ. Cụ thể là cho cửa hàng tạp hóa. Có lẽ nếu cô kiếm được tên một vài nhà tư vấn, thêm thông tin, hay thậm chí vài cuốn sách quảng cáo, cô có thể chỉ cho ông thấy cuộc sống của ông sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu ông hòa nhập với thiên niên kỷ mới. Thật điên rồ khi không áp dụng công nghệ tính kho và lãi ngay khi bán hàng ra. Đơn giản chỉ là ngoan cố không chịu nghĩ tới chuyện đó.
Cô đánh dấu vài trang và yêu cầu gửi thêm thông tin. Vì bị ốm, người ngấy ngấy, cô lướt net mua hàng cho đỡ buồn. Cô mua đồ lót ở Victoria’s Secret. Áo len và quần jean của Neiman Marcus và Banana Republic. Cô mua giày ở Nordstrom, tiện tay vung tiền mua luôn một cái vòng đeo tay bằng bạc của Tiffany. Xong xuôi, cô đã tiêu tốn cả nghìn đô-la, nhưng vẫn chẳng thấy vui hơn. Vẫn mệt mỏi và chán chường.
Cô đưa tay gấp laptop lại, nhưng một giọng nói nho nhỏ khẽ vang trong đầu cô. Dễ thôi mà, nó nói. Cô biết biển số xe Rob Sutter. Với vài cái nhấp chuột, cô có thể biết mã số bảo hiểm xã hội, ngày tháng năm sinh của anh ta. Rồi cô sẽ biết chắc anh ta có nói thật về chuyện chưa bao giờ bị bắt hay không.
Không, như thế là xâm phạm đời tư người ta. Nhưng cô có thể kiếm thông tin qua google. Rob từng chơi hockey chuyên nghiệp. Anh ta từng là người của công chúng. Miễn là những gì cô khám phá đều là việc ai ai cũng biết, thì như thế không thể gọi là xâm phạm đời tư được.
Trước khi kịp tự nhủ không làm chuyện này, cô đã vào net, gõ tên anh trên công cụ tìm kiếm. Cô choáng váng khi nhận được bốn mươi nghìn kết quả. Hầu hết đều ở các trang web thể thao, trưng ảnh chân dung của anh ta bên cạnh các con số thống kê. Trong vài tấm hình, anh ta có để ria. Có những tấm khác thì không. Trong ảnh không để râu Fu Manchu, quai hàm anh ta trông vuông vức hơn. Đàn ông hơn, điều cô không nghĩ là có thể. Trong tất cả các bức ảnh, đôi mắt xanh lục của anh ta luôn nhìn thẳng vào camera, có vẻ không được tử tế cho lắm.
Trên trang web hockeyfights.com, có một bức ảnh anh ta chụp cùng vài gã khác đang siết cổ nhau. Anh mặc chiếc áo len giếc-xây màu xanh hải quân, đội mũ bảo hộ màu đen. Bài báo ghi :
Rob Sutter trông giống một tên côn đồ, nhưng anh có một vài trò cực kì đặc biệt và quan trọng khiến đối phương phải suy nghĩ kĩ trước khi định làm chuyện gì đó ngu ngốc như ghi bàn, vượt qua, hay hít thở sai cách.
Cô vào các trang web có ảnh anh ta trượt băng, đánh bóng, hay trụ ở khu phạt đền với miếng bông bịt ở mũi.
Cô đọc bài báo anh ta tự viết về bản thân năm 2003 cho tờ Tin tức Hockey . " Tôi còn hơn một cái bao cát ", bài báo bắt đầu như vậy. Anh ta tiếp tục liệt kê con sô trung bình các bàn thắng và kiến tạo của anh ta. Kate không biết gì về hockey, nhưng cô nghĩ nếu những con số anh ta đưa ra không đáng nể, chắc anh ta sẽ chẳng nhắc đến làm gì. Cô đọc các mốc sự nghiệp và bài báo cuối cùng tờ Sports Illustrated viết về anh ta. Bức ảnh hào nhoáng cảnh anh ta trượt trên sân băng với trái bóng ở đầu gậy hockey. Tiêu đề bài báo ghi : " Một fan nữ bắn Cầu thủ NHL ".
Kate ngồi thẳng dậy, như thể bị kéo bởi những sợi dây. Nếu cô ngạc nhiên vì kết quả tìm kiếm thì những gì cô đọc lúc này còn khiến cô choáng váng hơn.
Theo bài báo, Stephanie Andrew ở Denver, Colorado, đã bắn anh ta ba phát sau khi anh ta chấm dứt chuyện tình của họ. Hai viên đạn găm trúng ngực, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, còn viên thứ ba bắn nát đầu gối đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của anh ta. Kate từng nghĩ chấn thương đầu gối đã kết thúc sự nghiệp của anh ta, nhưng cô chưa bao giờ nghĩ sự thật lại như thế này.
Kate tìm hiểu sâu hơn, đọc thêm bài về vụ nổ súng và phiên tòa xét xử. Cô tìm được vài mẩu tin về vụ việc trong mục lưu trữ của tờ Seattle Times. Cô đọc lướt qua các bài báo trong hai tuần xử án, biết được Stephanie Andrew không phải bạn gái Rob. Cô ta là một cổ động viên nhiệt tình anh ta làm quen ở quán bar, rồi sau đó quay sang bám riết anh ta.
Stephanie biện hộ rằng mình bị chứng điên loạn tạm thời, nhưng cuối cùng hội đồng xét xử bác lời biện hộ đó. Cô ta lĩnh án hai mươi năm, tối thiểu phải thi hành án mười năm. Kate tự hỏi không biết anh ta nghĩ gì về bản án đó. Liệu anh ta có nghĩ thế là công bằng khi người đàn bà tìm cách giết anh có thể phải bóc lịch ít nhất mười năm, trong khi anh ta cũng phải sống với những vết thương suốt phần đời còn lại.
Kate đọc lướt qua bài báo cuối cùng, một đoạn trích gần cuối đập vào mắt cô. " … Bà Sutter không có bình luận gì ". Cô kéo chuột xuống đọc tiếp. " Louisa Sutter và con chung của hai người không sống tại nhà riêng ở Mercer Island. Tờ Times đã cố gắng liên hệ vời bà để biết phản ứng của bà với bản án. Luật sư của bà đã trả lời chúng tôi, nói rằng " Bà Sutter không có bình luận gì ".
Đã có vợ. Anh ta đã có vợ lúc bị bắn, và đã có một đứa con. Vẫn có một đứa con. Kate vén tóc ra sau tai. Cô choáng váng, chắc chắn vậy. Nhưng cô cũng ngạc nhiên về sự thất vọng vô cùng mà cô cảm thấy. Bất chấp thế nào, giờ cô bắt đầu thấy thích anh ta. Anh ta đã nện cho anh em Worsley một trận thay cô. Phải rồi, anh ta còn tỏ ra đôi chút phấn khích khi làm thế. Nhưng anh ta không làm thế thì chắc chắn cô vẫn phải ở lại Buckhorn chơi bi-a tiếp. Bời vì một điều chắc chắn, anh em nhà Worsley sẽ không đời nào để cô đi cho đến khi cô thua, và Kate thì không bao giờ chịu thua trong bất cứ việc gì.
Kate gấp laptop lại, đặt vào ngăn tủ quần áo kế bên một hộp kỷ vật của Tom Jones, Rob đã lừa dối vợ anh ta quan hệ với một cô gái hâm mộ hockey cuồng nhiệt, Kate cũng từng bị lừa như vậy trước đây, và cô căm ghét những kẻ lừa đảo. Tuy nhiên, không có ai đáng bị bắn hay tước đi sự nghiệp. Không ai đáng chết, và sự thật không thể chối cãi là Stephanie Andrews đã chủ đích muốn giết Rob.
Kate trèo lên ga trải giường diêm dúa màu hồng của cái giường đôi. Bộ chăn gối cô mang theo từ Vegas rất to, khiến cô bị kẹt giữa đống ren, đăng-ten, và tất nhiên, cả Tom nữa.
Việc từng bị bắn bởi một cô gái quen ở quán bar có thể lý giải tại sao Rob lại từ chối cô hôm ở quán Duchin. Chuyện đó cũng giải thích tại sao, bất chấp nỗ lực để có thể ghét Rob, cô vẫn bị anh ta cuốn hút.
Cô với lấy một tờ khăn giấy Kleenex để hỉ mũi. Dù với lído nào đi nữa, nếu có một người đàn ông trong bán kính một trăm dặm làm trái tim cô tan nát và đối xử tệ bạc với cô, Kate vẫn bị anh ta cuốn hút.
Cô liệng tờ giấy Kleenex vào rổ đựng giấy rác Tom Jones nhưng trượt. Rob là một kẻ dối trá. Anh ta sợ trách nhiệm – không có lấy “tem bảo hành” trên người. Anh ta cùng một giuộc với những gã ngốc cô từng hẹn hò. Anh ta làm trái tim cô tan nát còn nhanh hơn cả anh từng nện đầu gối đối phương trước kia.
Phải rồi, đó có thể là đa nghi. Và cô có nhiệm vụ phải duy trì tính đó, nhưng nó cũng không thể phủ nhận cảm xúc cô đang có.
Kate đã bị Rob quyến rũ, nhưng cô không định làm gì hết. Cô đã không còn dính líu tới những gã đàn ông quá quắt.
Cô dựa đầu xuống gối, nhắm mắt lại. Khi ngủ thiếp đi, cô nghĩ về cuộc sống của mình ở Gospel. Đôi khi cô rất buồn. Cô nghĩ cô có thể trở nên quái gở giống những người khác trong thị trấn. Nhưng cũng có những điều đáng ghi nhận ở nơi này. Những niềm an ủi trong những việc không hề thay đổi, như vòng xoay nhàm chán mỗi ngày khi sắp xếp hàng hóa hay đặt mua hàng.
Hai ngày sau, Kate tự nhắc mình nhớ tới cảm xúc đó khi cô và ông nói chuyện về việc làm thế nào để cắt giảm những việc không cần thiết. Kate nghĩ họ nên thôi không giao hàng tại nhà, hay chí ít cũng phải tính thêm tiền công giao hàng. Ông Stanley không đồng ý.
Cô muốn đặt một lọ đựng tiền lẻ cạnh máy pha cà phê để thu tiền của đám dân địa phương sáng nào cũng đến uống thả phanh. Stanley cũng không cân nhắc việc đó. Cô gợi ý bán thêm pho mát, mỳ ống, mứt jalapeno và ôliu trộn kiểu Ý. Ông nhìn cô như thể cô bị điên vậy.
- Không ai ở đây lại ăn những món kì quái đấy cả.
- Tiệm tạp hóa Triangle có bán. - Cô nói với ông, dựa theo những cửa hàng khác trong thị trấn.
- Đúng vậy. Nếu họ bán thì sao ta phải làm nữa?
Cuối cùng họ cũng nhất trí được việc dán nhãn giá. Sẽ không dán giá cho các món hàng đã in sẵn giá. Ông đồng ý rằng chuyện đó không chỉ phí tiền mà còn phí cả thời gian.
Đó là một chiến thắng nho nhỏ của Kate, nhưng là một chiến thắng quan trọng. Nó cho thấy ông đâu đến nỗi quá cứng nhắc. Ông có nghe theo cô vài điều. Đến lúc nào đó, có thể ông sẽ đồng tình với ý kiến của cô về việc nhập thêm hàng và sử dụng hệ thống kế toán hiện đại. Cô có thể giúp cuộc sống của ông dễ chịu hơn. Mọi chuyện đang tiến triển tốt đẹp.
Hay chí ít cô nghĩ mọi chuyện như vậy cho đến khi cánh cửa hàng M&S mở ra và Rob bước vào, mái tóc hơi rối. Tom đang gào bài “Try A Little Tenderness” hát lại của Otis Redding qua dàn loa stereo trên tường. Cô đã không gặp Rob từ cái đêm lộn xộn ở Buckhorn. Bất chấp tất cả những gì cô được biết về anh ta trước kia, nhìn thấy anh ta, cô lại muốn chỉnh chang lại dáng điệu và lấy son bóng ra.
Cô đứng cạnh thùng cam và bưởi. Như cảm nhận được ánh mắt cô đang nhìn mình, anh ta quay lại nhìn cô từ phía cuối dãy hai. Anh ta mặc áo màu len dài tay có mũ trùm đầu màu xanh thẫm giống màu mắt. Cằm anh ta có vết thâm, gợi lại cái đêm anh ta tẩn đám nhà Worsley vì cô.
- Cô thế nào? – Anh ta hỏi, giọng hơi khàn, như thể gần đây không nói nhiều,
- Tôi ổn.
Môi anh ta mấp máy như muốn nói thêm gì đó. Nhưng anh ta chỉ liếc sang nhìn hai cậu bé mua kẹo.
Giờ là ba giờ ba mươi chiều, cửa hàng vãn khách hơn. Chỉ có hai vị khách khác trong cửa hàng là Adam Taber và Wally Aberdeen. Chúng đang tranh cãi xem Người Nhện và Người Sói ai khỏe hơn. Rob quàng cổ Adam, vuốt tóc thằng bé.
- Hè này cháu có định làm việc cho chú không? – Anh ta hỏi.
- Có ạ. – Adam cười, cô giãy ra khỏi vòng tay Rob . –Wally có thể làm cùng cháu được không ạ?
Trong khi Rob giả bộ nghĩ ngợi việc đó, Kate liếc cái áo anh ta mặc, qua nhãn Rossignol in trước ngực xuống ống tay áo, tới quần jean đã bạc. Những đường may đã mòn, có bùn dính ở đầu gối.
- Nếu cháu nghĩ cậu ta có thể làm được. – Anh nói
- Cháu làm được ạ. – Wally quả quyết.
- Tốt. Tháng sau có thể chú có vài việc cần các cháu làm đấy.
Ba chú cháu đập tay vào nhau kiểu đàn ông vẫn làm trước khi Rob bước về phía quầy thanh toán, chỗ ông cô đang đứng xếp đầy giá để thuốc lá.
- Mẹ cậu khỏe chứ? - Stanley hỏi anh ta.
- Dạ khỏe. Cháu vừa ở nhà bà đào mấy khóm hồng lụi.
- Tốt, cho tôi gửi lời chào tới bà ấy nhé
- Cháu sẽ làm. – Rob tựa hông vào quầy, đứng vắt chéo chăn. – Ông có thể kiếm cho cháu ít hạt lanh được không ạ?
Hạt lanh á? Kate xếp mấy quả cam vàng vào thùng, làm bộ để ý những quả táo, nhưng tâm trí cô không dành cho chúng. Cô đang mải nghĩ về Rob, tự hỏi liệu anh ta có nghĩ ngợi nhiều về quá khứ của anh ta không. Cô tự hỏi liệu anh ta có nhớ hockey hay lo lắng về cái ngày Stephanie Andrews ra tù hay không. Cô biết cô lo chuyện đó. Cô tự hỏi liệu anh ta đã học được một bài học về dối trá, tự hỏi con anh ta là trai hay gái.
Cô tóm lấy sọt cam rỗng, mang nó ra sau quầy thanh toán hướng về cửa dẫn ra phòng sau. Trên đường đi qua, cô liếc nhìn Rob. Liếc nhìn về vết thâm tím trên quai hàm và bộ ria quanh khung miệng anh ta.
- Cho cháu ít nho Hy Lạp sấy nữa. – Anh ta nói với Stanley, ánh mắt dõi theo Kate đến khi cô đi khuất vào gian trong.
Cửa ra bên tay trái Kate, cô với lấy thêm vài hộp trước khi ra ngoài. Cô cũng tự hỏi liệu Rob có tin cô không tung tin đồn đó hay không. Anh ta chưa kịp nói có hay không. Cuộc nói chuyện gần như đã kết thúc khi cô nói tới chuyện rối loạn cương.
Cô ném đống hộp vào trong thùng rác rồi đóng nắp lại. Cô chỉ định đùa, nhưng anh ta phản ứng quá mạnh khiến cô phải tự hỏi liệu có phải mình vừa làm anh ta bối rối chăng. Từ buổi tối đầu tiên gặp nhau, cô đã tự nhủ anh ta là kẻ bất lực, nhưng thành thực mà nói, cô thực lòng không tin chuyện đó. Không tin cho đến khi anh ta hành động kỳ quặc và phản ứng quá kịch liệt. Giờ cô phải ngẫm xem có phải việc bị bắn đã làm tổn thương tinh thần và thể xác ở bộ phận nào đó chăng.
Tiếng cười của ông vang đến tận chỗ Kate khi cô đi vào gian trong, sập cánh cửa lại sau lưng. Nếu Rob gặp vấn đề ở phía dưới, cô thấy thực sự tồi tệ khi đem chuyện đó ra đùa cợt. Cô vốn đâu phải người có ác ý. Thi thoảng cô có hơi vô ý, nhưng cô không chủ tâm làm tổn thương mọi người.
Khoan đã. Cô đứng khựng lại ngay bên cạnh cối xay thịt sáng bóng của ông, Cô thấy thương hại Rob ư? Chuyện đó xảy ra như thế nào?
Cô tựa hông vào cái bàn làm việc mạ crom, đặt tay lên trán. Cô không muốn thương hại Rob. Cảm giác để có thể khiến cô thích anh ta hơn. Thích anh ta có thể dẫn cô thẳng tới chuyện bẽ mặt và bị cự tuyệt. Cô phải tránh xa những người đàn ông đã lợi dụng và đối xử tệ bạc với mình.
Rob Sutter là điển hình tồi tệ.
- Katie này. - Ông nói khi bước vào gian trong . – Ông có đơn hàng cần cháu chuyển đây.
- Ai vậy ông?
- Hazel Avery. Bà ấy cũng bị cảm lạnh giống cháu mấy hôm trước.
- Sao bà ấy không gọi hiệu thuốc Crum ấy. Họ cũng có giao hàng tại nhà mà. - Cô giơ tay chặn lại trước khi ông kịp trả lời. – Thôi quên đi. Cháu hiểu rồi. Là vì ông dễ thương hơn Fred Crum thôi.
Hai má ông Stanley ửng đỏ. Ông đưa cái túi đựng một chai Nyquil và hộp Theraflu cho Kate.
- Cám ơn cháu. – Ông nói.
- Rob còn ngoài đó không ông?
- Cậu ta đi rồi, nhưng chắc chỉ mới qua bãi đỗ xe thôi. Cháu có thể bắt kịp cậu ta nếu nhanh chân lên.
Kate đút tay vào túi áo khoác, vơ lấy túi xách. Từ hôm đánh lộn ở Buckhorn tới giờ, ông cứ ra sức gán ghép cô với Rob.
- Cháu sẽ bắt kịp anh ta vào lúc khác. – Cô khoác túi xách lên vai, hất tóc ra sau. – Cháu sẽ về sớm.
Nói xong cô cầm túi hàng ông đưa. Ít nhất cô hy vọng chuyến này không tốn thời gian. Lần gần đây nhất cô giao hàng là tới nhà Fernwood ở mạn Tamack. Họ mời cô vào nhà, mở một cuốn album, chỉ cho cô xem cả trăm bức ảnh đứa cháu mới ra đời của họ. Họ cố nhồi nhét cô ăn bánh, bắt cô nghe chuyện con gái họ, Paris, và chồng cô ta, Myron, được biết đến nhiều hơn với cái tên Myron Máy Nghiền trong làng đấu vật chuyên nghiệp dành cho người lùn. Hình như Myron còn có một tên khác ở Mexico dựa theo lối di chuyển đặc trưng của anh ta, Cơn Lốc.
Kate ra khỏi cửa hàng M&S. Ánh mặt trời buổi chiều sáng chói. Cô đi xuống vỉa hè, bước về phía chiếc Honda CRV rồi nhìn sang bên kai bãi đỗ xe. Rob đang đứng trước cửa tiệm đồ thể thao Sutter, vẫn mặc áo dài tay màu xanh lá và quần jean như lúc nãy. Chỉ có thứ khác biệt là anh ta đeo cặp kính rám gọng đen, mắt kín màu xanh dương.
Trước khi cô xét thấy đó không phải là ý hay, cô bước khỏi vỉa hèm đi dọc theo khu đất rải nhựa đường. Phải rồi, anh ta là chủ tịch câu lạc bộ “khả năng mối quan hệ chẳng đến đâu”, nhưng anh ta cũng là người đàn ông duy nhất ở quán Buckhoen đứng ra bảo vệ cô. Cô không chắc anh ta có biết cô thực sự biết ơn đến nhường nào hay không.
Lại gần hơn, cô thấy một tay anh ta cầm rìu, rút ra một đôi găng tay lao động da màu nâu. Trước mắt cô, anh ta quay ra vung rìu chặt một cái cây cao chừng hơn một mét, trồng trong cái chậu hoa đôi cạnh cửa ra vào. Chỉ hai nhát, cái cây đã đổ gục dưới chân anh ta.
- Chào anh. – Cô gọi to trong khi bước lên vỉa hè.
Anh ta liếc mắt lại nhìn cô và đứng thẳng dậy.
- Sao thế? Anh rất cần củi à ? - Cô đứng trước cái cây vừa bị đốn, hỏi.
- Lùi lại một chút nào . – Anh ta vừa nói vừa vung rìu chặt tiếp cây khác. Nó đổ sụp xuống cạnh người anh em song sinh.
- Tôi ghét những thứ đó. – Anh quay sang cô đáp, song lại nâng rìu lên, cán gỗ trượt trong lòng bàn tay đeo găng, dừng lại ở phần đầu bằng thép nặng. – Có lẽ chúng hợp với Bốn Mùa hơn là một tiệm đồ thể thao ở Idaho Sawtooth.
- Anh định thay thế chúng à ?
- Tôi đang tính kiếm vài cây cỏ dại cao. - Anh ta cắn đầu ngón găng kéo nó ra.
- Ý anh là cỏ bông bạc hay dương xỉ ấy hả ?
Anh ta nhét găng tay vào trước túi áo.
- Ừm, chắc vậy. Tôi trồng vài cây giống đó trong vườn, và tôi thích nó.
Anh ta tháo kính râm ra, nhét nốt vào túi. Ánh mặt trời làm đôi mắt xanh của anh ta hơi nheo lại khi nhìn cô. Anh tay lấy mũi giày đá một cái cây dưới đất.
- Đám này phải chết
- Thật tốt là anh không bán súng.
Anh ta mỉm cười, vì một vài lí do đáng sợ, cô thấy hơi chút chộn rộn trong lòng. Cô tránh nhìn miệng anh ta, liếc xuống hai cái xác cây dưới chân mình.
- Không. – Anh ta nói. – Không súng ống gì hết.
Cô quá hiểu tại sao anh ta không bán súng.
- Chà, tôi ngạc nhiên là họ lại để anh ta sống ở đây.
- Tôi không phản đối chuyện súng ống. Tôi chỉ không cần chúng.
Cô liếc lên nhìn mái che kẻ sọc trên đầu.
- Bao giờ anh mở hàng.
- Mùng Một tháng Tư. Tính từ mai là một tuần nữa.
Anh ta không nói gì thêm. Một phút im lặng bối rối giữa hai người. Co không biết làm gì ngoài việc tự hỏi liệu anh ta có đang nhớ về cái đêm cô đã hành động thật ngớ ngẫn, Hay buổi tối anh cứu cô khỏi Buckhorn. Cô khoanh tay trước ngực, túi thuốc cảm của Ada lắc lư va vào đùi.
- Hàm anh thế nào rồi ? - Cô liếc nhìn khuôn mặt anh ta. – Còn đau không ?
- Không.
- Tốt. Nếu anh không can thiệp, chắc tôi vẫn ở lại Buckhorm chơi bi-a.
- Nhà Worsley là bọn đần độn.
- Tôi nghĩ anh đã gọi chúng là bọn thiểu năng.
Anh cười khùng khục.
- Cũng vậy cả thôi mà.
- Một lần nữa cảm ơn anh vì đã giúp tôi.
- Không có gì, - Anh ta gõ gõ cán rìu vào chân như thể đang nôn nóng muốn tống cô đi chỗ khác.
Cô lùi lại một bước.
- Gặp anh sau.
Anh cúi xuống nhặt thân cây vừa chặt.
- Ừm.
Trong khi thấy cô hơi xốn xang, anh ta lại chẳng tỏ thái độ gì. Thật ngại quá. Cô vội quay đi lấy xe. Nhưng thái độ hờ hững của anh ta cũng chẳng phải tin gì mới mẻ - cũng chẳng ảnh hưởng gì. Cô đâu có tới đây để hẹn hò – nhất là với đàn ông như Rob. Cô ở đây để giúp đỡ ông thôi.
Ngày thứ Sáu sau đó, cô giúp ông theo một cách đã thay đổi cuộc sống của ông,
Tình cờ cô lây cảm cho ông. Vậy là ông buộc phải nằm nhà. Trước khi đi làm, Kate nói với bà Grace Sutter về việc đưa ông đến phòng khám. Bà hứa sẽ ghé qua khám cho ông vào giờ nghỉ trưa và sau khi hết ngày làm việc.
Việc đầu tiên Kate làm khi tới cửa hàng sáng hôm đó là bỏ ngay đĩa Tom Jones khỏi đầu CD, thay vào đĩa Alicia Keys. Cô thích nghe Alicia, Sarah McLachlan và Dido. Thật là một ngày thỏa sức tự do.
Một giờ chiều, cô gọi cho một người bán buôn thực phẩm có uy tín ở Boise, đặt hàng ô liu, mứt jalapeno và bánh quy giòn. Cô nghĩ tốt nhất là bán những thứ nhỏ. Và nếu những món này bán được, ông cô sẽ phải đồng ý với những ý tưởng khác của cô.
Năm giờ, cặp song sinh nhà Aberdeen tới làm việc. Kate thay ngăn kéo để tiền. Cô đếm tiền, ghi chép vào sổ cái của ông, để tiền trong két cho tới sáng hôm sau. Chuông điện thoại vang lên khi cô định rời văn phòng lúc sáu giờ. Là ông gọi. Ông nhờ cô làm hai việc giúp, " lấy sổ sách ", những việc cô vừa mới làm, và giao hàng trong lúc tiện đường về nhà.
- Đơn đặt hàng đặc biệt của Rob từ hôm qua. – Ông ho khụ khụ. – Cháu mang nó đến nhà cho Rob nhé.
Kate liếc xuống nhìn cái áo cánh bo màu be có ba khóa bằng da ở một bên. Cô phủi bụi trên ngực trái.
- Cháu sẽ gọi anh ta, và anh ta có thể đến lấy vào ngày mai.
Cô không muốn gặp Rob. Hôm nay là một ngày dài mệt mỏi, và cô chỉ muốn về nhà, cởi bỏ cái quần dài vải dệt chéo đen và đôi bốt da. - Cháu chắc là anh ta không cần gì tối nay đâu.
- Katie . – Ông thở dài. – Cửa hàng M&S trụ được ngần ấy năm là vì khách hàng rất tin tưởng chúng ta đấy.
Cô đã nghe chuyện này cả trăm lần rồi, nên đành vồ lấy cây bút. - Ông cho cháu địa chỉ đi.
Năm phút sau, cô lái xe quanh mạn trái hồ Fish Hook. Mặt trời sắp lặn đằng sau những đỉnh núi đá granit nhọn hoắt, tạo thành những mảng tối răng cưa phủ lên toàn bộ khung cảnh và mặt hồ xanh thẳm. Kate liếc nhìn chỉ dẫn dựng phía sau hộp số, rẽ trái lên một con đường dẫn vào nhà có hàng rào gỗ san sát nhau. Cô có thể thấy mái một ngôi nhà, nhưng hệ thống đèn cảm biến bật sáng như đường băng, nên cô biết mình đang đi đúng đường. Ngôi nhà dường như cao vượt lên trước mặt cô, to lớn và sừng sững trong ánh chiều tà.
Ngôi nhà được dựng từ đá hồ và gỗ. Những ô cửa sổ khổng lồ phản chiếu hình ảnh những ngọn thông chót vót cùng những lùm cây phủ đầy tuyết. " Pa rum pum pum pum " ( Nhịp điệu trong bài hát " Chú bé đánh trống ") , cô lẩm nhẩm. Trông nó giống một cái khách sạn hơn là nhà riêng. Cô lái chiếc Honda vào chỗ đỗ xe phía trước cái gara phải chứa được tới bốn xe, vơ lấy túi đồ của Rob trên ghế phụ. Cô chưa từng nghĩ về nơi anh ta sống, nhưng dù cho có nghĩ đi nữa thì cũng không ngờ nó lại như thế này.
Cô kiểm tra lại địa chỉ ông đưa trên bảng sô nhà. Hockey hẳn đã mang lại cho Rob rất nhiều.
Cô ra khỏi xe, khoác ba lô da lên vai. Gót đôi bốt của cô lục cục trên nền bê tông và đá khi bước lên bậc thềm rộng trước cửa ra vào.
Một tay cầm túi, một tay cô gõ cửa. Đèn trên đầu cô không bật. Cũng không có ánh đèn trong nhà. Được một lát, Kate đặt túi trước cửa rồi mở túi xách ra. Cô lục tìm một mảnh giấy, cuối cùng tìm được tờ danh sách bán hàng tạp phẩm cũ, một biên lai tài khoản tiền gửi ngân hàng và một tờ giấy gói kẹo cao su mùi giống mùi bạc hà. Cô lấy tờ giấy gói ra cùng một cây bút, tựa vào cửa viết.
Viết được dở chừng tờ giấy thì đèn trên đầu cô bật sáng, một bên cánh cửa mở ra. Kate ngã chúi, suýt nữa đâm đầu vào ngực Rob.
- Cô đang làm gì thế . – Rob hỏi ?
Cô bám lấy cánh cửa kia để khỏi ngã.
- Tôi chuyển hàng cho anh.
Cô nhìn đôi chân trần, cái quần jean cùng cái áo phông đã sờn của anh ta. Màu xanh dương, cô chắc vậy, và căng phồng.
- Cô không phải làm vậy đâu.
Anh ta quàng một cái khăn tắm mày trắng quanh cổ, đưa một đầu khăn lên lau khô mái tóc ướt sũng. Ống tay áo anh ta tuột xuống để lộ múi cơ cuồn cuộn và lông nách đen rì. Hình xăm rắn cuộn quanh bắp tay săn chắc. Có thứ gì đó khiến ruột gan cô xốn xang kì lạ.
- Ông tôi nói là … - Cô cau mày, đẩy cái túi về phía anh ta . – Đừng ngại.
Anh ta quay đi vào trong nhà, không cầm lấy cái túi. Một chum đèn treo làm bằng sừng hươu Bắc Mỹ tỏa sáng trên đàu, chiếu xuống bờ vai rộng và mông quần jean anh ta. Anh ta ngoái lại nhìn cô.