[Pháp Y Tần Minh Hệ Liệt] Người Giải Mã Tử Thi

Chương 17: Vụ án thứ mười bảy – Giếng cổ hôi thối

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

“Tôi thấy không thể cứ thay phiên nhau đi công tác như thế này được.” Đại Bảo nói, “Số tôi đen đủi, hai tháng nay toàn đi mấy vụ kêu oan thôi.”

Đại Bảo là một người đàn ông 30 tuổi gầy gò, đeo kính, anh là trung đội phó trung đội kỹ thuật trực thuộc đại đội hình sự của Cục công an Thanh Hương. Thanh Hương là một thành phố dân cư đông đúc, tuy có không ít án mạng xảy ra nhưng số lượng phá án vẫn luôn dẫn đầu toàn tỉnh. Sư phụ thấy được thành tích của đội pháp y Thanh Hương nên quyết định đào tạo cho nơi này một cán bộ có thể gánh vác được trọng trách nặng nề, trở thành lực lượng cốt cán, vì vậy sư phụ đưa Đại Bảo từ Thanh Hương lên tỉnh, cùng anh Vĩnh bắt đầu khóa huấn luyện thầy kèm cặp trò kéo dài một năm.

Sở dĩ các bác sĩ pháp y có thể cống hiến không ngừng cho cái nghề vừa khổ vừa mệt này, là bởi họ đắm chìm giữa cảm giác được khiêu chiến và đạt được thành tựu trong lúc điều tra án mạng. Đại Bảo cũng không ngoại lệ, anh lên Sở được hai tháng, vốn dĩ vẫn cũng anh Vĩnh chia nhau thay phiên đi công tác, không ngờ cứ anh Vĩnh đi thì là án mạng, mà đến lượt Đại Bảo đi lại chỉ toàn là án kêu oan. Hai tháng trôi qua, Đại Bảo bắt đầu mất kiên nhẫn.

“Thật ra tôi thấy xử lý án kêu oan cũng giúp cọ xát ý chí, rèn luyện năng lực.” Tôi nói, “Hồi tôi mới đi làm ấy, toàn bộ án kêu oan đều là tôi gánh hết.”

“Vậy sao được.” Đại Bảo đáp, “Chú đã gặp sói xám ăn rau bao giờ chưa?”

“Sói Xám vốn chỉ được ăn rau đó thôi?a>” Tôi biết, việc tôi vừa cùng anh Vĩnh phá xong án mạng tại huyện Đinh Sơn khiến cho khao khát được tham dự vào vụ án lớn trong lòng Đại Bảo trỗi dậy mãnh liệt. Lần này đến lượt Đại Bảo đi công tác, việc anh ấy lo lắng cũng có thể thông cảm được.

“Tình hình trị an ở tỉnh mình rất ổn định, lại vừa phát sinh vụ án giết cùng lúc ba người, khả năng lại có án lớn là không cao.” Tôi nói. Ở tỉnh chúng tôi tương đối hiếm những vụ án giết từ hai người trở lên, dựa theo tình huống thường thấy, một năm nhiều lắm gặp được một hoặc hai vụ, mà dù phát sinh thì công tác điều tra phá án cũng được hoàn thành nhanh chóng, rất hiếm khi phải cần đến cơ quan pháp y của tỉnh tham dự vào những vụ án hóc búa.

“Không cần án mạng lớn lao gì, chỉ nhiều nghi vấn thôi cũng được, chứ án kêu oan không có tính khiêu chiến, chẳng có ý nghĩa gì cả.” Rồi Đại Bảo nhận ra mình có đôi chút lỡ lời, lại cúi đầu bất đắc dĩ nói, “Nhưng cũng mâu thuẫn lắm, phát sinh vụ án chẳng khác nào lại có người chết, sao có thể đành lòng đây, cuộc sống yên bình mới là tốt hơn tất thảy.”

Tôi gật đầu, nói: “Đúng vậy, chúng ta thất nghiệp mới tốt.”

Đang nói thì sư phụ gọi điện đến văn phòng, lúc này sư phụ đã là phó phòng kỹ thuật hình sự và phải chuyển ra khỏi văn phòng của đội pháp y: “Anh dẫn mọi người đến họp ở văn phòng của tôi.”

Phòng nghiệp vụ ở tỉnh người ít việc nhiều, tỉ lệ nghịch vô cùng. Đội pháp y thật ra chỉ có ba người, cộng thêm anh Vĩnh và Đại Bảo mới miễn cưỡng chia được thành hai tổ nhỏ. Công tác khám nghiệm án mạng, lại thêm giám định thương tật, giám định xương cốt/tuổi thọ, giải quyết án kêu oan, xét duyệt kỹ thuật, quản lý hành chính… gồm rất nhiều công việc phức tạp, bởi vậy hàng năm mỗi đồng chí phải đi công tác hơn 200 ngày cũng chẳng phải chuyện lạ.

“Hôm nay thứ Hai đầu tuần, ngày không tốt, sáng nay liên tiếp xảy ra hai vụ việc.” Sư phụ nói, “Vân Thái có vụ giám định thương tật dẫn đến kêu oan, cần phải đi phúc tra. Còn bên Thanh Hương thì đang nghi là án mạng, ở thôn nọ có hai người mất tích.”

“Em đi Thanh Hương.” Đại Bảo không chịu được, mới nghe đến án kêu oan đã suýt ngất, vừa may có vụ nghi là án mạng, dù là nghi ngờ thì vẫn còn hơn là đi phúc tra án kêu oan. Nhìn Đại Bảo sốt sắng như thế, mấy thằng chúng tôi đều không nín được cười.

“Tôi còn chưa nói xong, anh vội cái gì hả?” Sư phụ thấy Đại Bảo bình thường vẫn chỉ đâu đánh đấy, thế mà hôm nay dám lớn tiếng ngắt lời thầy, thầy hiểu ngay suy nghĩ của anh, nghiêm mặt nói: “Đội pháp y của tỉnh đi làm án nhất định phải đưa ra được ý kiến chủ đạo, anh là người Thanh Hương, tôi cho anh đi Thanh Hương phá án, đến lúc đó lãnh đạo của anh nhìn vào khiến anh bị ảnh hưởng đến phán đoán thì sao? Không ổn, không ổn.”

Mặt Đại Bảo hết đỏ bừng lại trắng bệch, anh lắp bắp nửa ngày mới thốt ra mấy chữ: “Không… Sẽ không…”

“Ha ha! Xem cái mặt anh kìa!” Sư phụ đột nhiên rút lại vẻ mặt giả vờ nghiêm túc, cười ngả cười nghiêng, “Tôi trêu anh thôi! Tần Minh, Lâm Đào và Đại Bảo đi Thanh Hương, tôi đã bảo bên kiểm nghiệm dấu vết phái một đồng chí đi cùng các anh rồi.”

Đại Bảo cúi đầu cười, lúc này mặt anh coi như đỏ gay lên rồi.

“Thế mới phải chứ,” Sư phụ nói tiếp, “Tình nguyện đi khiêu chiến với vụ án nhiều nghi vấn khó khăn mới là bác sỹ pháp y tốt, chứ cái loại gặp chuyện thì trốn, sợ khó sợ khổ thì không khá được đâu.”

Tôi không có lòng dạ nào mà nghe sư phụ trêu chọc Đại Bảo, vội vã ngắt lời sư phụ: “Án mạng gì thế ạ?”

Sư phụ cầm kẹp tài liệu trên bàn ném cho tôi. Vừa lật ra đã thấy một bức fax, trên đó viết “Thư Mời”:

Kính gửi phòng kỹ thuật hình sự tỉnh:

Sáng nay, ở thôn Giáp Thanh thuộc thành phố Thanh Hương chúng tôi có người phát hiện một vết máu lớn ở nhà người khác, hai người trong nhà không rõ tung tích, Cục chúng tôi đã tổ chức chuyên gia tiến hành tìm kiếm những người mất tích. Xét thấy có khả năng đây là một vụ án mạng, chúng tôi đặc biệt mời quý chuyên gia pháp y đến thành phố Thanh Hương để chỉ đạo điều tra phá án.

Cục công an thành phố Thanh Hương.

Đại Bảo thấy tôi khép kẹp tài liệu lại, liền giật lấy mở ra xem, trên mặt tràn đầy hào hứng.

“Thôn Giáp Thanh là một thôn nhỏ xa xôi.” Người Thanh Hương như Đại Bảo vốn chẳng xa lạ gì, “Thôn này có chưa đến 100 người, nằm ở đầu phía Tây Thanh Hương, là nơi giao nhau giữa ba huyện, tình hình trị an không tốt, thỉnh thoảng phát sinh mấy vụ ăn trộm, nhưng vì người ở đây ít ỏi nên lại rất ít khi có án mạng.”

Nghe Đại Bảo nói như vậy, tôi bắt đầu lo lắng, sợ rằng đây là bọn cướp gây án, khiến công tác điều tra phá án trở nên khó khăn. Vì thế tôi hỏi tiếp: “Sự việc xảy ra vào lúc mấy giờ sáng ạ?”

“Tôi nhận điện thoại lúc 7 giờ 30 sáng.” Sư phụ nói, “7 giờ sáng có người dân đi báo công an, tình huống cụ thể thế nào tôi cũng không rõ, các anh tới hỏi lại đi.”

Tôi nâng cổ tay nhìn đồng hồ, lúc này vừa đúng 8 giờ, nói: “Đại Bảo, anh đi gọi xe đi, chúng ta lập tức xuất phát.”

“Đi chậm một chút.” Sư phụ quan tâm nói, “Còn chưa xác định có phải án mạng hay không, đến sớm cũng uổng công. Dạo này trên đường cao tốc có sương mù, an toàn mới là quan trọng nhất, không cần nhanh quá đâu.”

Tôi gật đầu, quay lại văn phòng cầm lấy laptop và hòm dụng cụ, vội vàng cùng Đại Bảo, Lâm Đào lên xe cảnh sát chạy đến thành phố Thanh Hương.

Thanh Hương là thành phố nằm cách xa thủ phủ của tỉnh nhất, phải đi ba tiếng đồng hồ mới tới nơi. Do không biết gì về vụ án nên tôi chưa có suy nghĩ gì cả, ngồi trên xe nghe tiếng động cơ nổ vang như khúc nhạc thôi miên, chẳng mấy chốc mà tôi tiến vào mộng đẹp. Trong mộng tôi còn lờ mờ nghe thấy tiếng Đại Bảo không ngừng gọi điện thoại.

Lúc xuống cầu cao tốc, tôi bị gờ giảm tốc trước trạm thu phí xóc cho tỉnh cả ngủ. Tôi dụi mắt, quay đầu hỏi người lái xe: “Ngủ ngon quá. Đến chưa đấy?”

Anh lái xe gật đầu. Thấy Đại Bảo đang ngẩn mặt, dựa đầu vào cửa kính xe, tôi liền hỏi: “Sao rồi Đại Bảo?”

“Hai người chết.” Đại Bảo nói, “Không có án mạng thì thấy trống vắng, có rồi lại thấy người chết thật đáng thương.”

“Xác định là án mạng sao?”

Đại Bảo gật đầu, nói: “Phát hiện được hai thi thể trong giếng cổ ở sân sau căn nhà, đều đã phân hủy mạnh.”

“Có mang mặt nạ phòng độc theo không?”

“Có mang. Trong hòm dụng cụ ấy.” Đại Bảo đáp, “Nghe nói sau khi khám nghiệm hiện trường sơ bộ, không tìm thấy đầu mối nhưng cơ bản xác định là ăn trộm chuyển thành cướp của giết người.”

Tôi cúi đầu, yên lặng suy nghĩ.

“Khu ấy có rất nhiều vụ ăn trộm.” Đại Bảo nói, “Tôi từng lo sẽ xuất hiện vụ án ăn trộm dẫn đến giết người, không ngờ lại thực sự phát sinh. Nếu là bọn cướp gây án thì phiền lắm, có lẽ sẽ khó khăn.”

“Mau đến hiện trường đi.” Tôi trấn an nói, “ Nghĩ nhiều cũng vô dụng thôi.”

Dưới sự chỉ dẫn của Đại Bảo, chúng tôi vòng qua nội thành tắc nghẽn giao thông, theo đường vành đai thành phố, đến thẳng thôn Giáp Thanh nằm ở ngoài rìa thành phố Thanh Hương.

Đây là một vùng đất bằng phẳng, nhìn ra xa không thấy đâu là giới hạn, trong ánh mặt trời vàng ruộm buổi đầu thu và những hàng hoa màu xanh mượt thẳng tăm tắp,  giữa những mảnh ruộng có thể thấy loáng thoáng mấy nhà dân gạch đỏ ngói đen. Đi thêm vài ki lô mét liền thấy trên cửa sổ những căn nhà ấy phản chiếu ánh đèn xe cảnh sát loang loáng.

Chẳng mấy chốc mà chúng tôi đã tới hiện trường. Đây là một tòa nhà rộng rãi nhưng phòng ở lại có vẻ cũ nát. Phía trong dải phân cách có mấy cảnh sát mặc trang phục khám tra đang bận rộn đi ra đi vào. Chi đội phó chi đội hình sự phụ trách quản lý kỹ thuật hình sự thuộc Cục công an Thanh Hương – Lưu Tam Hạ liếc mắt thấy chúng tôi có mang theo hòm dụng cụ, bèn nói: “Các đồng chí trên tỉnh đã đến rồi.” Anh ấy vừa bước nhanh đến chỗ chúng tôi, vừa vươn ra bàn tay dày rộng.

“Hai người đã chết là một đôi vợ chồng già khoảng 70 tuổi sống tại tòa nhà này.” Sau khi trò chuyện đôi câu, anh Lưu giới thiệu tình hình, “Con cái có một trai một gái. Con trai 50 tuổi, không kết hôn, đến vùng ven biển Phúc Kiến làm buôn bán nhỏ, nghe nói làm không đủ tiêu, rất ít khi về nhà, thường cứ hai năm mới về một lần. Con gái 44 tuổi, cùng con rể làm thuê ở Giang Tô. Cháu ngoại của người chết năm nay 20 tuổi, đang học Đại học trên tỉnh.”

Tôi nhìn quanh tòa nhà một vòng: “Nhà hai tầng đấy chứ, nhìn vào thấy có vẻ là giàu có, nhà cửa cũng không nhỏ.”

“Nghe nói tổ tiên nhà này rất giàu có.” Chi đội trưởng Lưu nói, “Nhưng đến đời nạn nhân lại dần suy tàn, chúng tôi hỏi thăm thấy điều kiện gia đình họ không khá khẩm gì. Nạn nhân 70 tuổi vẫn phải đi làm ruộng, cứ nửa năm một lần con trai ở Phúc Kiến sẽ gửi tiền về, không nhiều lắm, chỉ mấy nghìn tệ>[3] thôi.”

“Gửi tiền?” Nghe đến từ này, tôi lập tức nhanh nhạy hẳn, “Vậy sáu tháng cuối năm nay tiền được gửi về lúc nào?”

“Chúng tôi vẫn đang tìm cách liên lạc với con trai của nạn nhân.” Chi đội trưởng Lưu nói, “Nhưng qua công tác khám nghiệm sơ bộ thấy ở hiện trường không phát hiện được tiền mặt hay bất cứ vật có giá trị nào.”

“Trong nhà không có người thân, vậy người chết được phát hiện mất tích như thế nào?” Tôi hỏi.

“Cụ ông nhà này họ Chân, lần cuối cùng hàng xóm nhìn thấy hai vợ chồng nhà họ Chân là vào buổi chiều của ba ngày trước, lúc ấy hai vợ chồng họ vừa mới lên thị trấn mua đồ về, sau đó không ai thấy họ nữa. Vì nhà của nạn nhân ở rìa thôn nên nếu không có người tìm đến nhà họ thì chẳng ai lai vãng qua đây. 7 giờ sáng hôm nay, một người trong thôn đến nhà cụ Chân mượn xe đẩy, thấy cổng mở, gọi vài câu không thấy ai trả lời liền đi vào.” Nói tới đây anh Lưu ho mạnh mấy tiếng như đang bị cảm.

“Chi đội trưởng Lưu ốm vẫn đi phá án, đúng là đáng để chúng tôi noi theo.” Tôi cảm thấy kính nể, “Anh đừng nóng vội, cứ từ từ nói.”

Chi đội trưởng Lưu cười, lắc đầu: “Không sao. Sau khi người kia vào nhà, thấy trong nhà im ắng, gọi thêm vài tiếng cũng chẳng ai thưa. Anh ta thấy cửa nhà mở rộng bèn đi thẳng vào, thấy TV trong gian chính còn đang bật, trên ghế bành ở trước mặt có một vũng máu lớn nên chạy đi báo công an. Khi cảnh sát dân sự đến nơi, tìm khắp nhà vẫn không thấy người, nhưng trên chiếc ghế đặt ở gian chính tầng một có máu đọng thành vũng, nghi là án mạng nên họ vừa thông báo cho đội hình sự, vừa gửi thông tin lên Cục công an thành phố, sau khi lãnh đạo Cục nghiên cứu liền quyết định mời các vị tới đây.”



Tôi cùng anh Lưu đi vào trong sân. Tòa nhà này rất lớn, diện tích khoảng 200 mét vuông, nhà cửa được thu dọn sạch sẽ ngăn nắp, vừa nhìn đã biết người trong nhà sống rất chỉn chu. Ở phía Bắc tòa nhà là một căn nhà hai tầng, góc nhà xây bằng gạch đỏ đã hư hỏng đôi chỗ, có vẻ như căn nhà này khá cũ, nhiều năm không được tu sửa. Tôi không vội vào nhà ngay mà hỏi: “Thi thể được phát hiện ở đâu?”

Chi đội trưởng Lưu nói: “Đi theo tôi.”

Tôi theo anh đi vòng qua căn nhà hai tầng, thấy sau nhà còn có một cái ngách. Căn nhà cách tường bao phía Bắc một đoạn ngách chừng 3 mét, ở đây trồng mấy cây nhỏ thân to cỡ miệng bát, quanh thân cây cỏ mọc dày cao tới ngang eo, xem ra nơi này đã lâu không được ai quan tâm dọn dẹp.

Vừa đến sau nhà đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi nhức mũi, tôi day day mũi, ngẩng đầu nhìn về phía trước, thấy trên mặt đất đặt hai cái xác ướt sũng, đã có dấu hiệu trương phình do bị phân hủy, không thể nhìn rõ khuôn mặt. Bên cạnh là bác sỹ Tôn của Cục công an thành phố Thanh Hương, anh đang dùng đôi tay được đeo găng cẩn thận để xắn gấu quần ẩm ướt. Bác sỹ Tôn thấy chúng tôi đến liền cười chào hỏi rồi nói: “Nhân viên thu thập vật chứng nói trên cỏ có vết máu nhỏ giọt, sau đó phát hiện được trong lùm cỏ có một giếng cổ. Giếng cổ này nhìn qua thì thấy lâu không dùng đến, bên trong trôi nổi toàn thứ linh tinh, nhưng vì nước có lưu thông nên không tù đọng hôi thối. Bên thu thập vật chứng nhìn xuống thăm dò, nghĩ rằng có gì đó, liền lấy gậy chọc khuấy và cảm thấy khả năng có thi thể ở dưới giếng. Lúc nãy tôi đu dây thừng xuống giếng, vừa mới buộc dây vào thi thể rồi kéo lên, vật lộn mất nửa ngày.” Bác sĩ Tôn nói xong cười gượng một tiếng, lại cúi xuống xử lý nốt ống quần bị ướt.

Tôi kính nể nhìn bác sĩ Tôn, nói: “Anh vất vả rồi.”

“Hay là chúng ta khám nghiệm hiện trường trước đi?” Chi đội trưởng Lưu gợi ý.

Tôi gật đầu, trong lòng nghĩ đến cảnh tượng bác sĩ Tôn mạo hiểm nhảy xuống giếng vớt thi thể, từ sâu thẳm trái tim cảm động bởi tinh thần làm việc không sợ bẩn, không sợ khổ, cẩn thận nghiêm túc làm tròn phận sự mà chẳng được ai biết tới của những bác sĩ pháp y ở cơ sở. Tôi mang theo dụng cụ khám nghiệm hiện trường, dẫn đầu mọi người đi vào hiện trường trung tâm. Trong hiện trường có mấy nhân viên thu thập vật chứng đang dùng cọ lông nhỏ quét qua vài vật khả nghi, muốn tìm một hai dấu vân tay có khả năng liên quan đến vụ án.

Ở tầng một đã có nhiều nhân viên khám nghiệm hiện trường, vì vậy tôi và Đại Bảo chỉ có thể lên tầng hai xem trước. Đối diện lối cầu thang đi lên là tiền sảnh nho nhỏ, hai bên Đông – Tây là hai phòng ngủ. Phòng ngủ phía Đông đặt một chiếc giường nhỏ, trên giường có xếp chăn gối ngay ngắn. Phòng ngủ phía Tây có dựng vài tủ quần áo lớn và một tủ ngăn kéo, cạnh tủ áo là một chiếc giường lớn, hai bên đầu giường trái phải đều có một chiếc tủ. Tủ ngăn kéo và tủ đầu giường đều bị lục lọi, vật dụng bên trong bị ném lung tung lên giường, chăn trên giường cũng bị giũ ra.

“Xem ra đúng là ăn trộm.” Tôi vừa nói vừa chỉ vào căn phòng hỗn loạn.

Đại Bảo đẩy cửa sổ, tiếp: “Nghe nói cửa sổ tầng một, tầng hai đều đóng, vậy tên trộm kia vào bằng cách nào? Chẳng lẽ cửa trước không đóng cẩn thận? Không phải, hẳn là người quen gây án.”

“Có căn cứ không?” Kỳ thật lúc này trong lòng tôi cũng nghĩ như vậy, chỉ là muốn biết căn cứ của Đại Bảo có thống nhất với tôi hay không mà thôi.

“Ném thi thể xuống giếng cổ sau nhà, nếu không phải người quen thì chắc chắn tìm không ra.” Đại Bảo đáp.

“Đúng.” Tôi gật đầu nói, “Trên chiếc ghế nằm ở dưới nhà có vết máu, chứng tỏ nạn nhân thứ nhất bị hại khi đang nằm trên ghế, chăn ở đây bị lật lên, chứng tỏ có khả năng nạn nhân thứ hai đang ngủ trên giường thì bị tấn công.”

Tôi nhìn kỹ chiếc gối đặt ở đầu giường, nói tiếp: “Nhưng rốt cuộc là người quen nhân lúc đêm tối lẻn vào nhà ăn trộm hay là người quen vốn ở trong phòng, chờ nạn nhân ngủ rồi mới ăn trộm? Đây mới là điểm mấu chốt để phá án.”

“Đúng vậy.” Đại Bảo đáp, “Tuy nhiên nếu cho rằng kẻ đó đến sau thì có đôi chút bất hợp lý. Chẳng lẽ buổi tối hai cụ không khóa kỹ cửa nên tên trộm mới có thể thừa dịp lẻn vào?”

“Cửa không đóng kỹ cũng là một khả năng, nhưng khả năng này không lớn.” Tôi nói, “Dù bất hợp lý cũng không thể loại trừ. Nếu thật sự là người khá thân quen thì kẻ đó sẽ được ngủ ở đâu?”

Vì không có nhiều căn cứ nên chúng tôi không tiếp tục thảo luận mà bắt đầu cẩn thận kiểm tra đồ đạc trong phòng.

Sau khi kiểm tra tủ đầu giường, chúng tôi phát hiện trong ngăn kéo của một trong hai chiếc tủ có hộc ẩn bên trong, nếu không phải nắp hộc bị mở ra thì quả thật không thể phát hiện trong ngăn kéo có cái hộc này. Tôi hào hứng nói với Đại Bảo: “Anh xem, thứ này có thể xác minh hung thủ là người quen, nếu không làm sao biết trong tủ có hộc ẩn? Hơn nữa trong hộc trống không, chắc là tên này đã trộm được gì rồi.”

“Đúng vậy! Hơn nữa còn là người đã từng thấy cụ chủ nhà sử dụng cái hộc đó.” Đại Bảo cũng tỏ vẻ vô cùng hăng hái, nói chung cũng bởi trong lòng đã nắm được đôi phần, “Đi, xuống tầng một xem sao.”

Hiện trường tầng một gồm phòng khách, phòng bếp và nhà vệ sinh, giữa phòng khách là một bàn ăn và một chiếc ghế nằm. Trên ghế trải một tấm thảm lông, ở vị trí thảm lông tiếp giáp với phần gối đầu của chiếc ghế có một vết máu lớn. Vết máu này lấy điểm giữa phần gối đầu làm trung tâm, phun về hai bên, hình dạng của vết máu cho thấy rất rõ phương hướng máu phun ra. Cạnh ghế nằm đặt hai chiếc ghế dựa, đối diện là TV, TV vẫn đang bật.

Tôi lấy kính lúp từ hòm dụng cụ, cẩn thận xem xét vết máu ở đầu ghế nằm, đột nhiên tôi phát hiện trên thảm lông có một dấu vết khả nghi: “Lâm Đào, đến đây xem dấu vết này là gì.”

Lâm Đào đang hỏi nhân viên thu thập vật chứng về công tác khám nghiệm hiện trường trước đó, nghe thấy tôi nói như vậy bèn đi tới, nhìn kỹ qua kính lúp rồi nói: “Đây là vết góc vuông ép xuống, thứ có thể để lại trên vật mềm một dấu đè ép hình góc vuông thì hẳn là vật kim loại có cạnh vuông.”

“Rỗng ruột hay đặc ruột?” Thông qua việc khám tra dấu vết tại hiện trường, kết hợp với thương tích của nạn nhân, có thể suy đoán hung khí tương đối chuẩn xác, bởi vậy tôi mới vội vàng hỏi Lâm Đào.

Lâm Đào cẩn thận quan sát dấu vết đó vài phút, rồi ngẩng đầu nói với tôi: “Xem trước mắt đây thì hẳn là đặc ruột.”

Tôi gật đầu: “Trên gối đầu ở tầng hai cũng có dấu vết giống vậy, nhưng nhìn không rõ lắm, kết hợp hai dấu vết này, có lẽ hung thủ đánh trật nên để lại dấu vết hung khí, vậy có thể kết luận hai nạn nhân đều bị tấn công khi đang ngủ. Sao hả? Có phát hiện gì khác không?”

Lâm Đào lắc đầu đáp: “Họ đều đã xem qua những vật khả nghi, nhưng không phát hiện được chứng cứ có khả năng liên quan đến vụ án.”

Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa phòng bếp ra, cùng Lâm Đào theo chân nhau vào xem xét một lượt. Phòng bếp cũng giống ngoài sân, rất sạch sẽ, nồi niêu xoong chảo được sắp xếp ngăn nắp. Trong phòng bếp không thấy có cơm thừa canh cặn, còn trong tủ lạnh lại không thiếu rau thịt tươi sống.

“Sao lúc đầu bảo điều kiện nhà họ không tốt?” Tôi nói, “Ăn uống cũng khá đấy chứ.”

“Chắc là họ định kỳ lên thị trấn mua đồ ăn, thoạt nhìn thấy đồ ăn không ít, nhưng nhiều đồ ăn như vậy hẳn là hai cụ phải ăn trong thời gian dài.” Lâm Đào đáp.

“Đúng, lần cuối người trong thôn thấy họ là khi họ vừa lên thị trấn mua đồ ăn về.” Tôi nghĩ đến lời nói của Chi đội trưởng Lưu.

Đang chuẩn bị rời phòng bếp, chợt Lâm Đào nói: “Xem này, ở đây có máu.”

Tôi nhìn theo ngón tay Lâm Đào, thì ra trên mặt bếp lò dưới cửa sổ có vết máu nhỏ giọt. Sau khi xem xét vết máu ấy, chúng tôi quỳ rạp trên sàn cẩn thận quan sát. Tuy rằng sàn bếp là đất, nhưng chúng tôi vẫn tìm thấy trên mặt đất vài vết máu như thế.

Tôi đẩy cửa sổ phòng bếp ra, nói: “Lâm Đào, xem ra thi thể của nạn nhân bị hung thủ ném từ cửa sổ này, sau đó hung thủ vòng ra sau nhà rồi quăng thi thể xuống giếng.”

Lâm Đào đáp: “Đúng, hẳn là như vật, nhưng chuyện đó có thể chứng minh cái gì? Hung thủ làm thế là tiết kiệm quãng đường di chuyển thi thể.”

Tôi cười thần bí, nói: “Rất có ích đấy nhé.”

“Cậu nghĩ xem,” tôi nói tiếp, “Hung thủ trực tiếp ném thi thể từ chỗ này ra khỏi phòng, có nghĩa là hắn đã biết sau cửa sổ có một giếng cổ.”

“Ý cậu là hắn rất quen thuộc địa hình nơi đây.” Lâm Đào nói.

Tôi cười gật đầu, đi ra khỏi nhà, đến một gian nhỏ ở phía Đông tòa nhà xem xét.

Gian nhà này thông với căn nhà hai tầng, bên trong rất nhỏ hẹp, sát vách tường phía Bắc có một cái hố, sâu khoảng hơn một mét. Tôi chỉ vào cái hố, hỏi Đại Bảo đứng bên cạnh: “Cái này dùng làm gì?”

Đại Bảo đáp: “Cái hố này ở nông thôn dùng để chứa lương thực, dưới đáy hố và bốn phía đều lót nilon, chứa lương thực ở trong, bên trên phủ thêm nilon, có tác dụng chống ẩm.”

“Nhưng,” tôi chỉ vào trong hố nói, “Tại sao trong đó lại có rơm lúa mạch?”

Đúng lúc này, Chi đội trưởng Lưu đi đến, vội vã nói: “Đã liên hệ với con trai của nạn nhân, anh ta nói cách đây chưa lâu mới gửi 5000 tệ qua bưu điện, ước chừng là tháng trước tiền đã được chuyển đến đây.”

“Ở hiện trường không có tiền, hộc ẩn trong tủ đầu giường bị mở ra.” Tôi nói, “Có vẻ như hung thủ đã lấy đi rồi.”

“Nhưng tên hung thủ này cũng tính thời gian chuẩn quá, tiền mới chuyển đến, hắn bèn gây án, chẳng lẽ thực sự trùng hợp đến vậy?”

Tôi chỉ đống rơm ở phía Nam của gian phòng, nói: “Rơm lấy từ chỗ đó, tại sao lại muốn mang rơm đặt vào đây?”

Anh Lưu ló đầu vào nhìn trong hố rồi đáp: “Không biết, nơi này không nên có rơm rạ mới phải, trong hố hẳn là toàn lương thực, nếu bỏ rơm xuống đấy, về sau muốn trữ lương thực chẳng phải sẽ rất rắc rối sao?”

“Rơm rạ trong đó cũng không nhiều,” Chi đội trưởng Lưu nói tiếp, “Chắc là hai cụ giữ lại để nhóm lửa.”

“Có khi nào là hung thủ chuyển rơm đến đây, chuẩn bị để bỏ thi thể xuống hố thiêu hủy hay không?” Tôi to gan phỏng đoán.

“Hoàn toàn có khả năng.” Đại Bảo cũng đồng tình với suy nghĩ của tôi.

“Hung thủ đã bắt đầu chuẩn bị đốt xác, nhưng chưa mang được nhiều rơm đên đây thì lại thay đổi ý định, tại sao hắn làm thế?” Tôi nói, “Từ đốt xác chuyển thành giấu xác, chứng tỏ hung thủ hiểu rằng nếu đốt lửa thì sẽ nhanh bị phát hiện, hắn muốn kéo dài thời gian phát hiện thi thể.”

“Lúc trước chúng ta khẳng định hung thủ là người quen, hơn nữa hắn cần thời gian trốn thoát sau khi giết người, cho nên hắn mới giấu xác đi để kéo dài thời gian phát hiện vụ án.” Đại Bảo bổ sung.

“Tôi hiểu ý của các cậu.” Chi đội trưởng Lưu nói, “Bây giờ tôi sẽ sắp xếp người đi điều tra người quen của nạn nhân, nhất là những người rời nhà sau khi vụ án được phát hiện.”

Tôi gật đầu nói, “Trước hết cứ đến nhà xác khám nghiệm thi thể đã. Sau khi kết thúc khám nghiệm hiện trường thì phong tỏa lại, chuẩn bị cho công tác khám tra thêm lần nữa.”

Trong lúc ngồi trên xe cảnh sát chạy tới nhà xác, tôi và Đại Bảo đều cúi đầu suy nghĩ.

“Chắc chắn là người quen gây án.” Đại Bảo nói, “Biết được vị trí cái giếng, lại biết sau cửa sổ phòng bếp có giếng, sau khi giết người liền giấu xác đi để kéo dài thời gian phát hiện vụ án, thừa dịp nạn nhân ngủ say mà ra tay, biết tủ đầu giường có hộc bí mật, thậm chí còn biết trước đây không lâu nạn nhân mới nhận được một khoản tiền, đây không phải người quen gây án thì là gì.”

Tôi xoa xoa cái cằm đầy râu, nói: “Chuyện đó không phải vấn đề. Vừa rồi tôi lại nghĩ đến một vấn đề khác.”

Đại Bảo hỏi:“Là gì?”

Tôi nói: “Anh có chú ý thấy TV ở hiện trường vẫn đang bật hay không?”

Đại Bảo gật đầu.

Tôi tiếp: “Rõ ràng không có khả năng hung thủ giết người xong mới bật TV. Kết hợp với việc nạn nhân bị tấn công khi đang nằm trên chiếc ghế đối diện TV, có thể thấy khi còn sống nạn nhân đang nằm xem TV.”

Đại Bảo bổ sung: “Hung thủ có thể cầm hung khí tới gần nạn nhân, chứng tỏ lúc đó nạn nhân đã ngủ say.”

Tôi đáp: “Đúng, đây chính là điểm mấu chốt. Nếu nạn nhân không đóng chặt cửa, chẳng lẽ hung thủ dám vào tấn công người ta khi thấy TV trong nhà còn bật? Vậy cũng quá to gan lớn mật rồi. Nếu là người quen gây án thì hung thủ lại càng không thể mạo hiểm như vậy, nếu cầm hung khí vào cửa mà bị nạn nhân phát hiện thì chạy không thoát được.”

Đại Bảo gật đầu, nói: “Rất có lý, tôi hiểu ý của chú, chú muốn nói hung thủ hẳn là người quen của nạn nhân, hôm xảy ra vụ án đã ngủ lại nhà họ.”

Tôi nhướng lông mày: “Phải, nếu như vậy thì phạm vi điều tra sẽ được thu hẹp rất nhiều, vì chẳng có mấy người có thể ngủ lại ở nhà nạn nhân.”

“Nghe cũng có lý.” Đại Bảo nói, “Cứ thông báo trước như vậy đã, hi vọng có thể giúp đỡ được bên điều tra.”

Không bao lâu sau, chúng tôi lái xe tới được nhà xác thành phố Thanh Hương. Nhà xác thành phố Thanh Hương mới được xây lên, nên phòng giải phẫu pháp y bên trong phải nói là vô cùng hoành tráng. Từ đằng xa đã thấy một tòa nhà hai tầng, trước cửa lóe sáng tấm biển “Phòng giải phẫu pháp y Cục công an thành phố Thanh Hương”. Trong phòng có đầy đủ dụng cụ theo tiêu chuẩn, có hệ thống điều hòa hoàn toàn mới trên nén khí, dưới hút gió, đây là một phòng giải phẫu theo đúng chuẩn, làm việc trong phòng giải phẫu như vậy có thể giảm bớt được phần lớn tổn hại do khí độc từ thi thể tác động lên thân thể khỏe mạnh của bác sỹ pháp y.

Được tiến hành khám nghiệm thi thể trong phòng giải phẫu đạt chuẩn, lại thêm mặt nạ chống độc bảo vệ nên dù hai thi thể trong vụ án này đã phân hủy mạnh, nhưng chúng tôi không bị mùi hôi thối làm ảnh hưởng đến sự cẩn thận tỉ mỉ trong công việc. Hơn nữa trong phòng giải phẫu có hai bàn giải phẫu khác nhau, chúng tôi có thể tiến hành mổ cùng lúc hai thi thể, tiết kiệm được rất nhiều thời gian.

Tôi và Đại Bảo lập thành một tổ, bác sỹ Tôn và đệ tử của anh ấy là một tổ khác, chúng tôi đồng thời tiến hành khám nghiệm hai thi thể.

“Không cần chờ kết quả xét nghiệm máu.” Tôi nói, “Hiện tại chúng ta có thể kết luận cụ ông chết trên ghế nằm, còn cụ bà chết trên giường ở tầng hai.”

Đại Bảo gật đầu, nói: “Đúng vậy, trên đầu cụ ông có vết thương hở, mất một lượng máu lớn. Nhưng trên đầu cụ bà không có vết thương hở, chỉ có xương sọ là có vẻ biến dạng.”

Tôi cẩn thận kiểm tra bề ngoài thi thể từ đầu đến chân theo đúng trình tự, sau đó nói với bác sỹ Tôn: “Toàn thân ông cụ không có tổn thương phần mềm, ngoại trừ khuôn mặt bị máu phủ kín, hẳn là có vết thương hở. Các anh bên kia thế nào?”

Bác sỹ Tôn nói: “Cũng thế, xương sọ biến dạng nhẹ, còn lại không thấy thương tích bề ngoài nào quá rõ ràng.”

“Điều đó càng chứng tỏ nạn nhân bất ngờ bị tấn công khi đang ngủ say.” Tôi tiếp, “Không có tổn thương do chống cự cũng như tổn thương do bị trói buộc, thậm chí mắt cũng chưa mở. Hầy, coi như lúc qua đời cũng không đau đớn.”

Tôi vừa thở dài thương cho đôi vợ chồng già sống đến 70 tuổi mà chẳng được yên ổn ra đi, vừa dùng dao phẫu thuật chầm chậm cạo sạch tóc của ông cụ.

Bác sĩ pháp y đều là tay cạo đầu giỏi, đối với nghề pháp y mà nói, buộc phải dùng kỹ thuật sử dụng dao điêu luyện để loại bỏ sạch tóc của thi thể, phải vừa không làm tổn thương đến da đầu, vừa không để lại tóc. Chỉ có cách loại bỏ sạch sẽ tóc của người chết thì mới có thể để lộ hoàn toàn phần da đầu của họ, nhờ đó có thể quan sát xem da đầu có tổn thương hay không một cách rõ ràng. Những tổn thương này có thể là vết thương dẫn đến cái chết, nhưng cũng có thể chỉ là đôi chút xuất huyết dưới da, nhưng dù là xuất huyết một chút cũng có thể cho thấy tình trạng hoạt động của người đó trước khi chết.

Trên da đầu của cụ ông có 5 vết thương hở, ở vết thương đều thấy rõ góc vuông của hung khí. Khi chúng tôi cắt da đầu ra, phát hiện dưới da đầu bị xuất huyết trên diện rộng, ở bên dưới 3 trong 5 vết thương có vết gãy xương lõm vào. Nhưng độ gãy vỡ không quá nặng, cả 3 nơi gãy xương đều riêng biệt, không liên kết với nhau. Vì xương sọ của ông cụ tương đối dày nên chúng tôi mất công mất sức cả nửa ngày mới cưa được đỉnh đầu ra, thấy toàn bộ tổ chức não đều bị xuất huyết dưới màng nhện, kèm theo đó là mấy chỗ bầm máu não.





Tổn thương trên đầu cụ bà cũng không khác cụ ông, điều duy nhất khác biệt đó là trên da đầu không có vết đánh đè ép gây rạn vỡ bề mặt da, mà thay vào đó là xuất huyết dưới da có tính đặc thù rất rõ.

“Những chỗ xuất huyết dưới da này cơ bản có thể cho chúng ta biết hung thủ sử dụng hung khí nào.” Bác sĩ Tôn chỉ vào chỗ xuất huyết dưới da trên đầu cụ bà.

Tôi ngoái cổ sang nhìn rồi nói: “Haha, xuất huyết dưới da có dạng góc vuông, là vật tày bằng kim loại, trên đầu có cạnh vuông.”

Đại Bảo bổ sung cho thêm cụ thể: “Là búa đầu vuông. Ở hiện trường không thấy có búa đầu vuông, xem ra hung thủ đã mang hung khí đi rồi. Bước tiếp theo phải đi điều tra lục soát thôi.”



“Nhưng,” tôi đột nhiên phát hiện ra điểm đáng ngờ, “Các anh không cảm thấy tổn thương như vậy hơi nhẹ hay sao?”

“Ừm,” bác sỹ Tôn đáp, “Đúng thế. Vật bằng gỗ không thể tạo ra tổn thương như vậy, nhưng so với vật bằng kim loại thì tổn thương nhẹ hơn nhiều. Vết gãy xương sọ cũng rất nhẹ, nếu dùng búa kim loại đánh vào đầu thì chắc chắn tổn thương không nhẹ đến thế, thậm chí còn có thể khiến não bị đập vỡ nát.”

“Có một trường hợp có thể giải thích được nghi vấn này.” Đại Bảo nói, “Hung thủ sức yếu. Là người chưa đến tuổi trưởng thành hoặc phụ nữ gây án.”

Suy đoán của Đại Bảo nghe rất có lý, khiến chúng tôi đều trầm tư suy nghĩ xem liệu suy đoán ấy có thể sử dụng hay không. Im lặng hồi lâu, tôi lên tiếng: “Không có khả năng này, hung thủ là nam thanh niên thân thể khỏe mạnh.”

Dường như Đại Bảo và bác sỹ Tôn đều hiểu suy nghĩ của tôi. Tôi nói tiếp: “Nếu hung thủ là người già yếu, bệnh tật hay phụ nữ thì sao có thể ném một thi thể nặng nề từ cửa sổ phòng bếp cao như vậy? Hơn nữa ở dưới đất cũng không có dấu vết kéo lê, hẳn là thi thể bị khiêng, vác hoặc bế vào phòng bếp. Vậy hung thủ phải là người khỏe mạnh.”

Mọi người đều yên lặng gật đầu, tôi nói tiếp: “Tại sao khi hắn đã quyết định giết người, lại không dùng toàn bộ sức lực để đánh lên đầu nạn nhân?”

Do thi thể bị phân hủy mạnh nên phần mềm đã thay đổi màu sắc, nhiều chỗ bị đổi màu do phân hủy trông chẳng khác gì bị thương. Vì không muốn để lọt bất cứ tổn thương nào nên chúng tôi cần thận cắt từng chỗ đổi màu ra quan sát. Tuy rằng đồng thời tiến hành khám nghiệm hai thi thể, nhưng công tác khám nghiệm tử thi vẫn kéo dài gần bốn tiếng đồng hồ.

Chúng tôi không bị mùi ôi thối xông, nhưng quần áo lại dính đầy mồ hôi. Khi chúng tôi ngồi vào trong xe, anh lái xe nhíu mày nói: “Trước hết về nhà khách tắm rửa thay quần áo đã.”

Rửa mặt xong xuôi cũng đã đến giờ cơm chiều, chúng tôi không kịp cơm nước gì, mang bụng lo lắng chạy đến tổ chuyên án, muốn thu hoạch thêm nhiều tin tức.

Chi đội trưởng Lưu vừa thấy chúng tôi bước vào phòng họp ban chuyên án thì cau mày lắc đầu, nói: “Làm các cậu thất vọng rồi.”

“Sao thế?” Tôi nói.

“Sau khi tiến hành điều tra cẩn thận từ người quen đến họ hàng thân thích của hai cụ nhà họ Chân, toàn bộ đều được loại trừ khả năng gây án.” Anh Lưu chán nản đáp.

Dù đây chẳng phải tin tốt, nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến niềm tin phá được án trong lòng tôi. Tôi nói: “Hay là tra xét lại một chút, xem có sơ hở gì không? Biết đâu có người khai gian để bao che cho hung thủ thì sao?”

“Lúc đầu cậu nói, sở dĩ hung thủ không chọn cách đốt xác, mà quyết định giấu xác đi, khả năng cao nhất là sau khi gây án hung thủ liền chuẩn bị chạy trốn”. Chi đội trưởng Lưu trả lời, “Nhưng chúng tôi đã tra xét những người khả nghi, không có ai bỏ trốn cả. Vậy thì tại sao hung thủ lại muốn kéo dài thời gian phát hiện vụ án?”

“Chúng tôi cũng chỉ suy đoán thôi.” Trong lòng tôi cũng bắt đầu bồn chồn, “Không thể coi đó là tiêu chuẩn để điều tra, nói cho cùng phỏng đoán vẫn không phải căn cứ chính xác.”

Lúc quay lại nhà khách, tôi trăm suy ngàn nghĩ, mãi vẫn không thể sắp xếp lại rõ ràng. Vì thế tôi nhắm mắt, ngừng tư duy, quyết định sáng sớm mai gọi điện xin sư phụ giúp đỡ.

Hôm sau tôi dậy thật sớm, mang theo toàn bộ ảnh chụp hiện trường và quá trình khám nghiệm tử thi, đến Cục công an thành phố tìm máy tính có nối mạng rồi chuyển đống ảnh chụp lên server của tỉnh.

“Sư phụ”, tôi gọi điện thoại cho thầy, “Giúp em xem ảnh chụp với ạ, bên chúng em gặp khó khăn. Chúng em cho rằng hung thủ là người quen ngủ lại nhà nạn nhân. Nhưng điều tra một vòng lại loại trừ hết các khả năng. Ở hiện trường không có dấu vết vật chứng nào có thể xác định kẻ khả nghi phạm tội, chúng em bây giờ không biết phải làm sao.”

“Đây chính là hội chẩn qua mạng trong truyền thuyết đấy hả?” Sư phụ ở đầu bên kia nói, “Để tôi xem trước đã, một giờ nữa gọi lại.”

Tôi biết sư phụ tuy là chuyên gia trong giới pháp y, nhưng về phương diện thao tác máy tính thì cực kỳ gà mờ, thầy có thể xem ảnh chụp nửa giờ là phát hiện ra điểm đột phá trong vụ án, nhưng chờ thầy tải được ảnh về, còn phải mở trên máy tính thì chắc cũng mất luôn nửa giờ.

Trong lúc tâm trạng nôn nóng, thời gian trôi qua vô cùng chậm.

Sư phụ vẫn rất đúng giờ, sau một tiếng đồng hồ, chuông điện thoại vang lên.

“Ngày nào cũng đòi trở thành chuyên gia,” sư phụ nói, “Thế mà vấn đề rõ mồn một lại không phát hiện được hả?”

Lời mở đầu của sư phụ khiến tôi cực kỳ kinh ngạc, nhất thời không biết phải trả lời thế nào.

“Ở hiện trường có một chiếc ghế nằm đúng không?” Sư phụ không để ý đến sự im lặng của tôi, nói tiếp, “Trên ghế nằm có máu đúng không? Chứng tỏ nạn nhân bị tấn công khi đang nằm trên ghế đúng không hả?”

“Cái này em biết, chúng em đều phát hiện được, nhưng không suy ra được vấn đề gì cả.” Tôi nói.

“Đầu tiên, tôi muốn khẳng định suy đoán của các anh, hẳn là người ngủ lại nhà nạn nhân gây án.” Sư phụ tiếp, “Rõ ràng là cụ bà lên gác ngủ, hung thủ ngồi ở ghế dựa cạnh ghế nằm, cùng cụ ông xem TV, đến lúc cụ ông ngủ say thì ra tay.”

“Chúng em cũng đã suy đoán đến điều này.”

“Mấu chốt nằm ở cái ghế kia, nó có thể đung đưa lên xuống đúng không?” Sư phụ nói.

“Đúng vậy,” tôi đáp, “Nó là ghế bành, phía dưới có bệ hình cung, có thể bập bênh.”

“Vậy nếu đó là chiếc ghế có thể đung đưa lên xuống thì hung thủ làm sao nện chết được nạn nhân?” Sư phụ nói tiếp.

Tôi từ từ suy nghĩ. Đúng vậy, chiếc ghế nằm này có thể đung đưa lên xuống, nếu hung thủ trực tiếp tấn công nạn nhân thì đầu nạn nhân sẽ bị đè xuống theo chiếc ghế, đây là một loại giảm lực, không thể dẫn đến tổn thương gãy xương sọ nặng đến vậy. Tôi đột nhiên nhớ tới vết thương trên đầu hai nạn nên đều nhẹ hơn so với tưởng tượng, liền hỏi: “Có khi nào vì ghế đu đưa giảm lực mới khiến cho tổn thương trên đầu nạn nhân nhẹ hơn so với tưởng tượng hay không? Chúng em cho rằng hung thủ là người khỏe mạnh, nhưng tổn thương trên đầu nạn nhân lại không nặng.”

Sư phụ nói: “Anh hiểu sai trọng điểm. Nếu ghế có thể giảm lực thì căn bản không thể đánh gãy xương sọ được. Tổn thương trên đầu nhẹ hơn so với tưởng tượng là vì nguyên nhân khác.”

“Vậy thầy xem tác dụng giảm lực của chiếc ghế nằm này có ích lợi gì cho việc phá án không ạ?”

“Anh nghĩ thử xem, hung thủ không phải kẻ ngốc, dĩ nhiên hắn biết nếu trực tiếp đánh vào đầu của nạn nhân thì chiếc ghế sẽ lay động làm giảm lực, không thể trực tiếp dẫn đến cái chết, vậy hắn sẽ làm thế nào để đạt được mục đích?” Sư phụ hỏi, “Nếu là anh, anh sẽ làm gì?”

Tôi cảm thấy sư phụ nói rất có lý, đặt mình vào vị trí hung thủ để suy nghĩ một lúc, tôi liền đáp: “Nếu là em, em sẽ dùng một bàn tay đỡ lấy phần đầu chiếc ghế, tay còn lại dùng hung khí tấn công nạn nhân.”

“Đúng rồi!” Sư phụ nói, “Nếu hung thủ không đeo găng tay thì ở phía dưới phần đầu ghế nằm sẽ có lưu lại dấu vân tay.”

Tôi tỉnh cả người, hỏi tiếp: “Em hiểu rồi, mục tiêu chủ yếu khi khám nghiệm hiện trường của nhân viên thu thập vật chứng là vật dụng hàng ngày, chứ không chú ý tới mặt dưới của phần đầu chiếc ghế nằm. Em lập tức bảo Lâm Đào quay lại xem sao.”

Sư phụ nói tiếp: “Ngoài ra, các anh đã suy đoán là người quen gây án, nhưng tất cả người quen đều bị loại trừ đúng không?”

Tôi nói: “Đúng ạ, trừ người trong nhà, còn lại đều đã loại trừ.”

“Tại sao không thể là người trong nhà?” Sư phụ hỏi, “Anh cảm thấy trên thế giới này tuyệt đối không có kẻ giết người thân hay sao?”

Tôi vỗ đầu nói: “Đúng thế, vì người nhà của nạn nhân đều không ở gần, hung thủ lại ra tay tàn nhẫn không cho nạn nhân đường sống nên chúng em mới thấy khả năng người trong nhà gây án là rất thấp.”

“Tin vào bản thân.” Sư phụ thấy tôi tìm ra đầu mối liền cổ vũ, “Tự mình suy nghĩ kỹ một chút.”

Cúp điện thoại xong, tôi nhờ Lâm Đào đến hiện trường khám xét lại lần nữa, còn bản thân thì ở trong nhà khách, nằm trên giường, để từng mảnh nhỏ trong đầu chắp ghép lại với nhau thành tình huống ban đầu của vụ án. Biết trong nhà có một giếng cổ rất sâu, biết trong tủ có hộc ẩn, biết quy luật thời gian con trai nạn nhân gửi tiền về cho cha mẹ, những chuyện này quả thực chỉ có người trong nhà mới nắm được. Trước đây do nhìn thấy hiện trường vô cùng thảm khốc mà tôi không dám liên tưởng đến chuyện người thân của nạn nhân gây án, bây giờ xem lại, trước khi vụ án xảy ra nạn nhân đã lên thị trấn mua nhiều đồ ăn như thế, thậm chí không chỉ ăn trong một bữa mà còn cất giữ trong tủ lạnh, chẳng phải chính là chứng minh người thân mà họ rất yêu quý muốn về ăn cơm hay sao? Hung thủ ban đầu muốn đốt xác, nhưng sau đó lại thay đổi ý định, chẳng phải chính là bởi hung thủ không nỡ phá hủy tài sản về sau có khả năng thuộc về mình hay sao? Hung thủ cố ý kéo dài thời gian phát hiện vụ án, tranh thủ trốn thoát, chẳng phải chính là vì hắn căn bản cũng không thường ở lại địa phương này hay sao? Hung thủ thân thể khỏe mạnh, thời điểm tấn công nạn nhân lại ra tay không dứt khoát, chẳng phải do hắn không đành lòng ra tay tàn độc hay sao?

Nhiều manh mối chầm chậm xâu chuỗi lại với nhau, tôi nằm trên giường bật dậy, lái xe cảnh sát đến Cục công an thành phố.

“Đi thăm dò người thân của nạn nhân, con trai, con gái, con rể và cháu ngoại.” Tôi bước vào cửa phòng họp tổ chuyên án, câu đầu tiên đã đi thẳng vào vấn đề, “Nhất là cậu cháu ngoại.”

Chi đội trưởng Lưu hơi sửng sốt, nói: “Bọn họ đều không ở địa phương, dân trong thôn cũng không nhắc đến chuyện gần đây họ có về nhà.”

“Nhà họ Chân ở ngay đầu thôn, nếu hung thủ về vào buổi tối, trong đêm gây án rồi trốn thoát luôn thì quả thật người trong thôn không thể biết hắn đã từng trở về.” Tôi nói, “Hiện tại tôi có căn cứ đầy đủ để suy đoán rất có thể hung thủ là người thân trực hệ của nạn nhân.”

“Có phát hiện!” Tôi chưa nói xong, Lâm Đào đã xông vào phòng họp ban chuyên án nói, “Không ngoài dự đoán, dưới ghế nằm phát hiện được một dấu vân tay bụi bặm.”

“Tốt!” Chi đội trưởng Lưu cảm thấy hứng thủ với phát hiện của Lâm Đào, phát hiện này có thể là chứng cứ liên quan trực tiếp đến vụ án, cũng là cho tổ chuyên án một liều thuốc trợ tim. Có chứng cứ hiện trường đắc lực, có phương hướng điều tra mới rõ ràng, toàn bộ tổ chuyên án dường như lại hào hứng hẳn lên. Rất nhanh chóng, mười điều tra viên phân làm ba tổ, chia nhau đi đến ba địa phương nơi người thân của nạn nhân đang sinh sống để triển khai công tác, còn chúng tôi mỗi ngày đều đắm mình ở hiện trường, muốn tìm thêm nhiều manh mối và chứng cứ.

Công tác của chúng tôi không bị trì hoãn đến vài ngày, bởi tổ công tác xuất phát điều tra, chỉ sau một ngày đã có tin vui gửi về.

Cháu ngoại của ông bà cụ Chân tên là Đào Lương, học năm thứ hai ở một trường đại học trên tỉnh. Đào Lương vốn là người học hành giỏi giang, nhưng sau khi có bạn gái thì dường như đã thay đổi thành một người khác. Có thể bởi gia cảnh nghèo khó, hắn lợi dụng thời gian lên lớp để ra ngoài làm thuê, kiếm tiền trả cho căn phòng trọ hắn thuê cùng bạn gái ở ngoài trường. Vì trốn học quá nhiều, thành tích học tập của hắn cũng xuống dốc không phanh, điều này làm cho giáo viên hướng dẫn rất lo lắng. Hai tuần trước khi vụ án xảy ra, lúc Đào Lương cùng bạn bè uống rượu từng nói rằng bạn gái hắn muốn có nhẫn kim cương. Một chiếc nhẫn kim cương ít nhất cũng phải mấy ngàn tệ, hắn vì không có nhiều tiền như thế, lại lo bạn gái sẽ lấy cớ ấy mà chia tay nên vô cùng chán nản.

Điểm đột phá của vụ án này là: qua điều tra xung quanh, điều tra viên phát hiện bạn gái của Đào Lương đang đeo một chiếc nhẫn kim cương sáng lóa.

“Bắt người đi.” Chi đội trưởng Lưu thấp giọng nói, “Trước tiên phải lấy dấu vân tay.”

Sáng sớm hôm sau, tôi thấy Đào Lương ngồi trong phòng thẩm vấn của Cục công an thành phố, nước mắt giàn giụa. Khi cảnh sát còng tay hắn, trong nháy mắt tinh thần của Đào Lương liền sụp đổ, nghe nói hắn kêu khóc náo loạn cả một buổi tối, sau khi bị mang về phòng thẩm vấn mới từ từ khôi phục thần chí. Theo lời khai của Đào Lương, ngày hôm đó hắn gọi điện báo cho ông bà ngoại biết hắn sẽ về thăm. Buổi tối sau khi cơm nước xong, hắn thừa dịp ông bà ngoại ngủ say liền ra tay giết hại họ, sau đó ném thi thể xuống giếng cổ, ngay sáng sớm ngày hôm sau đón xe lên tỉnh. Nguyên nhân giết người là vì 5000 tệ nằm ở hộc ẩn trong tủ đầu giường.>
Vốn dĩ Đại Bảo tưởng rằng sau khi phá được vụ án đầu tiên từ khi lên Sở sẽ có cảm giác vô cùng thành công, nhưng trên đường chúng tôi trở về tỉnh, anh ấy vẫn im lặng không nói gì. Tôi cũng giống anh, trong lòng nặng trĩu. Đào Lương dám sát hại bà ngoại đã chăm lo cho hắn từng miếng ăn giấc ngủ từ tấm bé, giết luôn cả ông ngoại luôn coi hắn là bảo bối máu mủ ruột già, chỉ vì vỏn vẹn 5000 tệ, vì một chiếc nhẫn kim cương, vì cái thứ được gọi là “Tình Yêu” kia.

Vụ án đã hết. Kính mời bạn kéo xuống dưới để đọc chú thich và nhận quà;Mời các bạn nghiên cứu bộ phim hoạt hình đã làm mưa làm gió trong giới sinh viên mẫu giáo – “Cừu Vui Vẻ và Sói Xám”, đây là bộ phim về dòng tộc nhà Sói cả đời chưa được ăn miếng thịt nào, ngoài ăn bột mì với rau thì chính là ăn đòn Phim này hay lắm.ỉnh của Trung Quốc rất lớn, trong tỉnh có nhiều thành phố và huyện trực thuộc, trong đó thủ phủ của tỉnh là thành phố quan trọng nhất, đặt các cơ quan hành chính cao cấp nhất của tỉnh. Khác với ở Việt Nam, thường thì mỗi tỉnh ở Việt Nam chỉ có một thành phố, thành phố này chính là thủ phủ.

Như vậy, tại Trung Quốc, cơ quan pháp y của tỉnh được đặt tại thủ phủ, những cơ quan pháp y ở các thành phố khác trong tỉnh là cơ quan cấp dưới.;1000 tệ = khoảng 3.500.000 Việt Nam đồng.