Phá Quán Tử Phá Suất

Quyển 1 - Chương 3: Diệu biện cơ phong

Dân không sợ chết, vậy lấy cái chết ra hù dọa có ích gì? Cùng lắm thì giết là xong, dù sao cũng xúi quẩy lắm rồi, giết lão tử đi, lão tử xuyên tiếp, lần tới xuyên thành cha ngươi luôn.

A Đẩu nghĩ tới nghĩ lui, rốt cuộc trấn định, ngẩng đầu nhìn chằm chằm Khổng Minh, cả gan nói: “Tiên sinh nói…nói gì?”

Trong lúc nói không kềm được run lẩy bẩy, chỉ thấy hai mắt Gia Cát Lượng trong suốt, đầu mày khẽ cau, dường như phát hiện ra chuyện bất hợp lý, tầm mắt A Đẩu và Khổng Minh vừa chạm nhau, lập tức không cách nào dời đi, cảm thấy trong đôi hắc mâu kia có một cổ lực hút, khiến não mình đần đần độn độn, lẩm bẩm nói: “Ta là ai?”

“Ngươi từ nơi nào đến?” Khổng Minh chậm rãi hỏi, giọng nói như mang theo yêu lực thôi miên.

“Ta từ…” Ánh mắt A Đẩu mơ màng.

Phải biết rằng lúc bé Gia Cát Khổng Minh từng tòng sư Trương Đạo Lăng, học được một thân đạo thuật, Trương Đạo Lăng chính là giáo tổ Thiên Sư giáo, nếu truy ngược nguồn gốc đạo pháp thì Trương Giác đạo Thái Bình, Vu Cát Đông Ngô đều thoát không khỏi liên hệ với Thiên Sư giáo này. Nay Khổng Minh vừa nhìn thấy A Đẩu, phát hiện dị trạng, bèn âm thầm thêm vào lời nói vài phần chân pháp Đạo gia, tức khắc ếm trụ hắn.

Nhưng nói chung chuyện thế gian vô thường, Ngụy Diên cũng có lúc hấp ta hấp tấp vọt vào quân trướng, đạp đổ một trản đèn dầu lớn, chỉ có thể nói Gia Cát Khổng Minh vừa dùng kế liền gặp xui.

Trước khi tới A Đẩu đã ăn như hổ đói, nhét đầy một bụng bánh đậu xanh, thứ đó vào bụng trướng đến khó chịu, bèn ợ một cái.

Tiếng “Ợ” đó đúng vang dội, khiến hắn giật mình toàn thân, tỉnh táo lại, Khổng Minh ngàn tính vạn tính cũng tính không ra tiếng ợ này, thình lình sợ hết hồn, chưa kịp hồi thần, trong mắt A Đẩu đã khôi phục lại thần sắc trong trẻo, cười nói: “Ta đến từ nơi cần đến*” [*‘đến từ nơi cần đến, đi về nơi phải đi’, ý muốn nói bất kỳ thời điểm nào cũng phải nhớ rõ bản thân mình là ai, đến từ đâu, không để sự hả hê nhất thời làm mê muội đầu óc]

A Đẩu hỏi ngược lại: “Còn tiên sinh từ đâu đến?”

Lần này đến lượt Khổng Minh bị ếm trụ, “Ta đến từ nơi cần đến” chính là đáp án đúng đắn duy nhất trong kệ ngữ Phật gia suốt mấy ngàn năm qua. A Đẩu vừa trả lời xong, Khổng Minh không thể rập khuôn mà đáp trả giống hắn được, phải cho ra một đáp án mới, dù ngươi có là quân sư vô địch một đời, cũng vắt óc không ra, cuối cùng đáp trả thô bỉ: “Ta từ bụng mẹ chui ra”

Sư đồ hai người đứng nhìn nhau nửa ngày, A Đẩu khúc khích cười mấy tiếng, kiệt lực giả trang một bộ dáng vô hại đối với cả người lẫn vật, hỏi: “Tiên sinh gọi ta tới làm gì? A Đẩu mới từ chỗ di nương tới”

A Đẩu phảng phất thấy được trên đầu Khổng Minh túa ra thật nhiều hắc tuyến loạn thất bát tao, quấn thành một cục, chính giữa lại có vô số dấu chấm hỏi nhấp nhô nhấp nhô. Lát sau, bóng đèn trên đỉnh đầu Khổng Minh ‘đinh’ sáng choang, nói: “Tối qua ngươi làm gì vậy?”

A Đẩu cười thầm trong lòng, thuật lại câu chuyện xạo dùng sàng đan nhảy dây, sẵn tiện thêu dệt thêm cho hết sức sinh động, Khổng Minh tỏ vẻ mượn gió bẻ măng, dụng ý không nằm ở đây, nhất thời thần trí bất định, không biết là đang muốn tìm câu gì đó để hỏi ngược lại, hay đang nghĩ sao hôm nay A Đẩu khác với dĩ vãng quá, bèn nói: “Sách giao cho ngươi hôm qua đã đọc chưa?”

Nhãn châu A Đẩu xoay chuyển vài vòng, mỉm cười hỏi vặn lại: “Sách? Quên rồi”

Khổng Minh vốn không có giao cho Lưu Thiện bất kỳ quyển sách nào, lời này nhằm mục đích thăm dò, nào ngờ A Đẩu giả khéo đưa đẩy vô cùng, hai chữ “Quên rồi” vừa có thể hiểu thành “Quên sách” lại vừa có thể lý giải thành “Quên đọc”, Khổng Minh cảm thấy hôm nay cái đống bùn nhão này thay đổi tác phong so với dĩ vãng nhiều quá, giống như đại trí giả ngu, đang muốn hỏi thêm câu gì đó thì thấy Khương Duy lau bàn ghế lan can xong, lo Lưu Thiện bị mắng, bèn sợ bóng sợ gió mà tiến vào.

Khổng Minh đành phải nói: “Thôi, gần đây vi sư bề bộn chính sự, kể từ ngày mai ngươi và Bá Ước không cần tới đây nghe giảng nữa, đợi ta rảnh sẽ sai người gọi ngươi sau, đi đi”

Đến đây A Đẩu mới thở phào nhẹ nhõm, thế nhưng vẻ mặt này đã bị Khổng Minh thu vào đáy mắt, đang định gọi Khương Duy rời đi thì Khổng Minh lại nói: “Khoan”

A Đẩu thầm rùng mình, chỉ nghe Khổng Minh hỏi: “Sao cả người đầm đìa mồ hôi thế?”

A Đẩu hít một hơi, xoay người qua lần nữa, đáp: “A, tiên sinh, vừa rồi nhìn vào ánh mắt người, ta nhớ tới một người, không, thấy được một người”

Khổng Minh lộ ra một nụ cười pha chút thâm ý, bảo: “Cứ nói đừng ngại”

A Đẩu vô cùng thành khẩn nói: “Ánh mắt của tiên sinh thật sáng, ta nhìn thấy bóng người, vốn cho rằng đó là ta, lúc ẩn lúc hiện không chân thật, cẩn thận nhìn lại, đột nhiên thấy được mẫu thân đã chết đang cười với ta…”

Lời này vừa thốt, ngay cả Khổng Minh cũng nhịn không được mà rùng mình một cái, khóe miệng hơi co giật, vội vung quạt đuổi A Đẩu và Khương Duy đi.

Rời khỏi phòng quân cơ, A Đẩu chợt thấy một thị tỳ bê mâm gỗ chầm chậm từ trước đình đi qua, dường như trên mâm là nước canh, bèn gọi nàng lại, hỏi: “Ngươi đi đâu đấy?”

Thoạt đầu thị tỳ kia không để ý, đi thẳng một mạch, Khương Duy nhướng mày nói: “Lớn mật!” Thị tỳ kia hết cách đành phải dừng bước, đáp: “Thuốc quân sư sao cho chủ mẫu”

A Đẩu nghi hoặc hỏi: “Thuốc?”

Sắc mặt thị tỳ kia có vẻ do dự, nói: “Chủ mẫu không quen…khí hậu…”

Khương Duy kéo tay A Đẩu, nói: “Bỏ đi, không cần chấp nhặt cùng hạ nhân” Thị tỳ kia mới hậm hực bỏ đi.

Mặt trời dần ngã về tây, Khương Duy còn đang luyện võ, dù A Đẩu không chịu cũng hết cách, đành phải trở về phòng nghỉ ngơi.

Kinh Châu vốn oi bức, trong phòng bị nắng chiều hấp đến nóng như lò sắt, thời đại này một không điều hòa hai không quạt điện, A Đẩu thật ngồi không yên. Chẳng phải mình là thái tử sao, kêu người tới quạt chắc được, bèn triệu thị tỳ. Một tiếng rồi hai tiếng, kêu đến độ muốn đạp bàn đập ghế, nhịn không được ló đầu ra ngoài cửa sổ, thấy hai thị nữ đang ngồi trước hiên, không biết đang dệt cái gì.

“Tới hầu bản thiếu gia…Bản thái tử…” A Đẩu nghĩ rồi lại nghĩ, cũng không biết phải tự xưng thế nào, nói: “Tới quạt cho ta! Nóng gần chết rồi! Còn muốn để cho người ta sống không vậy!”  

A Đẩu ngồi bên tháp, thị nữ cũng là quạt một cái ngừng ba cái. Hắn liếc thì nàng liền tiếp tục quạt, không liếc lại bắt đầu giở thói lười biếng, nửa ngày cũng chả có động tĩnh. A Đẩu nhịn một bụng nộ hỏa, một phen giật quạt lông ra sức quạt cho mình, nói: “Bỏ đi bỏ đi, ăn cơm thôi, giữa trưa chỉ húp miếng cháo, bụng lão tử sôi sùng sục rồi”

Thị nữ nhìn A Đẩu như kẻ xa lạ, bật cười nói: “Chưa đến giờ Tuất không thể ăn cơm, tiểu chủ công đói đến váng đầu rồi à?!”

“Cái gì?!” A Đẩu phát điên nói: “Ai lập ra cái quy tắc này đấy? Bảy giờ tối mới được ăn cơm sao?!!”

Sau khi nghe thị nữ kia giải thích xong, A Đẩu mới biết, trước giờ Lưu Bị sống tiết kiệm, đêm hè giờ Tuất mới được thắp đèn ăn cơm, ngoại trừ Tôn Thượng Hương từ Đông Ngô gả qua thì trù phòng của Kinh Châu Mục phủ không được nấu riêng cho bất kỳ kẻ nào, mỗi bữa cơm đều phải làm thống nhất, rồi phân đến các phòng.

Đám người Gia Cát Lượng, Trương Phi, Quan Vũ và Lưu Bị tình như thủ túc, cơm canh đạm bạc đều ăn cùng một chỗ. Còn việc ăn uống của Tôn Thượng Hương thì không dám sơ suất, trù phòng tăng thêm vài món ăn vài món canh, bưng thực hạp đi hầu hạ, nếu để công chúa bảo bối của Đông Ngô xanh xao vàng vọt, chỉ sợ lưỡng quốc sẽ gặp họa binh đao.

“…”

A Đẩu khóc không ra nước mắt, đem quạt ném mạnh một cái, ý niệm duy nhất trong đầu chính là: con *beep* nó lão già tiện nghi bán giày cỏ[*thời niên thiếu Lưu Bị vì nghèo khổ mà phải mở hàng bán giày cỏ]

Ban đầu Triệu Vân làm đại tướng dưới trướng Công Tôn Toản, mười bảy tuổi đã thành hôn, sinh được hai đứa con trai; sau thê tử y bệnh qua đời, bèn nương tựa Lưu Bị. Đại hảo nam nhi một thân một mình tòng quân, vô pháp trông nom hai đứa nhỏ, đành phải để trưởng tử Triệu Thống bảy tuổi dắt đệ đệ bốn tuổi Triệu Quảng đi theo dịch sứ trở về nhà cậu ruột.

Trong mắt các gia tộc quan lại Kinh Châu, chàng trai góa vợ trẻ trung hai mươi mấy tuổi này đương nhiên là người tốt nhất để chọn làm con rể, nhưng Triệu Vân lại không có chút ý muốn tục huyền, chỉ mang theo đồ đệ Khương Duy sống qua ngày.

Chạng vạng dạy võ kỹ xong, sư đồ hai người liền trở về chỗ ở_____một gian dân trạch ngoài Châu Mục phủ. Khương Duy vào gian trong làm cơm tối, Triệu Vân nhặt cây cào cỏ, thêm một ít cỏ khô vào trong chuồng ngựa, một tay vuốt trán ngựa, mỉm cười nói:

“Cả ngày chôn chân trong viện, sắp chạy hết nổi rồi”

“Tuổi già chí càng cao, chí tại thiên lý; sư phụ còn chưa đến lúc xế chiều, cớ sao thốt ra lời cảm khái tiêu cực như vậy” Ngữ điệu mang theo chút trêu chọc từ sau lưng truyền tới.

Triệu Vân dở khóc dở cười, xoay người lại nói: “Sao lại tới đây?!”

Vào viện chính là A Đẩu, Triệu Vân nhìn chằm chằm A Đẩu chốc lát, cảm thấy sau đêm qua, A Đẩu của hôm nay hoàn toàn khác hẳn đi, nhưng bộ dáng này, lại hoàn toàn là A Đẩu mà mình quen thuộc.

A Đẩu thu lại nét cười giảo hoạt trong mắt, giả trang bộ dáng tội nghiệp, nói: “Ta đói bụng rồi, trong phủ không dọn cơm, tới ăn chực nhà sư phụ đây”

Triệu Vân buồn cười, đành phải để Lưu Thiện vào gian trong, rồi bảo Khương Duy làm thêm món.

Triệu Vân thân là Nha môn tướng quân, vậy mà nơi ở không có lấy một người hầu, hết thảy đều tự thân tự lực, còn Khương Duy chính là người kế thừa của Gia Cát Lượng, hai sư đồ chen chúc trong căn dân trạch đổ nát này, trong dân trạch ánh sáng lờ mờ, mãi cho đến lúc trời chiều xuống núi, Triệu Vân mới thắp đèn dầu, A Đẩu thấy mà xót xa, nhưng Khương Duy lại rất cao hứng phấn chấn bưng cơm tối lên, nói:

“Sao ngươi tới đây, ai cũng bảo cơm nước trong phủ phong phú, có món ngon không chịu ăn, chạy tới chỗ ta…”

“Đừng nhắc tới nữa” A Đẩu rên rỉ nói: “Cái phủ đó quả thật không phải để cho người ở”

Triệu Vân mới châm một chung rượu nhỏ đưa tới bên môi, vừa nghe lời này nhém chút bị sặc: “Chủ công khai phá cơ nghiệp cũng chẳng dễ dàng gì, ngươi không thông cảm thì thôi chứ, nào có đạo lý đi nói những lời này với người ngoài?”

A Đẩu cãi: “Sư phụ và Bá Ước đâu phải người ngoài, ta bị nha hoàn hạ nhân khi dễ mà còn không cho nói nữa hả?”

Triệu Vân đầu Lưu Bị cũng đã nhiều năm, sớm biết hạ nhân trong Châu Mục phủ đều xem thường A Đẩu, bèn một tay vuốt vuốt trán A Đẩu, nói: “Đừng nghĩ tới nữa, ăn thôi”

Trên bàn bày vài đĩa thức ăn đủ mùi đủ vị, cà xào dầu, thịt khô xào rau non, còn có một bát sứ đựng ếch xào ớt xanh, thịt ếch non mềm, như bạch ngọc được ớt xanh vây quanh chiết xạ ánh sáng lóng lánh của mỹ vị, A Đẩu nhìn mà thèm nhỏ dãi, bèn quăng phiền muộn ra ngoài chín tầng mây, vươn đũa ăn ngấu nghiến, thỉnh thoảng nói nói cười cười với Khương Duy, bới hai chén cơm lớn nuốt vào bụng.

Sau khi ăn xong A Đẩu và Khương Duy dọn dẹp chén đũa, cùng ngồi xổm trên mặt đất, lấy cái chậu gỗ rửa chén, Khương Duy nhỏ giọng nói: “Người trong phủ bắt nạt ngươi hả? Ta sẽ mách quân sư”

A Đẩu chợt nghĩ ra, cười nói: “Quên đi, chẳng phải chuyện lớn lao gì, hiện tại không phải đã có ngươi và sư phụ rồi đó sao”

Khương Duy thấy tay áo A Đẩu dính chút nước, bèn đưa tay xoắn xoắn lên cho hắn, hai thiếu niên đều mi thanh mục tú như nhau, dáng như mỹ ngọc, hai gương mặt tuấn tú kề thật sát, giữa lúc hô hấp giao thoa, loáng thoáng có thể thấy lớp lông tơ trên môi Khương Duy; A Đẩu kìm lòng không đậu mà rung động, nhìn lại song mâu Khương Duy, mục quang hai bên đều tựa thủy, chỉ muốn sáp lại gần hôn một cái.

Chợt nghe Triệu Vân ở gian kế bên gọi: “Công Tự”

“Gọi ngươi kìa” Mặt Khương Duy ửng đỏ, nói: “Ngươi đi đi, để ta rửa” Liền vùi đầu xuống.

A Đẩu đứng dậy nhu nhu huyệt thái dương, vẫn còn hơi choáng, bước thong thả đến phòng Triệu Vân, tự ngồi lên ghế trúc, nghiêng đầu ngắm nhìn dung mạo anh tuấn của Triệu Vân, thấy Triệu Vân thả quyển sách trong tay xuống, nói: “Quân sư dặn ngươi và Bá Ước không cần đi nghe giảng nữa à?”

A Đẩu cười nói: “Ừm, không có bảo mấy ngày, chừng nào hết bận sẽ sai người đến thông báo sau”

Triệu Vân trầm ngâm chốc lát, nói: “Ngươi có biết sư phụ đang nghĩ gì không?”

A Đẩu chỉ thuận miệng hồi đáp một câu, không hề nghĩ chuyện đó có gì kỳ quái, lúc này được Triệu Vân nhắc nhở, mới nghiêm túc suy tính, Gia Cát Lượng sẽ không vô duyên vô cớ ngừng khóa, đáng lý ra Triệu Vân phải hỏi thời gian ngừng khóa mới đúng, có lẽ Khổng Minh đã an bài một kế hoạch nào đó, khi không có thời gian chú ý tới hắn, bèn ngừng khóa kéo dài thời gian.

Vừa nghĩ thông suốt mấu chốt vấn đề, bèn hỏi ngược lại, “Cha ta muốn xuất binh sao? Nên quân sư bận quá mới cho ngừng khóa?”

Triệu Vân mỉm cười: “Sao bỗng dưng ngươi thông minh ra không ít vậy? Bộ dáng mọt ăn trước kia chỉ là giả bộ thôi à? Sao hôm nay không giả bộ nữa?”

Không đợi A Đẩu xấu hổ bịa đặt vài câu, Triệu Vân đã nói: “Lần này chủ công tiến quân Hán Trung, ngay cả quân sư cũng không nắm chắc được bao lâu mới có thể giành trọn công lao sự nghiệp…”

Trong lòng A Đẩu khẽ động, hỏi: “Bàng Thống, cái người Phượng Sồ kia cũng đi ư?” [*Phượng Sồ là đạo hiệu của Bàng Thống]

Bị hỏi câu này, Triệu Vân hơi ngoài ý muốn, y nói: “Chuyện này phải xem chủ công và quân sư an bài, sao hỏi vậy?”

Sắc mặt A Đẩu do dự, lắc lắc đầu, nhớ tới chuyện Bàng Thống trúng tên trong Lạc Thành, Lưu Bị phạt Hán Trung, chọn tuyến đường Ích Châu, lại thừa cơ chiếm Xuyên Thục, Bàng Thống bất hạnh bỏ mình trong cuộc chiến này.

Phượng Sồ nổi danh ngang Ngọa Long, nếu bản thân muốn sống yên phận trong thời loạn thế, không nói tới tranh bá thiên hạ, ít nhất cũng đừng như An Lạc Công bị giam lỏng, thì không thể thiếu người này phụ trợ.

Nhưng phải làm sao để bảo toàn tính mệnh Bàng Thống, quả thật là một nan đề, A Đẩu vẫn còn chìm trong suy tư thì Triệu Vân đã xoay người qua, dùng bàn tay ấm áp phủ lên tay A Đẩu, nói: “Hiện giờ vẫn chưa rõ sư phụ sẽ ở lại Kinh Châu, hay theo quân xuất chinh, Công Tự, ngươi là một hài tử tốt”

A Đẩu cười nói: “Đương nhiên rồi”

Triệu Vân nhìn sâu vào đôi mắt hắn, mỉm cười nói: “Thế gian phỉ báng ta, ức hiếp ta, nhục mạ ta, cười ta, khinh ta, ghét ta, lừa ta, ta phải trừng trị thế nào?”

Thần sắc ẩn chứa trong ánh mắt y tựa vầng dương ban mai ấm áp, khiến trong lòng A Đẩu không tự chủ nảy sinh một tia ôn tình, đang muốn hỏi thì Triệu Vân đã cười nói: “Trở về đi, kẻo người ta không thấy tiểu chủ công lại cuống cuồng tìm kiếm”