Tại hiện trường vụ án trong ngôi nhà của gia đình Romaine, thám tử Robert Roseman gần như kiểm tra mọi ngóc ngách, cố gắng không bỏ sót bất kỳ bằng chứng nào liên quan tới hung thủ dù là nhỏ nhất. Hung thủ đã lấy đi rất nhiều thứ giá trị và để lại vết chân dính đầy máu trên sàn, nhiều đoạn dây dùng để trói tay chân các nạn nhân và một cuộn băng dính có dính một vài sợi tóc.
Dọc theo con đường từ nhà Romaine đến điểm đón xe, cảnh sát tìm thấy một con dao dính máu, một khẩu súng cỡ nòng 0.32 bị vứt lại trong bụi cây ven đường. Những người trong gia đình Romaine nhận ra đó là khẩu súng kẻ lạ mặt dùng để khống chế họ.
Thời điểm hung thủ vừa bỏ đi, tại một nơi cách không xa ngôi nhà của gia đình Romaine, một người phụ nữ khi đang đi dạo đã nhìn thấy một người đàn ông và một cậu bé chạy xuống dưới ngọn đồi, dáng vẻ vội vã. Người đàn ông cởi chiếc áo của mình vứt xuống đất, trên chiếc áo có dính máu. Sau khi biết thông tin về vụ đột nhập, cô đã liên hệ báo với cảnh sát vì cho rằng hai người này chính là hung thủ.
Rất nhiều bằng chứng liên quan được tìm thấy tại hiện trường, nhưng cảnh sát vẫn chưa thể tìm ra hung thủ. Lật giở hồ sơ của những vụ án tương tự thời gian gần đây, cảnh sát nhận thấy hai người này rất có thể cũng là hung thủ của các vụ trộm cắp trước đó, miêu tả của những người trong gia đình Romaine về hung thủ giống với miêu tả hai kẻ đã từng phạm tội ở New Jersey, Maryland và một vài thị trấn ở Pennsylvania.
Chiếc áo có mùi đặc biệt
Con dao và khẩu súng tìm được không đủ thông tin để có thể tìm ra chủ nhân của nó. Lúc này, chỉ còn lại chiếc áo sơ mi mà hung thủ vứt lại. Kiểm tra chiếc áo, cảnh sát tìm thấy nhãn sản xuất ở Philadelphia, trong túi có tờ giấy ghi địa chỉ một tiệm giặt là.
Sau khi xác minh tờ giấy ghi địa chỉ tiệm giặt, cảnh sát biết được chủ nhân chiếc áo là Kalinger. Nhưng cái tên này không có trong hồ sơ quản lý của cảnh sát Philadelohia và New York.
Thám tử Roseman quyết định điều tra theo thông tin có được từ nhãn mác của chiếc áo. Roseman mang chiếc áo tới Philadelphia, sau một thời gian tìm hiểu, anh phát hiện công ty sản xuất loại áo này chỉ phân phối cho cửa hàng Berg Brothers.
Roseman hi vọng nhân viên bán hàng tại cửa hàng Berg Brothers có thể giúp anh cung cấp thông tin về một người đàn ông da ngăm đen, có mùi khó chịu như mô tả của nạn nhân trong danh sách khách hàng. Tuy nhiên, Roseman đã thất bại..
Xác định chiếc áo được mua ở đấy, Roseman nghĩ chủ nhân của nó sống tại đây hoặc vùng lân cận. Anh đã dành nhiều thời gian để tìm cái tên Kalinger trong cuốn danh bạ điện thoại, Roseman gọi điện cho cảnh sát trong khu vực để xác định lại thông tin về Kalinger trong hồ sơ quản lý của họ. Anh phát hiện ra một điều thú vị rằng, trong hồ sơ có một nghi phạm tên là Kallinger, không phải Kalinger.
Với cái tên mới này, Roseman đã đến cửa hàng giặt và đưa ra bức ảnh của nghi phạm. Chủ cửa hàng xác nhận đây chính là vị khách của mình. Ông cũng nhận ra mùi khó chịu từ chiếc áo được mang tới. Đó là mùi hóa chất được sử dụng trong việc đóng giày. Ông cho biết người đàn ông đã mang chiếc áo đến sống ở Kensington, phía đông bắc Philadelphia. Kallinger có một cửa hàng đóng giày dép tại đây.
Nghi phạm sa lưới
Sau khi lấy thông tin từ phía người chủ tiệm giặt là, cảnh sát đã ngay lập tức đến nhà Kallinger. Hàng xóm xung quanh xác nhận Kallinger có rất nhiều những đặc điểm ngoại hình như miêu tả của các nạn nhân. Cậu bé đi cùng hắn trong các vụ án là một trong hai cậu con trai còn ít tuổi. Lúc này, cảnh sát gần như chắc chắn Kallinger là hung thủ mà họ đang truy lùng.
Kallinger có hai vợ và bảy người con. Hiện tại, nghi phạm này đang sống với người vợ thứ hai cùng năm cậu con trai nhỏ. Cảnh sát địa phương cho biết Kallinger từng bị buộc tội liên lạm dụng trẻ em và có lần phải ra tòa. Tuy nhiên, hắn được chuẩn đoán rối loạn thần kinh, mất trí nhớ tạm thời, dấu hiện của bệnh tâm thần phân liệt nên thoát án và được cảnh sát địa phương giám sát.
Đúng lúc này, theo thông tin từ cảnh sát Philadelphia, hai cha con nhà Killinger rất có thể cũng là hung thủ đã đột nhập vào một gia đình ở Susquehanna vào ngày 12/3/2974, khống chế, làm bị thương bốn người phụ nữ có mặt tại nhà, lấy đi 20.000 USD tiền mặt và đồ trang sức...
Cuối cùng, cảnh sát đã có đủ bằng chứng để khởi tố vụ án. Joseph Kallinger và cậu con trai 12 tuổi bị bắt ngay tại nhà.
Khi cảnh sát đến, Killinger tỏ ra rất bình tĩnh, gọi điện cho luật sư của mình. Hắn nói với cảnh sát sẽ không cung cấp bất kỳ thông tin gì cho đến khi luật sư của hắn đến. Điều duy nhất hắn nói đó là hắn vô tội.
Elizabeth, vợ Kallinger không tin vào những thông tin cảnh sát cung cấp. Bà cho rằng đã quá nhiều bi kịch xảy đến với gia đình bà: con trai vừa mất một năm trước, em gái cũng mất không lâu sau đó vì bệnh tật, mẹ đẻ hiện đang phải phẫu thuật, và bây giờ là chồng và con đối diện với pháp luật. Không chỉ có vợ của Kallinger, những người hàng xóm xung quanh cũng chung nhận xét này. Tất cả đều khẳng định có lẽ đã có sự nhầm lẫn gì đó bởi Kallinger không thể là kẻ giết người.
Những bằng chứng không thể chối cãi
Cảnh sát đã lục soát nhà Kallinger và nhà mẹ đẻ của hắn ngay bên cạnh. Họ thu được nhiều đồ có giá trị, trong đó có cả những đồ trang sức được thông báo mất cắp trong một số vụ trộm cắp gần đây. Ngoài ra, dấu vân tay của cả hai cha con trùng với những dấu vân tay được tìm thấy tại hiện trường một số vụ án. Một điều trùng hợp, những vụ án có liên quan đến cha con nhà Kallinger đều xảy ra vào những hôm cậu bé nghỉ học. Khi các nhân viên điều tra hỏi cậu bé đã làm gì vào những ngày nghỉ học. Cậu bé đã không trả lời được. Đây chính là bằng chứng buộc tội cha con Kallinger.
Quá trình điều tra kéo dài nhiều tháng, đủ cho các nhân viên điều tra nhận ra rằng Kallinger là một kẻ hoang tưởng. Hắn luôn nói rằng Chúa đã tạo ra hắn, giao cho hắn một sứ mệnh đặc biệt, hắn xuất hiện để giúp mọi người khai sáng bộ não của họ.
Kallinger đã được giám định tâm thần trước khi bị đem ra xét xử. Tiến sĩ tâm thần John Hume đã kết luận Kallinger mắc chứng rối loạn nhân cách chứ không phải là rối loạn tâm thần. Kallinger hoàn toàn có thể nhận biết đúng sai nên phải chịu trách nhiệm trước những việc làm của mình.
Ngày 8/9/1975, Kallinger bị đưa ra xét xử. Hắn bị buộc tội liên quan đến nhiều vụ trộm cắp, hiếp dâm, giết người. Có bốn nạn nhân xuất hiện tại phiên tòa xác nhận Kallinger là kẻ đã tấn công họ.
Theo các chuyên gia tâm lý, quá khứ đen tối mà người đàn ông này từng trải qua có thể đã góp phần hình thành nên nhân cách bất thường của Kallinger.