Nếu Em Ở Lại (If I Stay)

Chương 15

[15] 4:57 A.M

Tôi không thể ngừng nghĩ về 'Chờ đợi sự báo thù'. Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi tôi nghe hay nghĩ về bài hát đó, nhưng sau khi Gramps rời khỏi giường tôi, tôi đã tự hát cho chính mình hết lần này đến lần khác. Bố viết bài hát này từ nhiều năm trước, nhưng giờ đây tôi có cảm giác như ông mới viết nó vào ngày hôm qua. Giống như ông viết nó dù ông đang ở bất cứ nơi đâu. Giống như có một thông điệp ẩn trong đó dành cho tôi. Còn cách nào khác để giải nghĩa những lời hát đó? Tôi không lựa chọn, tôi chạy ra khỏi vòng chiến.

Thế nghĩa là sao? Phải chăng nó là một sự chỉ dẫn? Là gợi ý về sự lựa chọn của bố mẹ nếu họ có thể chọn thay tôi? Tôi cố gắng đứng trên quan điểm của họ. Tôi biết họ muốn ở bên tôi, muốn chúng tôi có thể một lần nữa ở bên nhau. Nhưng tôi không biết liệu chuyện đó có xảy ra sau cái chết không, và nếu có, nó sẽ xảy ra khi tôi ra đi vào buổi sáng này hay sau bảy mươi năm nữa. Giờ đây họ đang mong muốn điều gì cho tôi? Ngay khi bật ra câu hỏi này, tôi có thể thấy vẻ mặt cáu bẳn của mẹ. Hẳn bà sẽ giận tím tái vì tôi còn cân nhắc bất cứ điều gì ngoài ở lại. Nhưng còn bố, ông hiểu ý nghĩa của việc từ bỏ cuộc chiến. Có lẽ, giống như Gramps, ông hiểu vì sao tôi không nghĩ tôi có thể ở lại.

Tôi đang hát bài hát đó, như thể mải mê trong ca từ chính là sự chỉ dẫn, một bản đồ đường âm nhạc dẫn tới nơi tôi muốn đến và chỉ ra cách để rời khỏi đây.

Tôi hát, tôi say sưa, tôi hát, và tập trung suy nghĩ đến mức hoàn toàn không nhìn thấy Willow đã trở lại ICU, hoàn toàn không phát hiện cô ấy đang nói chuyện với bà y tá cục cằn, hoàn toàn không nhận ra sự quả quyết đanh thép trong giọng cô.

Nếu tôi chú ý, đáng lẽ tôi có thể nhận ra Willow đang xin phép cho Adam vào thăm tôi. Nếu tôi chú ý, đáng lẽ tôi đã có thể tìm cách nào đó rời đi trước khi Willow - như thường lệ - thành công.

Hiện tại tôi không muốn gặp anh. Ý tôi là, đương nhiên tôi muốn. Muốn đến nhức nhối. Nhưng tôi biết nếu mình gặp được anh, tôi sẽ đánh mất sợi dây bình thản cuối cùng mà Gramps đã trao cho tôi khi ông bảo rằng sẽ ổn thôi nếu tôi rời đi. Tôi đang cố gom góp dũng khí để làm việc tôi phải làm. Còn Adam sẽ khiến mọi việc rối tung lên. Tôi cố gắng đứng dậy để bỏ đi, nhưng điều gì đó đã xảy đến với tôi kể từ khi tôi trở lại sau cuộc phẫu thuật. Tôi không còn sức lực để di chuyển nữa. Tôi đã phải cố hết sức để có thể ngồi thẳng trên chiếc ghế của mình. Tôi không thể bỏ chạy, tất cả những gì tôi có thể làm là trốn tránh. Tôi co đầu gối vào trước ngực và khép mắt lại.

Tôi nghe thấy cô y tá Ramirez nói với Willow. “Tôi sẽ đưa cậu ấy vào,“ cô nói. Và lần đầu tiên, bà y tá cục cằn không yêu cầu cô quay trở lại với bệnh nhân của mình.

“Thiệt là dớ dẩn khi em xông thẳng vào đây lúc trước,“ tôi nghe thấy cô ấy bảo Adam.

“Em biết,“ Adam đáp. Giọng của anh thầm thì trong cuống họng, như những lần trải qua buổi concert gào thét xuyên suốt. “Em đã quá liều lĩnh.”

“Không, em lãng mạn,“ cô ấy nói.

“Em thật ngu ngốc. Mọi người bảo lúc trước cô ấy đã ổn hơn. Cô ấy có thể rời máy thở, cô ấy khỏe hơn. Nhưng sau khi em vào đây thì tình hình của cô ấy xấu đi. Họ nói rằng tim của cô ấy đã ngừng đập trên bàn mổ...” Giọng Adam yếu dần.”Nhưng họ đã khiến nó đập trở lại. Một vết thủng ruột đã từ từ chảy mật vào bụng của cô bé và khiến các cơ quan bị tổn thương. Chuyện này xảy ra suốt ấy mà, chẳng liên quan gì đến em cả. Bọn chị đã phát hiện và chữa khỏi, đấy mới là trọng điểm.”

“Nhưng cô ấy đã khá hơn,“ Adam thì thào. Giọng của anh quá non nớt và dễ vỡ, giống hệt Teddy khi thằng bé bị cúm bao tử. “Rồi em đi vào và cô ấy suýt chết.” Giọng của anh nghẹn lại vì một tiếng thổn thức. Âm thanh đó khiến tôi bừng tỉnh như vừa bị một chậu nước đá hắt vào áo. Adam nghĩ rằng lỗi tại anh? Không! Quá là ngớ ngẩn. Anh lầm rồi.

“Suýt nữa chị đã cưới một gã khốn béo phị ở Puerto Rico,“ cô y tá búng tay. “Nhưng chị không làm thế, và giờ chị có một cuộc sống hoàn toàn khác. Gần như không tì vết. Em phải đương đầu với tình hình trước mắt. Cô bé vẫn ở đây.” Cô ấy kéo tấm rèm ngăn cách quanh giường tôi. “Em vào đi,“ cô ấy bảo Adam.

Tôi ngẩng đầu lên và mở mắt. Adam. Chúa ơi, thậm chí ở trong hoàn cảnh này, anh vẫn đẹp. Mắt của anh nhuốm màu mệt mỏi, râu bắt đầu mọc lên lởm chởm, đủ để khiến cằm tôi bị cọ xát nếu chúng tôi định thân mật. Anh đang mặc chiếc áo phông đồng phục nhóm điển hình, quần skinny xắn gấu, đi giầy Converse, chiếc khăn kẻ caro của Gramps quàng quanh vai anh.

Khi vừa thấy tôi, mặt anh tái đi, giống như tôi là một tạo vật gớm guốc trong Ốc đảo đen. Trông tôi rất tệ, lại nối với máy thở và hàng tá dây ống, bộ quần áo vừa trải qua cuộc phẫu thuật gần nhất bị thấm máu. Nhưng sau vài giây, Adam thở hắt ra, và anh lại là Adam của bình thường. Anh nhìn quanh, như thể vừa đánh rơi thứ gì đó, và rồi anh thấy thứ mình đang tìm kiếm: Tay của tôi.

“Lạy chúa, Mia, tay của em đang đóng băng này.” Anh ngồi xổm xuống, đặt bàn tay phải của tôi vào trong tay anh, cẩn thận không chạm vào các dây ống của tôi, anh kề miệng mình lại gần, thổi hơi ấm vào nơi ấp ủ anh vừa tạo ra. Em có bàn tay thật yếu ớt. Adam luôn kinh ngạc vì kể cả giữa mùa hè, thậm chí sau những cuộc vận động mướt mải mồ hôi, tay tôi vẫn lạnh. Tôi bảo anh nguyên nhân là sự lưu thông máu kém, nhưng anh không công nhận vì chân của tôi vẫn ấm. Anh nói rằng tôi có đôi tay điện tử, đó là lý do vì sao tôi là một nghệ sĩ cello giỏi.

Tôi nhìn anh sưởi ấm tay tôi như hàng ngàn lần trước. Tôi nghĩ đến lần đầu tiên anh sưởi ấm nó, ở trường, trên thảm cỏ, như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời này. Tôi cũng nhớ lần đầu tiên anh làm thế trước mặt bố mẹ tôi. Chúng tôi đang ngồi ngoài hiên nhà trong đêm Giáng Sinh, uống rượu táo. Ngoài trời lạnh buốt, Adam cầm tay tôi và thổi khí. Teddy cười rúc rích. Bố mẹ không nói gì, chỉ trao nhau một cái liếc chớp nhoáng, điều gì đó riêng tư đã được trao đổi giữa họ, rồi sau đó mẹ nhìn chúng tôi và ngượng ngùng mỉm cười.

Tôi tự hỏi nếu tôi cố gắng, liệu tôi có thể cảm nhận được anh đang chạm vào tôi không. Nếu tôi nằm lên trên thân thể đang ở trên giường kia, liệu tôi có hòa thành một với nó? Liệu sau đó tôi có cảm nhận được anh? Nếu tôi vươn bàn tay vô hình này ra, liệu anh có thể cảm nhận được tôi? Liệu anh có sưởi ấm cho đôi tay mà anh không thể nhìn thấy?

Adam đặt tay tôi xuống và bước lại để nhìn tôi. Anh đứng gần tới mức tôi gần như có thể ngửi được mùi của anh và bị choáng ngợp bởi nhu cầu chạm vào anh. Nó cơ bản, nguyên sơ và mãnh liệt như một đứa trẻ cần bầu sữa mẹ. Cho dù tôi biết, nếu chúng tôi chạm vào nhau, một trận kéo co mới - thứ sẽ còn nhức nhối hơn cả sự trầm lắng mà Adam và tôi đã tạo ra trong vài tháng gần đây - sẽ bắt đầu.Adam đang lầm bầm gì đó. Với giọng trầm thấp. Anh lặp đi lặp lại: Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Làm ơn. Cuối cùng, anh ngừng lại và ngắm nhìn gương mặt tôi. “Làm ơn, Mia,“ anh van nài. “Đứng bắt anh phải viết một bài hát.”

***

Tôi chưa từng trông mong rằng mình sẽ yêu. Tôi không phải là loại con gái mê mết ngôi sao nhạc rock hay mộng hão được cưới Prad Pitt. Tôi chỉ mơ hồ biết rằng một ngày nào đó tôi sẽ có bạn trai (trong thời đại học, nếu tiên đoán của Kim trở thành sự thật) và làm đám cưới. Không phải tôi hoàn toàn miễn dịch trước sự thu hút giới tính của phe trái dấu, nhưng tôi không phải một trong những cô nàng lãng mạn và e thẹn, những người có giấc mơ kẹo bông màu hồng về chuyện sa vào lưới tình.

Kể cả khi tôi đã rơi vào một tình yêu triệt để, mãnh liệt và không-thể-ngừng-cười-ngốc-nghếch, tôi vẫn chưa hoàn toàn ý thức được chuyện gì đã xảy ra. Khi ở bên Adam, ít nhất là sau vài tuần bối rối ban đầu, tôi cảm thấy tuyệt vời đến nỗi không buồn nghĩ rằng chuyện gì đang diễn ra với tôi, với chúng tôi. Nó quá đương nhiên và đúng đắn, như thể đắm mình vào một bể tắm ấm áp đầy bọt. Thế không có nghĩa là chúng tôi không có xung đột. Chúng tôi tranh cãi về rất nhiều chuyện: Anh không đủ thân với Kim, tôi tách biệt trong show diễn của anh, anh lái xe quá nhanh, tôi quấn hết chăn. Tôi tức giận bởi anh chưa từng viết bất kỳ bài hát nào về tôi. Anh thú nhận rằng mình không giỏi viết những bản tình ca sướt mướt: “Nếu em muốn một bài hát, em phải làm điều gì đó như phản bội anh,“ anh nói, biết thừa rằng chuyện ấy sẽ chẳng đời nào xảy ra.

Dù vậy, mùa thu vừa rồi, Adam và tôi bắt đầu châm ngòi một cuộc chiến kiểu mới. Nó không thật sự là một cuộc chiến. Chúng tôi không to tiếng, thậm chí hiếm khi chúng tôi tranh cãi, nhưng sự căng thẳng lặng lẽ xâm nhập vào cuộc sống của chúng tôi. Dường như mọi chuyện đều phát sinh từ cuộc diễn thử tại Juilliard của tôi.

“Em chơi có ngon lành không?” Adam hỏi khi tôi quay lại. “Họ sẽ cho em một suất học bổng toàn phần chứ?”

Tôi có cảm giác họ sẽ nhận tôi, trước cả khi tôi kể cho giáo sư Christie về nhận xét 'Đã rất lâu rồi ngôi trường này mới gặp lại một cô gái đến từ tiểu bang Oregon', trước cả khi cô ấy thở dồn vì tin chắc rằng đó là một lời hứa ngầm cho sự chấp thuận. Điều gì đó đã xảy ra trong màn biểu diễn của tôi tại buổi diễn thử đó, tôi đã phá vỡ vài ranh giới vô hình và cuối cùng có thể chơi bản nhạc như thể tôi đã từng nghe thấy nó phát ra trong đầu, và kết quả thật siêu việt: Cả tinh thần và thể xác, cả mặt kỹ thuật và cảm xúc trong khả năng của tôi đều hòa quyện với nhau. Sau đó, trên đường về nhà, khi Gramps và tôi tiến gần đến phần tiếp giáp giữa California và Oregon, đột nhiên hình ảnh tôi kéo cello đi khắp New York chớp qua đầu tôi. Giống như tôi đã biết, và sự chắc chắn gieo mầm trong bụng tôi như một bí mật kích thích. Tôi không phải kiểu người thiên về linh cảm hay quá tự tin, nên tôi hoài nghi rằng có gì đó nhiều hơn sự tơ tưởng diệu kỳ trong hình ảnh chớp qua đó.

“Em chơi cũng được,“ tôi trả lời Adam, và khi nói điều đó, tôi nhận ra đây là lần đầu tiên mình trắng trợn lừa gạt anh, nó khác với tất cả những lần nói dối bằng cách lấp liếm bớt sự thật mà tôi từng làm trước đây.Đầu tiên tôi đã không kể cho Adam chuyện mình gửi đơn vào Juilliard, chuyện thực chất nghiêm trọng hơn dự đoán. Trước khi nộp đơn, tôi đã tranh thủ luyện tập vào tất cả những dịp rảnh rỗi với giáo sư Christe để điều chỉnh lại bản concerto của Shostakovich và hai tổ khúc của Bach. Khi Adam hỏi vì sao tôi bận bịu thế, tôi đã đưa ra những lời bào chữa mập mờ có chủ định về việc vất vả học vài bản nhạc mới. Tôi tự thanh minh cho bản thân rằng về bản chất nó vẫn đúng. Rồi sau đó giáo sư Christie sắp xếp cho tôi một buổi thu âm tại trường đại học để tôi có thể gửi đĩa CD chất lượng cao cho Juilliard. Tôi phải có mặt tại phòng thu lúc bảy giờ sáng chủ nhật, vào đêm hôm trước đó tôi vờ như mình khó ở và bảo Adam rằng có lẽ anh không nên ở lại qua đêm. Tôi cũng tự biện hộ cho lời nói dối đó. Tôi cảm thấy khó ở vì căng thẳng. Vì thế, nó là một lời nói dối chân thật. Bên cạnh đó, tôi cho rằng, chẳng việc gì phải làm nhặng xị lên cả. Tôi cũng không kể cho Kim, thế nên không phải Adam đang đặc biệt bị dối gạt.

Nhưng sau khi thú nhận với anh rằng tôi đã hoàn thành buổi diễn thử, tôi có cảm giác mình đang lội qua vùng cát lún, nếu tôi chỉ bước thêm một bước nữa thôi, tôi sẽ không thể thoát ra được và cứ thế chìm cho tới khi chết ngạt. Tôi hít một hơi thật sâu và cố gắng kéo mình lại mặt đất bằng phẳng. “Thực ra, không phải thế,“ tôi nói với Adam. “Em chơi rất tốt. Em chơi hay hơn mọi lần khác trong đời. Cứ như em được nhập vào ấy.”

Phản ứng đầu tiên của Adam là mỉm cười hãnh diện. Tôi đã ước ao được nhìn thấy nó. Nhưng rồi mắt của anh mờ đi và đôi môi anh mím lại. “Sao em lại phải nói giảm?” anh hỏi. “Sao em không gọi cho anh ngay sau buổi diễn thử để khoe?”

“Em không biết,“ tôi đáp.

“Chà, đó là một tin tuyệt đấy,“ Adam nói, cố gắng che đậy sự tổn thương của mình. “Chúng ta nên ăn mừng.”

“Đúng thế, ăn mừng thôi,“ tôi nói, với sự vui vẻ khiên cưỡng. “Chúng ta có thể đến Portland vào thứ bảy. Thăm vườn Nhật Bản và đi ăn tối ở Beau Thai.”

Adam nhăn mặt. “Anh không thể. Bọn anh chơi ở Olympia và Seattle vào cuối tuần này. Mini-tour. Em nhớ không? Anh rất muốn em đến xem, nhưng anh không chắc đó sẽ là một buổi ăn mừng dành cho em. Anh sẽ về vào cuối chiều chủ nhật, anh có thể gặp em ở Portland vào tối chủ nhật nếu em muốn.”

“Em không thể. Em chơi tứ tấu đàn dây tại nhà của một vị giáo sư. Cuối tuần sau thì sao?”

Adam trông rầu rĩ. “Bọn anh sẽ ở phòng thu trong vài dịp cuối tuần tới, nhưng bọn anh được ra ngoài khoảng giữa tuần. Quanh đây vậy. Đến nhà hàng Mexico nhé?”

“Được, đến nhà hàng Mexico,“ tôi đáp.

Hai phút trước, tôi còn chẳng muốn ăn mừng, nhưng giờ tôi lại cảm thấy thất vọng và tổn thương vì được hẹn một bữa tối giữa tuần ở một nơi chúng tôi thường xuyên đến.

Khi Adam tốt nghiệp cao học vào mùa xuân năm ngoái và chuyển khỏi căn nhà của bố mẹ anh để đến Nhà Rock, tôi không mong chờ quá nhiều sự thay đổi. Anh vẫn sống ở gần đây. Chúng tôi vẫn có thể gặp nhau suốt. Tôi sẽ nhớ những cuộc hẹn hò nho nhỏ ở phòng nhạc, nhưng tôi cũng khuây khỏa phần nào khi mối quan hệ của chúng tôi thoát được cái kính hiển vi của trường cao học.Nhưng tình hình thay đổi khi Adam chuyển đến Nhà Rock và vào cao đẳng, mặc dù không phải bởi những lý do mà tôi đã lường trước. Vào đầu thu, khi Adam bắt đầu cuộc sống cao đẳng, Shooting Star đột nhiên phất lên. Ban nhạc nhận được lời mời thu âm của một hãng đĩa tầm trung tại Seattle và giờ bận rộn ghi âm trong phòng thu. Họ cũng diễn nhiều show hơn, lớn hơn và đông hơn, hầu như mỗi cuối tuần. Bùng nổ đến nỗi Adam phải ngừng một nửa khóa học của mình và chuyển thành học cao đẳng bán thời gian, nếu mọi chuyện cứ với cái đà này, anh sẽ nghĩ đến chuyện nghỉ hẳn. “Không có cơ hội thứ hai,“ anh nói với tôi.

Tôi thật lòng mừng cho anh. Tôi biết Shooting Star là điều gì đó đặc biệt, hơn cả một ban nhạc cao-đẳng-thị-trấn. Tôi không ngại nếu Adam vắng mặt thường xuyên hơn, đặc biệt từ khi anh đã giải thích rõ anh áy náy như thế nào về chuyện đó. Nhưng không hiểu sao, triển vọng ở Juilliard khiến mọi thứ thay đổi, khiến tôi bận tâm. Điều này thật vô nghĩa, bởi nếu trở thành sự thật, nó sẽ cân bằng tình thế. Giờ thì tôi cũng sở hữu chuyện gì đó thật kích thích.

“Chúng ta có thể đến Portland trong vài tuần nữa,“ Adam hứa. “Khi các ngọn đèn dịp lễ đã bật lên.”

“Được,“ tôi rầu rĩ đáp.

Adam thở dài. “Mọi chuyện đang trở nên phức tạp phải không?”

“Vâng, lịch trình của chúng ta quá căng,“ tôi nói.

“Ý anh không phải thế,“ Adam bảo, kéo gương mặt tôi về phía anh để tôi có thể nhìn thẳng vào mắt anh.

“Em biết ý anh không phải thế,“ tôi trả lời, nhưng một hòn đá mắc lại trong cổ họng tôi và tôi không thể nói thêm gì nữa.

Chúng tôi cố gắng xoa dịu sự căng thẳng, nói về nó nhưng không hẳn nói về nó, đùa giỡn về nó. “Em biết không, anh đọc trênThời sự Mỹ và thông tin thế giới thấy đại học Willamette có một chương trình âm nhạc rất hay,“ Adam bảo với tôi. “Nó ở Salem, hiện đang ngày càng hipster-hóa.”

“Ai nói thế? Thống đốc bang à?” tôi hỏi.

“Liz tìm thấy vài món tốt ở một cửa hàng quần áo phục cổ ở đó. Em biết đấy, một khi những cửa hiệu phong cách cổ xuất hiện, dân hipster sẽ đến ngay thôi.”

“Anh quên à, em không phải một hipster,“ tôi nhắc anh. “Nói đến chuyện này, có lẽ Shooting Star nên chuyển đến New York. Em muốn nói, đó là trái tim của punk. The Ramones. Blondie.” Giọng của tôi bâng quơ và phỉnh phờ, một màn trình diễn xứng đáng đạt giải Oscar.

“Đó là ba mươi năm trước,“ Adam nói. “Và kể cả anh có muốn chuyển đến New York, không đời nào những người còn lại trong nhóm muốn.” Anh di di đôi giày của mình, còn tôi nhận ra phần đùa bỡn trong cuộc đối thoại đã kết thúc. Bụng của tôi nhộn nhạo, món khai vị trước bữa chính đau buồn mà tôi đã cảm nhận được đang chuẩn bị được bưng ra.

Adam và tôi chưa bao giờ là kiểu cặp đôi nói chuyện về tương lai, về hướng đi của mối quan hệ, nhưng khi mọi thứ đột ngột trở nên mù mờ, chúng tôi trốn tránh nói về những chuyện sẽ xảy ra xa hơn vài tuần, nó khiến cuộc nói chuyện của chúng tôi loạng choạng và vụng về như thể chúng đã lạc lối hàng tuần trời trước khi chúng tôi tìm được lối cũ. Một buổi chiều mùa thu, tôi tia thấy một chiếc áo khoác lụa kiểu thập niên 30 tuyệt đẹp trong một cửa hàng thời trang cổ điển nơi bố mua bộ com lê của ông, tôi suýt nữa chỉ cho Adam để hỏi anh liệu tôi có nên mặc nó trong buổi dạ tiệc cuối cấp không, nhưng buổi dạ tiệc diễn ra vào tháng sáu và có lẽ Adam đang đi tour trong thời điểm đó, hoặc có lẽ tôi quá bận để chuẩn bị cho Juilliard, nên tôi không nói gì nữa. Không lâu sau, Adam phàn nàn về chiếc ghita cũ rích của mình, bảo rằng anh muốn mua một chiếc Gibson SG kiểu cổ, tôi đề nghị mua tặng nó cho anh vào ngày sinh nhật. Có điều anh nói rằng những chiếc ghita đó trị giá cả nghìn đô-la, hơn nữa sinh nhật anh vào tận tháng chín, cái cách anh nói tháng chín hệt như một vị quan tòa đang phán quyết tội phạm vậy.Mấy tuần trước, chúng tôi đến dạ tiệc đêm giao thừa cùng nhau. Adam say, vào nửa đêm, anh hôn tôi đắm đuối. “Hứa với anh, hứa với anh em sẽ dành giao thừa năm sau bên anh,“ anh thầm thì vào tai tôi.

Tôi định phân bua rằng kể cả tôi có đến Juilliard, tôi cũng sẽ về nhà vào dịp Giáng Sinh và năm mới, nhưng rồi tôi nhận ra đó không phải trọng điểm. Thế nên tôi hứa với anh, bởi tôi cũng muốn nó trở thành sự thật như anh vậy. Tôi nồng nhiệt hôn đáp lại anh, như thể tôi đang cố gắng hợp nhất thân thể chúng tôi qua nụ hôn.

Trong ngày đầu năm, tôi về nhà và thấy cả gia đình đang quây quần trong bếp với chú Henry, cô Willow và em bé. Bố đang nấu bữa sáng: Cá hồi viên hun khói, sở trường của ông.

Henry lắc đầu khi chú thấy tôi. “Nhìn xem bọn trẻ thời nay nè. Cứ như mới ngày hôm qua khi tôi tót về nhà vào lúc tám giờ và cảm thấy hẵng còn sớm chán. Giờ thì tôi sẵn sàng chết để được ngủ đến tám giờ.”

“Chúng ta còn chẳng thức đến nửa đêm,“ Willow thừa nhận, đỡ em bé ngồi lên đùi cô. “Cũng tốt, bởi cô tiểu thư bé bỏng này quyết định bắt đầu năm mới vào lúc năm giờ ba mươi.”

“Em thức đến nửa đêm!” Teddy hét lên. “Em thấy quả bóng rơi xuống trong TV lúc mười hai giờ. Nó ở New York đấy, chị biết không? Nếu chị đến đó, chị có đưa em đi xem nó rơi ngoài trời thật không?” thằng bé hỏi.

“Chắc chắn rồi, Teddy,“ tôi giả đò hăng hái. Ý tưởng tôi đến New York dường như ngày càng rõ ràng và chân thực, dẫu cho nó dần dà tích tụ sự lo lắng và, thật mâu thuẫn, cả sự kích động trong tôi nữa, hình ảnh tôi và Teddy nắm tay nhau trong đêm giao thừa vẫn khiến tôi cảm thấy cô đơn không chịu nổi.

Mẹ nhìn tôi, cặp lông mày nhếch lên. “Hôm nay là ngày đầu năm, thế nên mẹ sẽ không phàn nàn chuyện con về vào giờ này. Nhưng nếu con say xỉn thì xong rồi đấy.”

“Con không say. Con uống một cốc bia thôi. Con chỉ mệt.”

“Chỉ mệt hả? Con chắc chứ?” Mẹ kéo cổ tay áo tôi và kéo tôi về phía bà. Khi thấy gương mặt thảng thốt của tôi, bà nghiêng đầu sang một bên như muốn hỏi, con ổn chứ? Tôi nhún vai và mím môi để không buột miệng. Mẹ gật đầu. Bà đưa cho tôi một cốc cà phê và dẫn tôi đến bàn. Bà đặt một đĩa gồm cá viên và một miếng bánh mì chua dày lên bàn, mặc dù không đói lắm, tôi vẫn chảy nước miếng, bụng sôi ùng ục và đột nhiên cảm thấy cồn cào. Tôi yên lặng ăn, mẹ nhìn tôi trong suốt lúc đó. Sau khi mọi người đã dùng bữa xong, bà đưa mọi người đến phòng khách để xem cuộc Diễu Hành Hoa Hồng trên TV.

“Mọi người ra trước đi,“ bà yêu cầu. “Mia và tôi sẽ rửa bát.” Khi mọi người đã đi rồi, mẹ quay sang phía tôi và tôi đổ gục lên người bà, khóc nức nở, phóng thích tất cả sự căng thẳng và chới với trong vài tuần vừa rồi. Bà lặng lẽ đứng đó, để tôi thổn thức trên chiếc áo len của mình. Khi tôi ngừng lại, bà cầm miếng bọt biển. “Con rửa, mẹ lau, chúng ta sẽ nói chuyện. Mẹ thấy mấy thứ này luôn giúp ta bình tĩnh. Nước ấm, xà phòng.”

Mẹ cầm khăn lau đĩa lên và chúng tôi bắt tay vào làm việc. Tôi kể cho bà nghe chuyện giữa tôi và Adam. “Chúng con đã có một năm rưỡi hoàn hảo,“ tôi nói. “Hoàn hảo đến mức con chưa từng nghĩ đến chuyện tương lai. Đến chuyện chúng con có những định hướng khác nhau.”Nụ cười của mẹ vừa buồn bã vừa thấu hiểu. Tôi ngẫm nghĩ về nó. Tôi quay sang mẹ. Bà đang chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm vài con chim sẻ đang gột mình trong vũng nước. “Mẹ nhớ hồi năm ngoái khi Adam đến đây vào dịp Giáng Sinh. Mẹ đã bảo với bố rằng con yêu quá sớm.”

“Con biết, con biết. Một đứa trẻ ngốc nghếch thì biết gì về tình yêu chứ.”

Mẹ ngừng tay lau chảo rán. “Ý mẹ không phải như thế. Thực tế là ngược lại cơ. Con và Adam chưa bao giờ tạo ra ấn tượng mối quan hệ 'trường cấp ba' với mẹ cả,“ mẹ ra hiệu dấu ngoặc kép bằng tay mình. “Không hề giống những đứa say xỉn lăn lộn ở ghế sau chiếc Chevy để hợp thức một mối quan hệ như hồi mẹ còn học cấp ba. Các con có vẻ, đến giờ vẫn thế, yêu nhau, chân thành, sâu sắc.” Bà thở dài. “Nhưng tuổi mười bảy không phải thời điểm thích hợp để yêu.”

Lời của bà khiến tôi mỉm cười và giảm bớt sự nôn nao trong bụng. “Con đồng ý với mẹ,“ tôi bảo. “Nhưng nếu không phải dân chơi nhạc, bọn con đã có thể cùng vào cao đẳng và chuyện vẫn ổn.”

“Đấy là lý do lý trấu, Mia,“ mẹ phản đối. “Mối quan hệ nào cũng trắc trở. Giống như với âm nhạc, nhiều khi con tạo được hòa âm nhưng có những lúc nó lại là âm tạp. Mẹ không cần phải giảng cho con về chuyện đó.”

“Con đoán là mẹ đúng.”

“Ôi thôi nào, âm nhạc đưa hai con đến với nhau. Đó là điều bố và mẹ luôn tâm niệm. Cả hai con đều yêu âm nhạc và rồi đem lòng yêu nhau. Chuyện cũng na ná với bố và mẹ, có điều mẹ không chơi nhạc mà nghe nhạc. May thay, mẹ lớn hơn con một chút khi gặp bố.”

Tôi chưa bao giờ kể cho mẹ điều Adam nói vào buổi đêm sau hòa nhạc Yo-Yo Ma, khi tôi hỏi anh Vì sao lại là em? Làm thế nào mà âm nhạc lại trọn vẹn trở thành một phần trong nó. “Vâng, nhưng lúc này con cảm thấy âm nhạc là thứ đang chia rẽ chúng con.”

Mẹ lắc đầu. “Thật là ngớ ngẩn. Âm nhạc không thể làm thế. Cuộc đời có thể mở ra các nẻo đường khác biệt cho các con, nhưng rồi ai trong hai con cũng phải chọn ra một con đường để đi.” Bà quay sang đối mặt tôi. “Adam không cố ngăn cản con đến Juilliard phải không?”

“Không nhiều hơn con cố gắng khuyên anh ấy chuyển tới New York. Dù sao thì nó cũng thật lố bịch. Có khi con còn chẳng đi được.”

“Không, có thể không. Nhưng rồi con sẽ đến một nơi nào đó. Mẹ nghĩ chúng ta đều hiểu được điều này. Tương tự, nó cũng đúng với Adam.”

“Ít nhất anh ấy có thể đi đâu đó trong khi vẫn sống ở đây.”

Mẹ nhún vai. Có lẽ thế. “Dù gì cũng chỉ là lúc này thôi.”

Tôi vùi mặt vào lòng bàn tay và lắc đầu. “Con phải làm gì đây?” Tôi rên rỉ. “Con cảm thấy mình đang mắc kẹt trong một trận kéo co.”

Mẹ trao tôi một cái nhăn mặt đồng tình. “Mẹ chẳng biết. Nhưng mẹ biết nếu con muốn ở lại và đứng bên cậu ấy, mẹ sẽ ủng hộ con, dù có lẽ mẹ chỉ đang nói thế vì mẹ không nghĩ con có thể từ bỏ Juilliard. Nhưng mẹ sẽ hiểu nếu con chọn tình yêu, tình yêu Adam, thay vì tình yêu âm nhạc. Đằng nào thì con cũng được lợi, và đằng nào thì con cũng sẽ thiệt. Mẹ có thể nói gì với con đây. Tình yêu thật chết tiệt.”

Adam và tôi nói chuyện thêm một lần nữa về vấn đề này. Chúng tôi ở trong Nhà Rock, ngồi trên chiếc nệm bông của anh. Anh đang gảy chiếc ghita acoustic của mình.

“Có lẽ em sẽ không qua,“ tôi nói với anh. “Có lẽ em sẽ vào một trường ở đây, với anh. Một mặt nào đó, em hy vọng mình không được nhận để em khỏi phải chọn.”

“Nếu em đỗ, sự lựa chọn đã được quyết rồi phải không?” Adam hỏi.

Đúng thế. Tôi sẽ đi. Tôi không nói rằng mình sẽ ngừng yêu Adam hay chúng tôi sẽ chia tay, nhưng cả mẹ và Adam đều đúng. Tôi sẽ không từ bỏ Juilliard.

Adam yên lặng trong chốc lát, chơi ghita với âm thanh lớn đến mức tôi suýt bỏ lỡ những lời anh nói, “Anh không muốn trở thành loại đàn ông không muốn em rời đi. Nếu tình hình đảo ngược, em cũng sẽ để anh đi.”

“Coi như em cũng trải qua rồi. Ở một mặt nào đó, anh cũng đã đi. Đến Juilliard của riêng anh,“ tôi nói.

“Anh biết,“ Adam nhỏ giọng đáp. “Nhưng anh vẫn ở đây, và anh vẫn yêu em cuồng si.”

“Em cũng vậy,“ tôi nói. Chúng tôi ngừng nói chuyện một lúc khi Adam gảy một giai điệu lạ lẫm. Tôi hỏi anh đang chơi gì. Anh gọi nó là điệu Blues Bạn-gái-đến-Juilliard-bỏ-lại-trái-tim-punk-của-tôi-tan-nát, anh đáp, ngân nga tên bài hát với giọng vút cao cường điệu. Sau đó anh nở nụ cười bẽn lẽn ngốc nghếch mà tôi cảm thấy nó đến từ phần chân thành nhất trong anh. Hay, tôi nhận xét. Cũng hơi hơi, anh bổ sung.