Thẩm Bách Lâm rất ít khi nói chuyện một hơi nhiều lời như vậy trước mặt mẫu thân. Tuy ông và đại ca đều là con vợ cả, nhưng mẫu thân thiên vị đại ca hơn. Sau khi ông sinh ra không bao lâu thì phụ thân qua đời, mẫu thân phải lo sinh kế, không rảnh lo cho ông.
Đến năm sáu tuổi ông mới biết nói, đi học cũng biểu hiện thường thường. Để tiết kiệm tiền trong nhà, ông dứt khoát không đi học, chỉ mua sách tự đọc. Sau khi thành niên, vì để đại ca cưới được nữ nhi của huyện quan, trong nhà tiêu gần hết số tiền tích cóp bao lâu, đến khi ông đến tuổi đón dâu thì không có khả năng tìm bà mối hạ sính lễ.
Sau này, chính ông tìm kiếm rồi cưới Trần thị xuất thân Tào Bang, nguyên nhân chính là đối phương không cần tiền.
Thẩm Bách Lâm không có địa vị trong nhà, không ai để ý đến ý kiến của ông, vẫn luôn như vậy mờ nhạt qua ngày. Lúc này vì nữ nhi, ông mới có đủ dũng khí muốn thuyết phục mẫu thân.
Thẩm Bách Lâm nói tiếp: “Lúc trước khi Hoàng thượng đăng cơ, phong mười mấy người Hoắc gia làm quan nhưng không ai có thực quyền, cho nên Hoắc gia chỉ là tốt mã dẻ cùi. Hơn nữa, bên cạnh Hoắc Lục công tử có vô số nữ nhân, bất quá coi trọng Oanh nhi chỉ vì nhất thời mới mẻ. Nếu nương muốn về sau Hoắc gia giúp đỡ Khiêm nhi chỉ sợ không được.”
Thẩm Bách Lâm nói một hơi xong còn theo bản năng nhìn biểu tình của Thẩm lão phu nhân. Thẩm Hoài Lễ là con trai độc nhất của đại phòng, cháu đích tôn duy nhất của Thẩm gia, cũng là thịt đầu quả tim của Thẩm lão phu nhân.
Ánh mắt lão phu nhân nhìn ông trở nên ý vị thâm trường hẳn. Bà vẫn luôn coi thường đứa con trai này, thứ nhất vì Thẩm Bách Lâm có tư chất bình thường, thứ hai vì nhị phòng chẳng sinh nổi đứa con trai nào. Nhưng hôm nay ông trái lại nói ra những lời này, cảm giác có một sự biến chuyển lớn.
Trước khi vào kinh, lão phu nhân đã tính toán kỹ lưỡng. Dù nhiều năm trước nữ nhi cắt đứt quan hệ với người nhà, nhưng xem xét phương diện cốt nhục tình thân có lẽ sẽ giúp trong nhà. Không nghĩ ngày ấy, đại nhi tử đến cửa, chẳng bao lâu lại xám xịt trở về, biểu tình rất không chịu đựng được. Bà biết không thể trông cậy vào nữ nhi này.
Cho nên trước chuyện của Thẩm Oanh, bà liền có tư tâm. Nếu không bọn họ vào kinh còn có ý nghĩa gì.
“Nói xem, ai dạy con những lời này?” Thẩm lão phu nhân trực tiếp hỏi. Thấy bộ dáng Thẩm Bách Lâm muốn phản bác, bà vẫy tay: “Ta quá hiểu con, cả ngày mân mê đống sách cũ, căn bản không quan tâm đại sự trong triều. Hiện tại chuyện Hoắc gia không có thực quyền đều hỏi rõ ràng, khẳng định có cao nhân chỉ điểm sau lưng. Rốt cuộc ai dạy con nói những lời này với ta?”
Thẩm Bách Lâm nhấp miệng, không muốn nói dối liền ậm ừ: “Là Oanh nhi nói với nhi tử.”
Thẩm lão phu nhân âm thầm kinh hoảng. Nếu không biết rõ tính Thẩm Bách Lâm tuyệt không nói dối, bà sẽ cho rằng những lời này là cố ý lừa bà. Thẩm Oanh ngày thường nhát gan, nói chuyện không giỏi, năm nay chưa tới mười sáu tuổi, sao có hiểu biết như vậy được? Nếu là sự thật, lâu nay bà đã coi thường đứa cháu gái này.
“Nếu đã là lời Oanh nhi, con gọi con bé tới đây.” Thẩm lão phu nhân cũng không quanh co lòng vòng, cứ trực tiếp phân phó.
Thẩm Bách Lâm không dám trái lời mẫu thân, trở về chỗ ở, nói Thẩm lão phu nhân muốn gặp Thẩm Oanh.
Đây không ngoài ý muốn của Thẩm Oanh chút nào. Khi nàng nói những lời này với Thẩm Bách Lâm, đã phỏng đoán với sự khôn khéo của lão phu nhân sẽ đoán được có người chỉ điểm, mà Thẩm Bách Lâm ăn ngay nói thật, lúc đó nàng sẽ phải đi gặp bà.
Nàng hiện tại không phải đích trưởng nữ An Quốc Công, trung cung Hoàng hậu, mà là một cô nương của thương hộ xuống dốc. Cha không có địa vị trong nhà, tiền đồ của nàng nằm gọn trong tay tổ mẫu. Trước có sói sau có hổ, nàng bình tĩnh nhận thức tình thế, nếu không cẩn thận sẽ vạn kiếp bất phục.
“Cha yên tâm, con thay quần áo sẽ đi gặp tổ mẫu.” Thẩm Oanh cười, thong dong đáp.
Thẩm Bách Lâm cảm thấy hổ thẹn trong lòng. Ông luôn miệng muốn bảo vệ nữ nhi chu toàn, nhưng tới trước mặt mẫu thân vẫn lộ nguyên hình, thật không dùng được.
Thẩm Oanh đến nhà chính, hành lễ với lão phu nhân trước, được cho phép thì ngồi xuống. Sau ba tháng, Thẩm lão phu nhân lần đầu đánh giá kỹ đứa cháu gái này. Thẩm Oanh mặc áo ngắn, nửa cánh tay áo màu tím, váy xếp màu trắng. Làn da vô cùng trắng nõn mịn màng giống tuyết lụa thượng hạng. Ánh mắt như sóng nước mùa thu phảng phất phong tình vạn chủng. Tướng mạo này mà ném vào một đám đông, chỉ cần liếc mắt liền nhìn thấy.
Triều đại này lấy sự mềm yếu làm thước đo thẩm mỹ của nữ tử, đại khái là noi theo Gia Huệ Hậu.
Gia Huệ Hậu sớm nổi danh khắp kinh thành, nhưng bởi xuất thân nhà cao cửa rộng nên hiếm khi xuất hiện. An Quốc Công phủ từng có một tòa lầu tên gọi Cẩm Tú, giữa lầu treo rèm châu ngọc, khi gió thổi qua vang lên như tiếng suối trong mát.
Mỗi năm yến hội, Gia Huệ Hậu ở trên lầu cao ấy đàn một khúc Không dẫn làm tứ phía kinh diễm không thôi. Khách khứa thưởng thức từ xa, cách rèm châu màn lụa chỉ thấy ở giữa lầu có dáng người như liễu rũ, từ đó mềm yếu tinh tế trở thành tiêu chuẩn mỹ nhân.
Mấy tiểu cô nương Thẩm gia tuy ở xa Giang Nam cũng theo phong trào này, ngày thường tuyệt không dám ăn nhiều. Nhưng nhân dáng bẩm sinh có hạn, chẳng qua chỉ bắt chước bừa. Duy có Thẩm Oanh, tính theo tuổi tác, vóc dáng thực có vài phần yếu mềm và tư thái kiều mỹ không nói nên lời.
Trước kia khi tới nhà chính, Thẩm Oanh thường cúi đầu, mắt cũng không dám nhìn loạn khắp nơi. Nay nàng đối diện lão phu nhân một cách tự nhiên hào phóng, khóe miệng mang ý cười tự tin. Dung mạo vốn xuất chúng càng thêm vài phần thần thái.
“Thương thế của con đã hết chưa?” Thẩm lão phu nhân hỏi. Bà không ngạc nhiên khi Thẩm Oanh đổi tính. Trước đây bà cũng thẹn thùng không thích nói chuyện giống Thẩm Oanh, sau trong nhà đột nhiên gặp biến cố, bà không thể không chủ động gánh vác gia nghiệp, tính tình cũng biến chuyển. Bà tin, người bị dồn đến đường cùng luôn sẽ trưởng thành.
Thẩm Oanh gật đầu thưa: “Lần này cháu gái bị thương nặng, phải dưỡng thương nhiều ngày làm tổ mẫu lo lắng. Hiện tại coi như đã khỏe, cũng là thời điểm vì gia đình phân ưu.”
Lão phu nhân rất chướng mắt bộ dạng khóc nháo, có một số việc dù gì cũng chẳng tránh được, chi bằng thống khoái thì hơn. Bà thấy Thẩm Oanh hiểu chuyện, hiền từ hỏi: “Ừm. Theo ý tứ của cha con, con chọn Tĩnh Viễn Hầu phủ?”
Thẩm Oanh lại cười nói: “Nếu có thể, cháu gái không chọn ai hết. Tổ mẫu cũng biết địa vị của thiếp thất, nhưng tình thế trước mắt không do chúng ta quyết. Cháu gái kêu Lâm ma ma thăm dò sự vụ trong triều, thấy rằng chúng ta sẽ lợi hơn khi chọn Tĩnh Viễn Hầu phủ.”
Trần thị xuất thân Tào Bang, Lâm ma ma là ma ma hồi môn bà mang theo khi xuất giá. Huynh đệ Tào Bang đông đảo trải khắp các địa phương có đường thủy, thăm dò tin tức rất thuận tiện. Thẩm Oanh nói thế có thể đánh tan nghi ngờ của Thẩm lão phu nhân.
Lão phu nhân là người sáng suốt, bà có tư tâm và tính kế, sẽ không uổng phí mạng cháu gái để người khác lấy cớ chỉ trích. Lời Thẩm Oanh đề cập ‘chúng ta’ chính là buộc lợi ích của mình vào Thẩm gia. Nàng thắng, Thẩm gia thắng. Nàng thua, coi như Thẩm gia lấy giỏ tre múc nước, công sức đổ sông đổ biển.
Thẩm lão phu nhân luôn thích người thông minh, đáng tiếc trong đám con cháu không tìm được người nào có thể nâng đỡ. Bà nhìn Thẩm Oanh đầy tán thưởng, dứt khoát nói rõ: “Như con nói, thiếp thất không có địa vị. Chỉ cần nhà chồng bất mãn, tốt thì bị trục xuất trả về, xấu thì có khả năng bị bán đi. Với tình cảnh hiện giờ của Thẩm gia, tuyệt đối không dám cùng hai nhà kia đối kháng. Con nhận thức rõ chuyện này chứ?”
Bà thẳng thắn nói lời này nghe có chút chói tai nhưng lại là sự thật. Vô luận gả vào Tĩnh Viễn Hầu phủ hay Hoắc gia, Thẩm Oanh không thể trông cậy vào nhà mẹ đẻ, chỉ có thể dựa vào chính mình.
Lúc nàng còn ở Trường Tín Cung, mấy lúc kinh qua gian khó đều không dựa vào An Quốc Công phủ, hiện tại càng không nghĩ đến dựa vào Thẩm gia vô lực. Tốt xấu gì mình cũng từng là quốc mẫu, chỉ một Tĩnh Viễn Hầu phủ há có gì để lo sợ?
“Cháu gái minh bạch” Thẩm Oanh nói. “Dù Tĩnh Viễn Hầu phủ là đầm rồng hang hổ cũng phải xông vào một lần.”
“Được, vậy theo ý con mà làm. Ta sẽ nghĩ biện pháp trả lời Hoắc gia bên kia.” Thẩm lão phu nhân sảng khoái đáp lại. Bà sống hơn nửa đời người sẽ không nhìn lầm người, Thẩm gia nhiều năm sa sút, nay có thể đặt hy vọng ở Thẩm Oanh. Chỉ cần nàng thông tuệ và vững quyết tâm, cùng với tướng mạo ưu mỹ, rất có khả năng làm nên chuyện ở Hầu phủ.
Thẩm Oanh đi rồi, Từ ma ma rót chén trà nóng đưa lão phu nhân: “Xem ra, tam cô nương dạo một vòng quỷ môn quan đã thoát thai hoán cốt.”
Lão phu nhân uống ngụm trà, chầm chậm nói: “Con người hơn phân nửa không bị buộc phải đi con đường đó. Khi bị dồn đến chân tường sẽ nghĩ biện pháp tìm đường sống. Lão nhị có câu nói rất đúng, Hoắc gia là cái vỏ rỗng ỷ vào Thái hậu làm xằng bậy. Chưa chắc Hoàng thượng khoan dung bọn họ, chỉ ẩn nhẫn chưa phát mà thôi.”
Từ ma ma cảm khái: “Nhưng dầu gì Thái hậu cũng là thân mẫu của Hoàng thượng.”
Mấy ngày nay, Thẩm lão phu nhân phái nhiều người hỏi thăm đủ bề, cũng biết vài sự tình của cung đình. Từ ma ma theo bà nhiều năm, coi như tâm phúc nên không giấu diếm: “Ngươi đừng quên, lúc trước tiên đế có mười nhi tử, kim thượng nhỏ nhất cũng không được sủng ái nhất. Ai nghĩ được sẽ ngồi lên ngôi hoàng đế? Nếu không phải mạng tốt trời sinh, thì chính là có tâm trí và sức ẩn nhẫn hơn người. Hoàng thượng của chúng ta tuyệt không đơn giản, há vì Thái hậu mà đắn đo?”
Từ ma ma bừng tỉnh, ngộ ra: “Ngài tính làm thế nào để trả lời Hoắc gia?”
Thẩm lão phu nhân lắc đầu: “Không cần trả lời. Ngày mai ngươi đi Tĩnh Viễn Hầu phủ báo rằng người Hoắc gia cũng tới nhà ta. Để Hầu phủ xử trí, chúng ta yên lặng ngồi xem là được. Ta thật muốn coi Hoắc gia có dám đắc tội vị Diêm vương sống kia không?”
Từ ma ma giơ ngón tay cái, chủ tớ hai người hiểu rõ trong lòng, không nói gì chỉ cười cười.