Lúc ta tỉnh lại, ngửi thấy mùi rượu sặc sụa khắp phòng, cảm xúc nơi tay là
tấm chăn lông ngỗng mềm mại đắp kín trên người. Mở mắt ra nhìn, ập tới
là hình ảnh rồng vờn mây thiếp vàng thiếp bạc quấn quanh xà nhà. Quần áo trên người ta vẫn chỉnh tề. Đưa tay áo lên mũi, chỉ ngửi thấy mùi rau
xanh.
Trong nhà vô cùng ấm áp, hình như đốt lò, khiến căn phòng mờ mịt khói sương.
Màn lụa khẽ đưa, nơi tấm mành hé mở, ta nhìn thấy trong sảnh đặt một
chiếc bàn vuông. Thái tử ngồi trên chiếc ghế mạ vàng đặt cạnh chiếc bàn
đó.
Tay hắn cầm một thứ mà ta hoàn toàn không ngờ tới: Đàn đầu ngựa.
Hắn đưa tay gẩy, tiếng nhạc vang lên từ dây đàn, thê lương mà quạnh quẽ. Vậy mà hắn lại chơi khúc “Chu sắc liệt”.
Ta bước xuống giường, không xỏ giày thêu nhưng không hề cảm nhận được cảm
giác lạnh băng khi chân chạm xuống sàn nhà. Ta đưa mắt nhìn chân mình,
không ngờ chân ta lại đeo một đôi tất may từ vải nhung. Vào thời khắc
bất tỉnh, ta đã nghĩ đến muôn vàn tình cảnh ta phải đối mặt khi tỉnh
lại. Hoặc ở trong thủy lao lạnh như băng, hoặc nằm trong lồng thú bị dã
thú cắn xé, hoặc bị lột áo, bị lăng nhục không còn là người… Nhưng không thể ngờ rằng, ta lại được nâng niu như trân bảo?
Ta đang ở đâu? Kẻ ngồi trước bàn là Thái tử sao?
Không phải hắn hận ta thấu xương sao?
“Gần đây trời lạnh, ta thấy buổi tối nàng ngủ thường duỗi chân ra ngoài, cho nên đeo cho nàng đôi tất.” Hắn cười cười, đặt chiếc đàn đầu ngựa lên
ghế. Dây đàn đụng phải lưng ghế, phát lên một tiếng “tinh”.
Thấy ta giương mắt nhìn mình, hắn khoát tay nói: “Đói chưa? Ta không biết
nàng thích ăn gì, cho nên dặn nhà bếp làm vài món quen thuộc. Đây là món Phật nhảy tường, phổi phiến phu thê Tứ Xuyên (*), thịt cua đầu sư tử
Hoài Dương, thịt xào khô Chiết Giang, chắc nàng cũng ăn được.”
* Phật nhảy tường là món nổi tiếng của Trung Quốc, cách chế biến cầu kỳ,
nguyên liệu sang chảnh bao gồm vi cá, bào ngư, sò điệp, gân nai, bong
bóng cá, hải sâm, nhân sâm…..Có câu chuyện về món này, nghe đồn vì món
ăn quá thơm nên một vị sư không đừng được mà phải nhảy tường xem thử.
Các bạn gu gồ chi tiết nhé ^^. Còn phổi phiến phu thê là món cay Tứ
Xuyên, nguyên liệu chính là thịt bò, phổi, tim lưỡi… Nhưng bây giờ không dùng phổi nữa.
Tình cảnh này quá kỳ lạ, khiến ta nghĩ mãi mà không thể hiểu nổi. Cộng thêm
đôi tất dưới chân này hơi dày nên trơn trượt, đi trên sàn nhà bóng loáng chỉ chực ngã. Cho nên, ta đứng giữa nhà không nhúc nhích nữa.
Hắn không thèm để ý đến ta, dùng đũa bạc gắp miếng ớt đỏ như lửa trên con
gà mới nở đặt trong đĩa Đông An bỏ vào miệng, từ từ nhai, rồi rót rượu
uống. Ta thấy vậy mà đổ mồ hôi đầy người.
Hắn cầm chiếc khăn trắng toát lau tay, quay đầu cười nói với ta: “Thường
ngày Tướng quân vốn ngông cuồng tùy tiện, thổ phỉ nghe tiếng còn sợ mất
vía, sao hôm nay tới phủ của ta lại như vào đầm rồng hang hổ, không còn
khí khái thường ngày nữa vậy?”
Ta chợt ngẩng đầu lên, không tự chủ được mà lạnh lùng nhìn hắn. Thế nhưng
hắn không thèm để ý, trên mặt mang nét cười hờ hững. Đũa bạc kẹp giữa
hai ngón tay trái gõ lên đĩa sứ, theo tiếng gõ nhịp đó, hắn ngân nga
hát:
“Vừng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,
Vùng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người?”
* Bài thơ Trăng Quan San của Lý Bạch. Người dịch: Tản Đà.
Hắn hát đi hát lại hai câu này: “Từ xưa bao kẻ chinh phu, Đã ra đất chiến
về ru mấy người…” Giọng càng lúc càng thấp, cuối cùng khi không nghe nổi nữa thì hắn ngẩng mặt lên, ánh lệ lấp lánh trong mắt, “Từ xưa bao kẻ
chinh phu, Đã ra đất chiến về ru mấy người…”
Ta nhìn hắn với vẻ lạnh tanh, nhưng trong lòng đã hiểu: Hắn biết được thân phận của ta rồi.
Hắn ngẩng đầu nhìn ta, đôi mắt phiếm lệ, đột nhiên nhoẻn miệng cười: “Quân
thiếu tướng, thật ra lúc đao kia chém xuống, ta cũng không thoải mái hơn nàng.”
Ta cười ha ha, giơ chân trái lên cởi chiếc tất dày, rồi cởi nốt chân phải. Bấy giờ ta mới đi đến chiếc bàn bày đầy món ngon đó, ngồi xuống cầm
bát, gắp thịt cua đầu sư tử lên, cắn một miếng rồi nói: “Thịt cua thơm
ngát, vào miệng đã tan, quả nhiên không tệ…”
Hắn khẽ mỉm cười, đôi mắt trong vắt như nước. Rồi hắn đứng dậy, đích thân
dùng thìa bạc múc canh cá vào bát ta. Cất lời: “Thử món này đi, nấu
bằng cá chép vừa câu cắt miếng bỏ ruột, rắc thêm tảo biển cắt nhỏ, nàng
nhất định sẽ thích.”
Việc tốt thì không nhường người, ta uống một hớp, gật đầu nói: “Đúng là rất ngon.”
Hắn không nói lời nào, ta cũng không hỏi han, hắn gắp món ngon vào bát ta, ta liền ăn vài miếng.
Mùi thức ăn thơm phức tỏa khắp phòng, hòa với mùi hương trầm, cảm giác ấm áp thêm nồng đượm.
Rốt cuộc, khi ta ăn được kha khá rồi hắn mới nói: “Thảo nào nhị đệ lại
thích nàng như vậy, thích đến mức hồi đó để bảo vệ tính mạng của nàng,
thậm chí còn dám kháng chỉ, chỉ tuân lệnh điều tra tướng lĩnh Quân gia,
chỉ bỏ qua cho mình nàng.”
‘Keng’ một tiếng, vừa bần thần, đũa bạc trong tay ta đã rơi xuống, đập vào
cạnh đĩa sứ rồi rơi xuống đất, chạm phải sàn nhà phát lên tiếng trầm
lắng. Hắn khom lưng nhặt đũa lên, sau đó lấy cho ta một đôi đũa mới. Hắn đặt đũa vào tay ta, mỉm cười không nói gì.
Ta cầm đũa lên, thản nhiên nói: “Chuyện năm đó, ta đã tra xét mọi mặt, ngươi cho rằng ta sẽ tin ngươi sao?”
“Nhị đệ của ta, từ nhỏ đã biết tính toán kỹ lưỡng, nhưng việc nhị đệ am hiểu nhất chính là giả bộ làm người tốt, khiến ai ai cũng cho rằng nhị đệ
chỉ là một Hoàng tử không có chí lớn, không biết mưu mô giở thủ đoạn.
Đến năm mười ba tuổi ta mới học được chiêu trò này, đáng tiếc đã muộn.
Trong mắt Hoàng tổ mẫu, ta đã là một kẻ lạnh bạc, dù làm tốt đến đâu
Hoàng tổ mẫu cũng cho rằng ta đang diễn trò. Mà trong mắt Hoàng tổ mẫu,
nhị đệ tốt của ta lại là người chí tình chí hiếu. May thay, phụ hoàng
biết bản tính của nhị đệ… Nàng biết tại sao phụ hoàng lại biết bản tính
của nhị đệ không? Năm nhị đệ bảy tám tuổi, có một bà vú vô cùng thương
nhị đệ, thấy nhị đệ cả đêm ngủ không yên, muốn phụ hoàng đến thăm, liền
nghĩ cách chặn phụ hoàng giữa đường, cầu xin phụ hoàng liếc nhìn nhị đệ. Nhưng bà vú này xinh đẹp thùy mị, phụ hoàng lại để ý tới bà ta, thường
ngủ lại Trọng Hoa cung, đương nhiên lạnh nhạt Giang phi nương nương. Có
một ngày, nhị đệ chơi xúc cúc (*) ven hồ sen, cố ý đá bóng vào trong hồ
rồi bảo bà vú dùng cọc trúc khều vào. Nhưng không ngờ, lúc bà ta lấy
được bóng, nhị đệ liền đẩy bà ta xuống hồ. Nếu không phải phụ hoàng vừa
lúc đi ngang qua, cho người cứu bà ta thì nhị đệ đã hại chết người ta
rồi. Về sau bà vú này biết tâm tư của nhị đệ, không chịu uống thuốc,
nhiễm bệnh thương hàn rồi qua đời… Nhị đệ có thể tuyệt tình với người
đối tốt với mình, đối với nàng đúng là ngoại lệ.”
* Trò đá bóng của Trung Quốc thời xưa.
Ta cầm cái kìm đồng đỏ trên bàn bỏ mai và càng cua biển, dùng que trúc lấy thịt cua ra, chấm dấm gừng rồi đưa vào miệng từ từ nhai nuốt, lúc này
mới nói: “Van xin lợi ích thay chủ vốn đáng chết, chỉ bằng một lý do
nghe bùi tai mà không cần chết nữa sao?”
Hắn vỗ tay cười nói: “Thảo nào nhị đệ mê muội nàng như vậy, hai người ngay
cả ý nghĩ cũng giống nhau. Nhị đệ chưa bao giờ kháng chỉ, nhưng lại mở
một mắt nhắm một mắt với chuyện tráo người trên đoạn đầu đài, dành hết
công lao tru diệt tướng lĩnh Quân gia cho ta…” Hắn đột nhiên vỗ bàn,
“Lúc ấy sao bổn vương có thể ngu xuẩn như vậy, cứ tưởng cuối cùng nhị đệ cũng nhường ta một lần? Đến hôm nay ta mới hiểu tại sao nhị đệ phải ẩn
ra sau màn, để ta đối địch với Quân gia, để Quân gia cho rằng ta là kẻ
thu thập tất cả bằng chứng phạm tội, còn để Tần gia, nhà ngoại của mẫu
hậu, tiếp quản binh quyền Quân gia. Cứ như năm đó ta thu thập tất cả tội lỗi của Quân gia, vì muốn lấy binh quyền cho Tần gia mà đưa Quân gia
vào chỗ chết… Nàng nói xem, ta có oan uổng không?”
Ta cầm thân cua lên, dùng kéo cắt vỏ cứng của nó, nói: “Ngươi cho rằng ta sẽ tin lời ngươi nói sao?”
“Ngày mùng tám tháng chín năm Nhâm Sửu, có mật báo Quân gia lén câu kết với
Tây Di, tham gia tranh giành vương vị Tây Di. Mùng một tháng mười năm
Nhâm Sửu, có mật báo Quân gia đã thỏa thuận với Tây Di, giúp Ô Mộc Tề
làm Hãn Vương, đổi lấy sáu châu của Tây Di, Quân gia làm vua một xứ.
Ngày mùng mười tháng mười một năm Nhâm Sửu, Quân Triển Ngọc mang binh đi đánh Xá Thiết Mộc, khiến toàn quân bị tiêu diệt. Mười ngày sau, Ô Mộc
Tề được phong làm Thế tử Tây Di. Ngày hai mươi hai tháng mười một năm
Nhâm Sửu, toàn bộ tướng lĩnh Quân gia bị bắt, Ninh vương lập công đầu,
đầu tiên sai người hạ độc giếng nước của Quân gia, rồi phái Bát Tuấn vào thôn giết chết thủ phạm võ công cao cường kia. Sau đó Thái tử phái
người vào thôn, thuận lợi bắt được chúng phạm…”
Hắn đứng dậy, lấy lá thư đã niêm kín ở trong chiếc hộp nhỏ trên cái bàn
trước cửa sổ, đưa cho ta, nói: “Chỗ này chính là mật báo từ biên cương
ngày đó, mấy trang này là phần vô cùng quan trọng, nàng xem là bút tích
của ai đây?”
Dấu niêm phong thư đỏ chói như máu tươi còn động, cứ như vừa chạm tới, máu
sẽ nhiễm lên đầu ngón tay. Ta nhận lấy lá thư ấy, dấu niêm phong đã nứt
ra, như vết thương bị xé rách. Ta rút mấy tờ giấy trong phong thư ra,
còn chưa nhìn kỹ, nét chữ như rồng phá tầng mây đã đập vào mi mắt, chỉ
chớp mắt một cái, ta đã biết đây là chữ của ai.
Giấy vải màu vàng nhạt, đặt bút không hề do dự, ta thậm chí còn ngửi thấy
mùi mực Long Đức Ngự thơm ngát mà hắn dùng, lời tấu dồn người vào chỗ
chết như thể lưỡi đao ngập sát khí chém thẳng vào mặt ta.
Tiếng Thái tử vang lên bên tai, giọng nói lại mang chút thương hại: “Quân
tướng quân, người đến từ hoàng cung, không có ai là ngoại lệ cả.”
Đúng vậy, không có ai là ngoại lệ, dù gì hắn cũng sinh ra ở hoàng cung,
trưởng thành trong mưu lược, hắn có thể tạo vỏ bọc trung nghĩa lương
thiện cho mình. Ta vốn tưởng đã tính toán đâu ra đấy, tất cả rõ như lòng bàn tay, nhưng từ khi nào, tiềm thức của ta lại coi hắn như ngoại lệ?
Cho nên, khi nghe thấy lời này, trái tim tựa như bị càng cua cứng nhọn
đâm trúng, đau âm ỉ.
“Thật ra ta rất bội phục vị nhị đệ này, ngay cả cơ thiếp còn hiểu lầm ta.
Chẳng qua chỉ nóng lòng trách cứ Di nhi hai câu mà nàng đã phòng ta như
phòng sói. Dù gì nó cũng là con gái của ta, sau này có lẽ là con nối
dõi duy nhất của ta, sao ta có thể…?” Hắn cười khổ một tiếng, “Chẳng qua chỉ để nàng nhìn thấy ta đưa Di nhi vào gian phòng này, nàng đã quyết
định phản bội ta. Nói đến làm người tốt, ta mãi không thể thành thạo như nhị đệ.”
“Tại sao không nói mình đối xử với nàng quá nhẫn tâm?”