Tịch Ứng Chân nghe thế chỉ cười trừ, chả buồn giải thích. Trái tim của Nhạc Chi Dương lúc này đang đập dồn thình thịch, ngước nhìn hòn đảo trước mặt, đầu tưởng tượng về trận chiến kinh thiên động địa của Thích Ấn Thần và Linh Đạo Nhân năm xưa, phút chốc thần tình ngơ ngẩn đến quên mất bản thân nơi đâu.
Càng đến gần đảo, xung quanh càng lởm chởm đá ngầm, tảng nào tảng nấy đều cao bằng mấy người gộp lại, ở giữa thì thủy đạo chảy dọc ngang, uốn lượn lòng vòng, con thuyền nhỏ tiến vào nơi đó, chỉ thấy đá lớn che lấp bầu trời, không gian nhập nhoạng tăm tối, hai bên bờ vách cao sừng sửng, cái ngã cái nghiêng giống hệt răng nanh của một loài thú lớn như muốn xông đến gần.
Trong thủy đạo hết sức tĩnh mịch, chỉ có tiếng sóng xô vào vách đá phát ra âm thanh rào rạt, lúc thì như tiếng rắn nhả độc, khi lại như muôn quỷ thều thào, bầu không khí bí hiểm bao trùm khắp bốn phía, khiến cho tinh thần người ta bị tác động, sinh ra cảm giác thấp thỏm.
Thuyền lướt đi chừng nửa đường, xung quanh chợt trở nên tối sầm, những tiếng ri rỉ ra rả càng lúc càng phát ra dồn dập hơn, tựa như đang thì thầm rót vào lỗ tai, thôi thúc người ta chìm vào giấc ngủ. Cũng không biết là do quá mỏi mệt hay vì nguyên nhân nào khác, Nhạc Chi Dương cảm thấy mơ mơ hồ hồ, thân thể như bị nghìn cân đè nặng, chỉ muốn lăn ra sàn thuyền ngủ vùi một giấc.
Cơn buồn ngủ vừa trỗi dậy, chân khí trong thân thể Nhạc Chi Dương liền phản ứng ngay, tùy theo âm thanh lạ lùng đang vang vọng bên tai, chân khí ấy luồn sang đông, lách sang tây, khi thì nhanh như chớp giật, lúc lại chậm như rắn trườn. Gã đột nhiên tỉnh táo lại, quay đầu nhìn bốn phía, chỉ thấy một màu đen kịt âm u đến sợ, đây nào phải khung cảnh trần gian mà ngược lại như chốn âm tào địa phủ thì đúng hơn. Chợt đâu, gã rùng mình một cái, trong lòng nảy ra thắc mắc: “Tại sao thủy đạo này lại dài như vậy, chiếc thuyền đi cũng đã lâu mà mãi vẫn ko thấy điểm kết thúc?”
Bốn bề yên tĩnh đến kỳ lạ, Nhạc Chi Dương đưa mắt nhìn sang, Diệp Linh Tô lúc này hai tay đang ôm gối, đôi mắt khép hờ, hai hàng mi dày khẽ lay động, bờ má trắng phao nhuộm đẫm ráng chiều, chóp mũi thoáng phập phồng thở ra từng làn hơi sâu và mỏng, trong đó ẩn ước hương thơm ngạt ngào mê đắm.
Nhạc Chi Dương càng thêm hoảng hốt, đưa mắt nhìn tiếp, chỉ thấy Tịch Ứng Chân đang xếp bằng ngồi thẳng, hai mắt nửa nhắm nửa mở, lộ ra vẻ đờ đẫn. Nhạc Chi Dương cảm giác không ổn, đang định mở miệng hét lên, nhưng không hiểu vì sao lời vừa lên đến cổ họng thì cơ thể rã rời, một chữ cũng không buồn nói nữa.
Lại nhìn sang Minh Đấu và Xung đại sư, bọn họ cũng rơi vào tình cảnh tương tự. Xung đại sư vô cùng kỳ lạ, hai mắt rõ ràng mở to nhưng lại không hề có chút thần thái, cứ ngơ ngác nhìn về phía trước, gương mặt tuấn tú nom hệt như một chiếc mặt nạ được tạc từ ngọc trắng, bóng râm từ những mô đá lướt qua gương mặt của y trông rùng rợn đến mức khiến cho người ta phải sởn gai ốc.
Nhạc Chi Dương càng nhìn càng thấy kỳ quái, thoảng như đang rơi vào một cơn ác mộng không hồi kết, rõ ràng là trông thấy những người khác ở trước mặt, giơ tay ra là có thể chạm đến nhưng chẳng hiểu vì sao chân không thể nhấc, tay không thể vương, duy chỉ có luồng chân khí trong cơ thể là đang lưu chuyển theo âm thanh rỉ rả kia, lúc lên lúc xuống, thoắt nhanh thoắt chậm.
Gã kèn cựa cùng cơn buồn ngủ, hận không thể chết đi cho rồi, nhưng với chút ý chí còn sót lại cùng luồng chân khí để mặc cho âm thanh kỳ lạ kia dẫn dắt, trên chạy đến huyệt Bách Hội, dưới chảy xuống huyệt Dũng Tuyền, đi qua năm bảy vòng chu thiên, cơn buồn ngủ mới dần dần suy giảm. Không khí trong lồng ngực gã chuyển động, càng tích càng dày như muốn bung ra khỏi cơ thể.
Đột nhiên, Nhạc Chi Dương ngẩng đầu lên trời thét dài một tiếng, tiếng thét bị những mỏm đá ngầm cản trở làm dội về những tiếng ngân vang vọng. Âm thanh ra rả kia vì thế có chút suy yếu đi, Nhạc Chi Dương tức thì như trút bỏ gánh nặng, bất ngờ có thể cử động trở lại.
Bốn người kia như vừa choàng tỉnh mộng, hai mắt mở to, vẻ mặt ngẩn ngơ. Tịch Ứng Chân nhìn xung quanh, buột miệng hỏi:
– Chúng ta đi vào được bao lâu rồi?
Nhạc Chi Dương vội đáp:
– Đi cả nửa ngày rồi, thế nhưng còn chưa cập bờ.
– Nói xằng…
Minh Đấu đang định mắng gã thì Xung đại sư cản lại, bảo:
– Minh huynh không nhận ra sao? Vừa rồi chúng ta đã bị mắc bẫy.
Minh Đấu còn đang sửng người, Xung đại sư chợt xé bỏ hai mảnh tăng bào, vò lại rồi nhét kín lỗ tai. Tịch Ứng Chân cũng làm theo tương tự. Hai người chia nhau nắm lấy mái chèo, cố sức lái thuyền tiến về phía trước. Thủy đạo vẫn ngoằn ngoèo như cũ, đôi khi đằng trước lại xuất hiện lối rẽ. Hai người loay hoay xoay chuyển, một lúc sau chợt thấy phía trước hé ra chút ánh sáng, vội hè nhau hướng thuyền về nơi ấy, tức thì lại đổ trở ra biển lớn.
– Ôi! – Diệp Linh Tô kêu lên: – Sao lại trở ra thế này?
– Trở ra được là còn may đấy! – Tịch Ứng Chân ném bỏ mảnh nhét tai, thở hắt ra một hơi dài. – Nếu ở lại trong thủy đạo đó, sợ rằng cả đời cũng không ra ngoài được đâu.
Xung đại sư cũng buông mái chèo xuống, liếc mắt nhìn Nhạc Chi Dương, chợt mỉm cười nói:
– Lão đệ bản lĩnh thật, bốn người chúng ta đều bị mê man, chỉ trừ mỗi ngươi là tỉnh táo vô sự.
Nhạc Chi Dương cũng lấy làm lạ, tạm thời chẳng biết đáp trả thế nào. Minh Đấu không kềm được hét lên:
– Xung đại sư, ông úp úp mở mở cái gì thế, sao ta nghe không hiểu?
Xung đại sư lắc đầu thở dài:
– Thủy đạo này trông có vẻ bình thường, nhưng thật ra là một mê cung. Nhưng nếu là mê cung thì cũng không có gì đáng nói, điều đáng sợ chính là âm thanh trong thủy đạo, nghe qua thì nhỏ xíu khó phân biệt nhưng vô hình trung lại làm tinh thần bị mê hoặc. Bần tăng nhất thời không nhận ra, lại vì đang chèo thuyền, cho nên mới bị rơi vào giấc ngủ mất một lúc, nếu không có tiếng hét của Nhạc lão đệ lay tỉnh, chỉ sợ cả đời này bị nhốt trong chốn thủy đạo, vĩnh viễn không có lối ra.
Những người khác nghe xong, không ai là không giật mình. Nhạc Chi Dương bấy giờ mới hiểu ra, nếu như mọi người ngủ mê là vì âm thanh trong thủy đạo, còn bản thân không bị trúng chiêu, đấy hoàn toàn là do công lao của Linh Phi Kinh cả. Gã đã luyện đến cảnh giới Địa Lại, chân khí tùy theo âm thanh mà chuyển động, vì thế mới giữ lại được chút tỉnh táo cho riêng mình.
Nghĩ đến đây, gã lại nảy sinh thắc mắc, tiếng ra rả ấy trong thủy đạo rốt cuộc từ đâu mà ra, là do thiên nhiên tạo tác hay bởi bàn tay con người nhúng vào? Nếu là bàn tay con người, thì hẳn không phải tác phẩm của Thích Ấn Thần thì cũng là thần thông của Linh đạo nhân.
Chợt, gã nghe Tịch Ứng Chân nói:
– Trận đồ này quả là lợi hại, mê cung hay âm thanh lạ kia tạm không nói tới, nhưng vì người bình thường lênh đênh trên biển đã lâu, đến được hòn đảo này hay có tâm lý nôn nóng muốn lên bờ, tất nhiên sẽ không lưu tâm đến đá ngầm. Tinh thần một khi lơ đễnh, những thứ tà đạo bên ngoài sẽ như nước rỏ xuyên đá, âm thầm thâm nhập vào trong trí óc. Đại hòa thượng nhà ngươi thiền tâm không vững nên mới bị quẫy nhiễu, còn bần đạo đương lúc luyện khí mông lung nên cũng bị sa vào bố trận. Thích Ấn Thần tạo ra cơ quan như thế không hổ năm xưa là một bậc kỳ nhân.
Minh Đấu sốt ruột hỏi:
– Trận địa này lợi hại như vậy, Trúc Nhân Phong và Thích Vương Tôn làm sao mà vào được?
Xung đại sư nói:
– Bọn họ đến hay chưa còn khó nói, nhưng cho dù có đến nơi này cũng chưa chắc vượt qua được mê trận đâu.
Diệp Linh Tô khẽ nhíu mày nhìn lên đảo, nói:
– Chúng ta vẫn phải lên đảo sao?
Xung đại sư cười bảo:
– Đến núi vàng mà về tay không coi sao được? Trận đồ này chỉ đáng sợ khi không biết thôi, một khi nắm rõ lợi hại tự nhiên có thể dễ dàng vượt qua.
Nhạc Chi Dương chớp mắt vỗ tay cười:
– Ta biết rồi, chúng ta hãy đi qua bằng cách bước lên trên những mô đá ngầm.
Xung đại sư mỉm cười:
– Nhạc lão đệ nhạy bén cơ trí, quả là một người thông minh.
Mọi người ngẩng đầu quan sát, đá ngầm dẫu cao lớn nhưng cũng không làm khó được năm người, ai nấy đều lập tức tự xé lấy mảnh áo bịt chặt lỗ tai, kế đó lái chiếc thuyền nhỏ đến bên dưới một mỏm đá. Nhạc Chi Dương cúi đầu nhìn xuống, thông qua làn nước biển trong vắt, có thể được thấy vô số kẽ nứt chi chít nằm dưới thân đá ngầm, cái lớn cái nhỏ, nối nhau hàng hoạt, nước biển xô vào kẽ nứt làm phát ra âm thanh kỳ lạ.
Nhìn kỹ hơn, những kẽ nứt này quá mức ngay ngắn, không giống như bị nước biển ăn mòn mà thành. Còn nếu nói do sức người tạc ra thì thật khó bề tin nổi, gần như là phải đục khoét dưới nước, nào phải chuyện một sớm một chiều có thể hoàn tất, chưa kể đến ngàn vạn khe rỗng phát ra âm thanh thôi miên nói trên, sự kỳ diệu trong âm luật của nó hầu như đã cận kề với đạo trời.
Lúc này không chỉ Nhạc Chi Dương kinh ngạc, những người khác đều rút lại sự khinh địch, không dám xem nhẹ chủ nhân trên hòn đảo này nữa.
Năm người trèo lên vách đá, liếc mắt nhìn xuống, chỉ thấy dưới chân đá nham xen kẽ, ngàn lần vặn xoắn. Xung đại sư miên man suy nghĩ, chợt quay lại hỏi:
– Tịch chân nhân, ngài tinh thông dịch số âm dương, dám hỏi mê cung này là do trời đất tạo ra hay có người sắp đặt?
Tịch Ứng Chân quan sát một lúc rồi nói:
– Bảy phần do trời sinh, ba phần nhờ sức người, Thích Ấn Thần quyết định cho đặt mộ phần mình ở nơi đây thật ra cũng có lý do của nó.
Xung đại sư mỉm cười bảo:
– Xin được nghe tường tận!
Tịch Ứng Chân liền dẫn giải:
– Cơn gió lạ của hòn đảo này, dưới thông linh căn đáy bể, trên ứng với sao Liêm Trinh thuộc chòm Bắc Đẩu, hơi nước tràn trề, tứ bề gió lớn, thật là nơi hội tụ phong thủy. Nhưng dẫu có là vậy cũng chỉ là một nơi núi hoang đảo vắng, linh khí thời tụ thời tán, thế nhưng ngoài cảnh sắc tuyệt diệu ra, xung quanh nơi đây còn sinh ra những mỏm đá ngầm khổng lồ, được núi vây biển ấp, tích nước trữ gió, hệt như rồng biển ôm trăng, khiến cho muôn vạn linh khí dồn cả vào trong đảo. Ngươi nhìn cỏ cây trên đảo mà xem, thực vật xanh mướt um tùm, sức sống mãnh liệt, nếu là một hòn đảo hoang bình thường liệu có cảnh tượng như thế này chăng?
Mọi người đứng trên mô đá nghe đến say sưa, chăm chú nhìn về đỉnh núi đằng trước, trong lòng nảy sinh cảm giác tôn kính. Xung đại sư chấp tay cười:
– Tịch chân nhân không hổ danh là đế sư của Đại Minh, kiến thức quả nhiên cao minh, vậy theo ngài thấy, liệu nơi đây có phải là long mạch của Đông Đảo hay không?
Diệp Linh Tô biến sắc, tức giận quát:
– Con lừa trọc, ta đoán ra rồi, thì ra ngươi đào mộ trộm báu là giả, cắt đứt long mạch của Đông Đảo ta mới là thật phải không?
Xung đại sư mỉm cười không đáp, Tịch Ứng Chân lại lắc đầu bảo:
– Phong thủy trên biển cả khác với đất liền, Trung Thổ muôn non nghìn núi trập trùng, khí mạch chạy dài sâu xa, long mạch hướng về đâu, đế vương xuất hiện nơi đó. Còn hòn đảo này tuy có khí thế rồng biển mạnh mẽ ngút trời, tiếc thay chỉ là một con rồng đơn độc thăng thiên, một tay vỗ chẳng thành tiếng, bốn bề lại là biển cả điệp trùng, nước biển là vật lưu động, linh hoạt thì có thừa nhưng lại thiếu bề vững chãi. Vì thế đời đời người Đông Đảo vừa chẳng có cơ hội làm đế vương vừa thiếu hụt khí chất đế vương, hoặc là tuy có tài năng của đế vương nhưng lại không có ý chí của đế vương.
Diệp Linh Tô nghe đến đây liền lặng lẽ nhớ lại, mấy chục năm qua Đông Đảo tranh hùng thiên hạ, người chết vô số, kết quả cuối cùng bại dưới tay Chu Nguyên Chương, chính là ứng với câu “Vừa chẳng có cơ hội làm đế vương vừa thiếu hụt khí chất đế vương”, thế còn hai câu “Tài năng đế vương” và “Ý chí đế vương” thì chưa có dịp kiểm chứng.
– Chân nhân có kiến giải độc đáo, tiếc là thuật phong thủy trước nay không căn không cứ, đạo trời vốn mênh mông vô tận, sao có thể tỏ tường hết được? Thời vận cũng như nước biển, càng là vật lưu động, chỉ cần truy ra căn nguyên, không hẳn là không thể biết được thiên cơ. Hà huống chi, đời người trăm năm rồi cũng có lúc thành xương trắng, đã có cùng một kết thúc là cái chết, thay vì chết trong im lìm lặng lẽ, thôi thì chết sao cho oanh oanh liệt liệt; kể đến phần thắng bại, thắng thì tất nhiên đáng mừng, mà có bại cũng không việc gì hối tiếc.
Tịch Ứng Chân nghe xong phải lắc đầu:
– Đại hòa thượng, ngươi thân là đệ tử thiền môn, lại không thông thế thái, chấp nhặt chuyện trần tục.
Xung đại sư mỉm cười:
– Tịch chân nhân thân là đệ tử Huyền Môn, chẳng phải cũng không buông bỏ được sự đời hay sao? Cửa Thiền vốn linh động không giới hạn, chỉ cần tâm tính sáng ngời, ăn uống hành động đều hợp với đại đạo, những nhu cầu cơ bản của con người đều không nằm ngoài Thiền cơ. Tịch chân nhân áp dụng Đạo pháp vào đời, có thể phù trợ họ Chu xưng đế, bần tăng đem Phật pháp vào trần tục, không hẳn là không trợ giúp Mông Nguyên phục quốc được. Nếu như sức lực yếu kém, bị sa chân vào lưới trần, thì cũng là do bần tăng tự làm tự chịu; còn nếu như lực đạo đủ đầy, lấy chinh phạt làm tu hành, hóa chiến trường thành Đạo trường, lẽ nào không thể vừa đạt được thành tựu, vừa lãnh hội được đạo lý ư?
Tịch Ứng Chân tạm thời cứng họng, dẫu cho ông có trăm nghìn đạo lý, nhưng phò tá Chu Nguyên Chương vẫn là chuyện đã xảy ra. Cùng là người xuất gia, nếu ông phê phán Xung đại sư thì bản thân cũng khó tránh nỗi hiềm vừa ăn cắp vừa la làng.
Xung đại sư nhìn ra tâm lý đó của ông bèn cười ha hả. Y bước đi trên mô đá ngầm, chân không chạm đất, theo hướng đảo mà tiến lên. Minh Đấu cũng gấp rút theo sau, Nhạc Chi Dương vội giục:
– Nhanh lên, đừng để cho bọn chúng đi trước.
Tịch Ứng Chân vừa bị nói trúng tim đen, trong lòng chán ngán, thở dài nói:
– Nhóc con, chúng ta lên đảo rồi thì có thể làm gì chứ?
Nhạc Chi Dương còn đang chưng hửng, Diệp Linh Tô đã xen vào:
– Nếu chúng ta không lên đảo, mấy tên này chẳng phải sẽ trục lợi thành công hay sao?
Nhạc Chi Dương cũng tán đồng:
– Phải đó, nếu như trong cổ mộ Ấn Thần thật sự có võ công lợi hại, rơi vào tay tên hòa thượng này thì sẽ như hổ mọc thêm cánh.
Tịch Ứng Chân trải qua chiến tranh loạn lạc, sớm đã mỏi mệt với việc tranh đấu, nghe xong những câu nói của Xung đại sư, ngẫm lại công lao sự nghiệp trong đời, đa phần chỉ là chinh phạt chém giết, kẻ xảo người dại, hầu như đã đi ngược lại với tôn chỉ “Thanh Tịnh Vô Vi” của Đạo gia. Vì vậy cõi lòng ông trở nên nguội lạnh, nhất thời chỉ muốn lánh xa mọi chuyện. Nhưng nghe Nhạc Chi Dương nói xong, ông thầm nghĩ Xung đại sư ấp ủ chuyện xấu, bản lĩnh càng cao thì mầm họa càng lớn, nếu võ công Thích Ấn Thần lọt vào tay y, hậu quả thật khôn lường.
Nghĩ đến đây, Tịch Ứng Chân vực dậy tinh thần, dẫn theo hai người cùng tiến lên. Năm người vừa rời khỏi đám đá ngầm được mấy bước, chợt nghe thấy phía trước vọng đến tiếng người. Tiến lên quan sát, bãi đất trống ở đằng xa có hai kẻ đang đứng xoay lưng lại ngó dáo dát xung quanh.
Hai kẻ nọ nghe thấy tiếng động liền song song quay đầu lại. Thích Vương Tôn trông thấy năm người, giật mình hét lên:
– Ối trời ơi, các người sao có thể vượt qua được Hải Âm Mộng Điệp Trận thế?
Xung đại sư cười hỏi:
– Thì ra thạch trận ấy gọi là Hải Âm Mộng Điệp Trận à? Nom dáng vẻ của Thích tiên sinh thì hình như bọn ta đi qua được trận đồ này khiến cho ông có chút thất vọng nhỉ?
Thích Vương Tôn thừ người ra giây lát rồi cười xòa:
– Làm gì có! Đại sư qua được thạch trận, ta vui mừng còn không kịp đấy chứ!
Xung đại sư liếc mắt nhìn y, lại quay sang Trúc Nhân Phong cười bảo:
– Trúc lão đệ thật là thông minh lanh lợi, cướp thuyền bỏ chạy không nói, còn mang cả Trúc tiên sinh theo cùng. Bần tăng mà kém may mắn một chút chỉ sợ đã không gặp được hai vị rồi.
Y nói nói cười cười vẻ hết sức khách sáo, Trúc Nhân Phong lại cảm giác câu nào câu nấy xoáy thẳng vào tim, da mặt hắn co giật rồi cười gượng:
– Có câu rằng “Vợ chồng vốn là chim liền cánh, gặp nạn chim nào nấy tự bay”(*), vợ chồng còn như thế, đại hòa thượng cớ chi phải đặt nặng? Ta mà không đi, há chẳng lẽ cùng ông chết chìm chết cháy hay sao?
(ND chú: nguyên văn là “Phu Thê Bổn Thị Đồng Lâm Điểu, Đại Nan Lai Thì Các Tự Phi”)
Xung đại sư xua tay bảo:
– Thôi việc này tạm thời không nhắc nữa. Thích tiên sinh, ông an nhiên qua được thạch trận, nghĩ chắc là ông cũng biết cổng vào mộ huyệt ở đâu nhỉ?!
– Hổ thẹn, hổ thẹn! – Thích Vương Tôn mặt mày khổ sở: – Lúc cha ta qua đời chỉ nói cho ta biết vị trí hòn đảo cũng như cách thức đi vào đảo, ý muốn ta đến nơi đây làm lễ cúng bái, căn bản không nghĩ đến việc ta sẽ vào trong mộ phần. Ầy dà, nói thật, không có đại sư chỉ bảo, ta còn không biết đến mớ bảo bối chứa bên trong ấy đấy.
Nhắc đến hai từ “bảo bối”, hơi thở của hắn trở nên dồn dập, hai mắt lóe lên vẻ tham lam.
Diệp Linh Tô thấy hắn lố lăng ra mặt như thế, không kềm được tức giận, mắng to:
– Thích Vương Tôn, trên trần gian này còn có loại con cháu dẫn kẻ lạ đến đào mộ tổ tông như ngươi sao?
Thích Vương Tôn mặt đỏ tía tai, cố gân cổ lên cãi:
– Ta đào mồ mả tổ tiên nhà ta, can gì đến ngươi?
Diệp Linh Tô chẳng còn lời nào để đáp lại, nghĩ bụng: “Phải rồi, hắn là người nhà họ Thích, tự đào mồ mả tổ tiên nhà hắn thì có can hệ gì tới ta đâu?”
Tịch Ứng Chân cũng lắc đầu ngao ngán, thở dài:
– Thích Vương Tôn, ngươi ắt hẳn là nghe lời dụ dỗ của tên hòa thượng này cho nên ma xui quỷ khiến mới đi đào mộ tổ tiên mình lên.
– Lão mũi trâu như ngươi hiểu cái rắm gì! – Thích Vương Tôn càng tỏ ra hung hăng: – Cha ta đặt tên cho ta là Vương Tôn, ngươi xem, ta có chút gì giống với bộ dáng của vương tôn hay không? Ta sống mốc meo cả nửa đời, chịu cùng chịu cực cả nửa đời, tổ tiên thử hỏi có phù hộ cho ta lần nào hay chưa? Xung đại sư nói có lý, tổ tiên nếu như có linh thiêng trên trời, nhất định sẽ phù hộ cho ta phát tài, mà nếu như ta phát tài rồi, còn cần gì phải đi đào mộ phần của họ lên nữa?
Kẻ này chẳng những tham lam mà còn dại dột, phản bác cho đã đời xong hắn còn đem cả lời xúi giục của Xung đại sư nói ra tuốt tuột. Dạy người khác tự đào mộ tổ tiên vốn chẳng phải là chuyện vẻ vang gì, Xung đại sư tuy da mặt dày nhưng cũng không tránh khỏi nóng ran, bèn ho khan hai tiếng bảo:
– Thích tiên sinh, mấy chuyện này tự bản thân hiểu là được rồi, nói nhiều vô ích với kẻ khác làm gì!
Thích Vương Tôn mặt mày hăm hở, lia lịa gật đầu với Xung đại sư:
– Đúng, đúng, vẫn là Xung đại sư cao minh, giờ nói cái gì cũng bằng thừa, đợi bảo bối vào tay mới chắc chắn.
Mọi người thấy bộ dạng hắn như vậy, thảy đều dở khóc dở cười, không nghĩ trên đời lại có kẻ đần đến mức đi tin những lời xằng bậy của Xung đại sư. Trước tiên khoan nói đến trong mộ huyệt có bảo bối hay không, cho dù là có thật thì với một Thích Vương Tôn yếu ớt hèn kém thế này, sau khi lấy xong bảo bối cũng đừng mong giữ lại được.
Tịch Ứng Chân bản tính đôn hậu, vốn muốn khuyên nhủ kẻ này biết sai mà quay đầu, nhưng thấy hắn tỏ vẻ cố chấp, liền không nhịn được chán nản, ông ngẫm nghĩ giây lát lại hỏi:
– Thích Vương Tôn, ngươi xuất thân con nhà võ, sao lại không học võ công?
Thích Vương Tôn không ngờ ông lại nhắc đến chuyện này, ngẩn ra một thoáng rồi buột miệng đáp:
– Không chỉ ta không học võ công, cả cha ta cũng không biết võ. Nghe bảo, vì ông nội chết sớm nên một chiêu võ công nhà họ Thích cũng không truyền lại.
Tịch Ứng Chân thầm thở dài, trong dạ không khỏi tiếc nuối, nghĩ lại Thích Ấn Thần, Thích Thiên Phong năm xưa oai thế bao nhiêu, nào ngờ được đến hôm nay, con cháu của họ lại rơi vào tình cảnh như vậy. Chợt nghe Xung đại sư cười bảo:
– Tịch chân nhân, ngài có biết ông nội của hắn là Thích Hưu Minh vì sao mà chết không?
– Vì sao? – Tịch Ứng Chân hỏi.
– Kỳ Ngao Đầu Luận Kiếm năm ấy, Thích Hưu Minh bại dưới tay Vân Đình, con trai Vân Thù, nên đánh mất ngôi vị đảo chủ. Thích Hưu Minh trong cơn nóng giận, đã dẫn vợ mọn con thơ rời khỏi Đông Đảo. Vì một ngày quay lại giành giật vinh quanh, ông ta cố gắng luyện tập một môn nội công thượng thừa, thế nhưng trong kỳ luận kiếm ông ta đã bị thương sẵn, nội thương chưa khỏi mà cố luyện thần công dẫn đến tẩu hỏa nhập ma rồi lăn đùng ra chết tốt. Lúc đó ông ta mới cưới vợ chưa lâu, con trai Thích Đại Phương còn chưa tròn ba tuổi. Thích Hưu Minh trước khi chết có gởi gắm vợ con lại cho thầy của ta. Thầy ta liền sắp xếp cho bọn họ ở lại bên cạnh chùa, âm thầm bảo vệ. Vợ của Thích Hưu Minh vì nông cạn ngây ngô, sợ con trai tập võ cậy tài, giẫm lên vết xe đổ của chồng thị, cho nên đã thiêu hủy hết các bí tịch tổ truyền, dẫn đến các đời sau nhà họ Thích chẳng ai còn biết võ công nữa.
Tịch Ứng Chân nhìn sang Thích Vương Tôn, trong lòng ngổn ngang cảm xúc, gật đầu nói:
– Hóa ra là như thế, thảo nào hắn lại rơi vào tay ngươi rồi trở thành một quân cờ đối phó Đông Đảo.
– Chân nhân lại nói sai rồi. – Xung đại sư mỉm cười: – Bần tăng làm thế chẳng qua là thay trời hành đạo. Nhớ lại năm xưa Thiên Cơ Cung gặp kiếp nạn, hai nhà Hoa – Vân không nơi tá túc, may thay được vợ chồng Thích Thiên Phong thu nhận giúp đỡ mới có thể thoát khỏi sự truy đuổi của Đại Nguyên. Nào hay vật đổi sao dời, hai nhà này lại mưu đồ “chim cưu chiếm tổ chim khách”, ép cho Thích gia phải rời bỏ Đông Đảo, nhà họ Vân thoắt cái trở mình thành chủ nhân đảo Linh Ngao, hành vi này cực kỳ vô liêm sỉ, nếu không đòi lại lẽ công bằng thử hỏi thiên lý còn hay không?
Tịch Ứng Chân còn chưa đáp trả, Diệp Linh Tô sớm đã nghe không lọt tai, lớn giọng nói:
– Lừa trọc thối, ngươi cứ luôn mồm thay trời hành đạo, thật ra đều vì dục vọng của riêng mình, nếu ngươi thật sự nghĩ cho nhà họ Thích, tại sao lại xúi giục Thích Vương Tôn đi đào mộ phần tổ tiên?
Xung đại sư cười bảo:
– Con nhãi ranh như ngươi thì hiểu cái gì? Người chết rồi sẽ vào vòng luân hồi, thứ còn sót lại chỉ là xác thịt, cho nên đa số đệ tử Phật môn đều chọn hỏa táng để không tồn lại thân xác. Người Mông Cổ chúng ta sau khi chết, được chôn vào lòng đất, muôn ngựa giẫm đạp lên cũng không để lại bất cứ mộ phần nào. Còn người Hán xây dựng bia mộ chỉ làm hao người tốn của, bảo vật theo đó cũng mai một thất lạc, càng thêm lãng phí lớn lao, thay vì để chúng bầu bạn với người chết, thôi thì giao cho người sống thụ hưởng còn hơn. Đạo lý này nói ra thì đơn giản nhưng để thực hiện thì không dễ dàng gì, cũng chỉ có bậc trí thức như Thích tiên sinh đây mới có thể phá bỏ hủ tục, làm những việc phi thường.
– Đúng, đúng! – Thích Vương Tôn mặt mày hớn hở, gật đầu lia lịa, nhìn Xung đại sư bằng ánh mắt thắm thiết tri kỷ.
Tịch Ứng Chân bất giác lắc đầu cười khổ:
– Đại hòa thượng, bất kể chuyện oái oăm gì rơi vào miệng ngươi đều biến thành lý lẽ xác đáng cả.
– Đạo trưởng nói phải. – Nhạc Chi Dương không đợi cho Xung đại sư kịp lên tiếng, cười khì khì xen vào: – Cũng giống như việc trồng hoa vậy, vun bón vào rõ là cứt đái, nhưng lớn lên lại là hoa tươi. Bất kể cái thứ hôi thối thế nào qua miệng vị đại sư đây cũng có thể nở ra đóa hoa thơm ngào ngạt cả.
– Nhạc lão đệ tưởng tượng hơi quá rồi! – Xung đại sư không giận không vội, điềm tĩnh đáp lời: – Đạo Phật ta xem mỹ nữ như xương khô, bần tăng lấy cứt đái hóa tiên hoa, xấu đẹp tựa nhau, thơm thối như một! Phật Pháp vốn diệu kỳ, không gì so sánh được.
Nhạc Chi Dương vừa tức vừa buồn cười, bảo:
– Hóa ra cứt đái cũng là Phật Pháp, vậy xem ra làm chó cũng có thể thành Phật rồi.
Trong lời của gã có ý ngầm mắng Xung đại sư là chó. Xung đại sư dường như không nhận ra, vẫn cười khì khì đáp:
– Phật dạy chúng sinh bình đẳng, trong vòng lục đạo thảy đều có thể thành Phật, chó thuộc đạo súc sinh, thăng thiên thành Phật thì có gì là lạ?
Nhạc Chi Dương dẫu cho mồm mép lanh lợi, đến nước này cũng không còn gì nói được, đành chép miệng:
– Hòa thượng giỏi lắm, xem như ngươi lợi hại, so về mặt vô sỉ hạ lưu, Nhạc Chi Dương ta xin chào thua.
Xung đại sư cười khà khà, ánh mắt lướt qua mọi người, chắp tay bảo:
– Mọi người đi đường đã mệt mỏi, hay là tìm một nơi để nghỉ ngơi lấy sức, đợi đến khi sinh lực dồi dào mới đi tìm cửa vào mộ huyệt vậy.
Trải qua một phen sóng gió, mọi người đều cảm thấy đói khát. Trên đảo rừng xanh ngun ngút, khói tỏa mịt mờ, suối trong văn vắt thấy rõ cả đá bên dưới, thi thoảng lại có chim bay thú chạy ẩn hiện xung quanh. Minh Đấu dùng một phiến đá đánh chết một con sơn dương, nhóm một đống lửa ven suối rồi nướng thịt dê đến lúc mỡ tươm vàng rượm, hương bay ngào ngạt.
Đám người Xung đại sư xúm quanh đống lửa để chia thịt, trong khi Tịch Ứng Chân thì đang xếp bằng ngồi một bên. Xung đại sư không thấy Nhạc Chi Dương và Diệp Linh Tô đâu, bèn hỏi:
– Tịch Chân Nhân, hai người bạn nhỏ đi đằng nào rồi mà để tiền bối lại đây chịu đói, thật là lớp trẻ không phải phép mà!
Tịch Ứng Chân từ tốn đáp:
– Đại hòa thượng lại gây xích mích chia rẽ rồi, tiếc là ngược lại tụi nó thấy ta già cả nên để ta ở lại đây chờ thưởng thức món ngon sắp sẵn đấy.
Chợt nghe tiếng chim xáo xác phía đằng xa lẫn cùng tiếng đập cánh phạch phạch, chẳng bao lâu sau, chỉ thấy Diệp Linh Tô đủng đa đủng đỉnh, xách theo một cặp gà bông đi ra khỏi bìa rừng. cô tiện tay ném chúng xuống đất rồi ngồi sang một bên ôm gối, ngơ ngẩn thả hồn theo dòng suối. Tịch Ứng Chân hỏi:
– Nhạc Chi Dương đâu?
– Không rõ! – Diệp Linh Tô lắc đầu: – Thống nhất với nhau, ta bắt gà, hắn nấu cơm, nhưng chớp mắt sau ta cũng không biết hắn chạy tót đi đằng nào rồi!