Từ khi Mã phu nhân thu nạp thanh nang và tìm ra được địa huyệt, bà suốt
ngày cùng Lý Thanh Hoa và hai Cẩu đầu quái lo dọn dẹp, chỉnh trang nơi
đó.
Trong sơn trang ai cũng mắc bận công việc. Chỉ chờ tới bữa cơm tối, mọi
người tụ họp ăn uống bữa cơm chót trong ngày, mới cùng nhau thăm hỏi trò chuyện, bàn soạn công việc ngày hôm sau.
Có hai người được cưng chiều nhất trong sơn trang, không nói ai cũng
biết là Vương Nhi và Tiểu Bạch. Đáng lý ra, hai người không phải làm
công việc gì hết.
Nhưng Tiểu Bạch không phải là cô gái chịu ăn không ngồi rồi. Cô thích
chăm lo tới kẻ khác hơn là chờ đợi được người khác săn sóc tới mình.
Nàng đóng vai nữ khán hộ thuốc thang và cho ăn cho uống nhà sư đầu sắt
và đôi vợ chồng đương xung khắc trong bệnh xá. Lẽ tất nhiên, nàng không
thể làm việc đó một mình, phải có sự giúp đỡ ban đầu của Vương Nhi.
Đôi vợ chồng cổ quái đau đớn rên la không ngớt. Lúc đến cơn, một người
thoát hàn khí, một người thoát nhiệt khí. Biết là nguy hiểm mà cả hai
không chịu hợp tác cứu chữa cho nhau.
Tiểu Bạch đã từng luyện võ công, nội lực rất thâm hậu. Thế mà lúc hai
người này lên cơn, luồng chân khí đi ngược lại hành hạ thì nàng cầm tay
họ cũng không nắm lâu được. Một bàn tay nóng như cục than hồng. Một bàn
tay cóng như cục tuyết lạnh.
Một hôm Tiểu Bạch chợt nảy ra ý nghĩ muốn giúp đỡ họ một cách kín đáo,
âm thầm. Nàng kê hai giường bệnh nhân sát lại gần nhau, nhưng chừa một
lối đi giữa và ngăn hai giường bằng tấm mềm mỏng để hai người không
trông thấy nhau.
Nàng ngồi ở giữa, phía trên đầu giường hai người và một tay nắm tay
người vợ, một tay nắm tay người chồng. Nàng định thần điều tức cho luồng nhiệt khí của người chồng hòa hợp với hàn băng của người vợ rồi cho
chạy về châu thân họ.
Như vậy may ra kéo dài được đời sống của hai người, lẽ tất nhiên, bàn
tay của Tiểu Bạch nắm lấy bàn tay sần sùi của ông chồng cũng như bàn tay khẳng khiu của bà vợ, họ đều vui lòng, cám ơn sự trìu mến của cô gái mù đáng mến.
Cái công việc tự nguyện làm trung gian giải nóng lạnh cho hai bệnh nhân
nọ, mới đầu chính nàng cũng coi thường, không có chuyện gì lạ. Nhưng một thời gian lâu sau nó ảnh hưởng rất lớn đến đời Tiểu Bạch.
... Vì từ lúc hai con bệnh đi ngủ yên, không cục cựa. Tiểu Bạch đứng dậy trở về phòng nghỉ thì nàng thấy trong người có hai luồng nội lực nóng,
lạnh nhộn nhạo không chịu theo hơi thở điều hòa và sự vận hành khí lực
của mình? Có lẽ là những luồng khí lực “thặng dư” Tiểu Bạch không thể
hòa hợp và chuyển giao về cho chủ nhân của nó.
Nói về nội, ngoại công lực của Tiểu Bạch so với hai vị quái kiệt kia,
còn kém xa làm sao nàng có đủ khả năng chế ngự, hóa giải hoặc sử dụng
hai luồng nghịch lực được như ý muốn của mình?
Nghĩ rằng trong lúc đêm khuya, mọi người an giấc mà mình cứ đi lại sục
sạo cũng bất tiện, Tiểu Bạch nảy ra ý kiến muốn xuống thăm địa huyệt và
những lúc hai luồng hàn nhiệt làm khó chịu trong mình thì đi lại trong
địa huyệt không làm phiền bực ai.
Đi lại, vận động thân thể khả dĩ cũng làm cho những luồng nghịch lực đó tạm thời phân tán chút đỉnh!
Dịp đâu may mắn, Tiểu Bạch vừa lần mò tới gần gần bệ đá, định bụng bước
xuống địa huyệt thì Lý Thanh Hoa từ trong cửa hầm bước ra.
Lý Thanh Hoa hỏi :
- Trời khuya rồi, hiền muội không đi nghỉ, còn định đi đâu một mình vậy?
Tiểu Bạch trả lời :
- Trời ơi! Lý huynh! May mắn gặp ca ca! Tối nay em khó ngủ. Ca ca dẫn em đi nhé!
Lý Thanh Hoa ưng thuận, dắt nàng xuống bậc đá, đi vô địa huyệt. Người mù đi trong bóng tối có phần nhanh nhẹn hơn người sáng. Vách đá phản dội
âm thanh, tiếng động nhỏ mấy nàng cũng nghe thấy, nên Lý Thanh Hoa dẫn
dắt đến đâu, nàng nhớ đến đấy. Tại nhiều chỗ nàng tự đi lấy một mình, tự lấy tay sờ mó các đồ vật không vấp váp không làm hư bể vật gì cả. Lý
Thanh Hoa phải khen ngợi óc thông minh, sáng láng của Tiểu Bạch. Hơn
nữa, Tiểu Bạch đã học sách nhiều, Bát Quái Đồ nói tới đâu, sinh khắc chế hóa, phẩm bình, ước lượng nàng đều lĩnh hội và cho thêm ý kiến xác
đáng.
Sau một lần dẫn đi đủ tám căn phòng và khám thờ trung tâm Tiểu Bạch đã
thông thuộc, biết rõ địa huyệt như nơi nàng ở từ lâu. Ngay buổi đầu được Lý Thanh Hoa dẫn cho xem Tiểu Bạch tuy bị mù hai mắt mà đã giúp bày
biện một vài đồ vật vào đúng nơi đã đặt nó trước.
Ngày hôm sau, Lý Thanh Hoa nói với Mã phu nhân rằng :
- Thưa mẹ, tiểu thư Tiểu Bạch yêu cầu con đưa cô xuống thăm địa huyệt.
Cô đi trong bóng tối nhanh nhẹn lạ thường. Cô biết xếp đặt đồ vật chỗ
nào để đúng vào chỗ đó. Con xem ý cô thích sống dưới địa huyệt hơn là ở
trong tĩnh phòng trên mặt đất. Cô am hiểu nhiều về Bát Quái Đồ. Để con
khu trục độc xà ra khỏi địa huyệt, lấy lưới sắt bịt mấy lỗ và rắc hùng
hoàng vô các kẽ đá. Rồi con mời tiểu thư nghiên cứu về địa huyệt chắc sẽ tìm ra điều bổ ích thêm.
Mã phu nhân khen phải. Vì vậy cửa hầm ngày đêm đều bỏ ngỏ để Tiểu Bạch
muốn cô lúc nào thì vô muốn ra lúc nào thì ra. Những đem Tiểu Bạch thấy
trong người khó chịu lúc “nóng” lúc “lạnh” nàng một mình vô ở dưới địa
huyệt đi lại cho tới khi thấy trong mình dễ chịu mới lên đi nghỉ.
Lão Thần Y thiết lập địa huyệt bí mật không phải chỉ dùng làm nơi cất
thuốc. Mục đích chính là nhằm chữa bệnh cho con gái. Nếu biết tùy theo
tháng, ngày, giờ, đi theo các hành lang vào các cung Bát Quái Đồ theo
một chiều thuận hoặc một chiều nghịch thì sự nóng lạnh trong người cũng
theo đó mà chuyển vần.
Chỗ nào “hư hỏa hư hàn” sẽ được điều chế thành “chân hỏa chân hàn” thuận theo kinh mạch, giúp cho khí huyết trong người được tươi tốt.
Khi đi đến cung vị đó, Lão Thần Y đã sẵn thuốc hoàn, thuốc nước theo
đúng phân độ uống hai nhai nuốt. Kẻ bệnh sẽ khỏi bệnh, kẻ luyện võ công
sẽ tăng thêm khí lực dồi dào.
Đó là một nguyên nhân giúp U Linh giáo chủ tuy bị bệnh phong cùi mà vẫn
luyện tập chưởng công cao siêu vô cùng. U Linh Địa Huyệt trước đây Lý
Thanh Hoa đột nhập trong lòng núi Ngũ Đài sơn cũng “tạo dựng” theo cùng
một phương pháp. Một đằng chất phác, giữ nguyên vẻ thiên nhiên có mục
đích chữa bệnh, một đằng tráng lệ, dát vàng dát bạc thêm nguy nga lộng
lẫy để phân tán tâm ý kẻ địch mà thôi!
Tiểu Bạch vì mù cả hai mắt nên đi đứng đúng theo số bước, đặt để nhiều
tinh thần trong lúc di chuyển từ cũng nọ qua cũng kia, vừa thực hành bộ
vị, vừa nhớ phương hướng, đồng thời vì “bản năng tự cứu” cố tìm mọi cách để điều hợp hai luồng nghịch lực hàn, nhiệt trong người.
Lúc hiểu rõ nguyên ủy vận hành đưa hư hỏa từ mạch Nhâm trở qua mạch Đốc, phá tan hàn khí không cho tụ tập trong đan điền..., thì nàng cũng xếp
đặt lại những khuyết điểm trong tòa nhà thuốc.
Tiểu Bạch đã chỉ cho Lý Thanh Hoa khai thông thêm tám lỗ thông hơi ở tám cửa cung thoát ra bên ngoài. Các nơi này lâu ngày bị bế tắc từ đất cát, vì đá lở che vùi đi.
Lý Thanh Hoa rất đỗi ngạc nhiên không hiểu sao cô gái mù không trông
thấy vật gì bên ngoài hết, không xem bản đồ mà sao lại biết trước có lỗ
thông hơi bị lấp.
Đặc biệt nhất là nàng đi tới giá để thuốc cầm lọ thuốc đã đóng kín không biết đã bao nhiêu chục năm, nói rõ được tính thuốc và công hiệu của
thuốc giúp chữa bệnh gì. Giải nhiệt? Hạ hỏa? An thần? Điều tức?... Lúc
Mã phu nhân mở nắp lấy thuốc ra nếm thử, phân vị, xem xét rồi cũng đồng ý với cô gái mù... là đúng!
Tiểu Bạch không giữ bí mật sự biết của mình. Nàng nói hết việc làm của
mình cho Mã phu nhân và Lý Thanh Hoa hay. Hai người này mừng rỡ vô cùng, hứa theo dõi và giúp cho Tiểu Bạch tập luyện chóng thành kết quả.
Bát Quái Hỗn Nguyên Công là một công phu hiếm có! Vì muốn luyện thành
phải tập trong người chịu đựng một nhiệt độ cao và độ hàn thấp.
Nhiều người mất công phu mười năm ngoài bên lò lửa lại mất công phu mười năm nằm trong động băng, đông tuyết, kết cục hàn nhiệt hai khí lên quá
độ lại bị “hóa tán” như hai vợ chồng Hắc Hồ song quái nọ.
Có kẻ nhờ có kỳ duyên nuốt được Hồng Châu, Noãn Xà, uống máu linh qui,
linh hạc cũng chỉ nhằm mục đích gia tăng chân khí để tập công phu tuyệt
học trên.
Đằng này, Tiểu Bạch không cần công phu tìm kiếm đâu xa chỉ vì có “từ
tâm” thương người nên hai luồng chân khí thủy hỏa gia nhập châu thân mà
không phát tác làm hại! Kế đó tìm nhập địa huyệt để lánh làm phiền kẻ
khác thì lại bước vào tám cung trong Bát Quái Đồ.
Sau thêm linh đơn linh dược Mã phu nhân cho uống hàng ngày nên đạo quả gặt hái rất nhanh chóng.
Lý Thanh Hoa đem thanh Long Quang Xạ Kiếm thay cáng và đốc gươm cho
thẳng, bao ngoài vỏ gỗ như một chiếc gậy chống bằng cây cho kẻ tật
nguyền dùng.
Chàng thiếu hiệp tặng gươm đó cho Tiểu Bạch để nàng vừa làm gậy chống đi vừa làm khí giới tùy thân. Được biết cây gươm có một lai lịch oai hùng
và người mang nó có một nhiệm vụ chấn hưng một môn phái võ công nhất nhì trong thiên hạ Tiểu Bạch cúi đầu tạ ơn thiếu hiệp nhiều lần.
Lý Thanh Hoa sửa chữa chiếc vỏ, ngụy trang rất khéo nên Vương Nhi không
biết đó là bảo kiếm, anh chàng thấy Tiểu Bạch chống “khúc gậy” thì cũng
thử xem cây gậy chống này ra sao?
Đúng là “học trò trói gà không chặt”, Vương Nhi vừa cầm lấy chiếc gậy
rớt xuống đất đến rầm suýt nữa đè trúng chân làm tím bầm ngón cái khiến
chàng ta kêu trời như bọng :
- Dùng làm chi cây gậy nặng thấy mồ, tí nữa tôi què vì nó đấy!
Trái lại Tiểu Bạch chỉ dùng hai ngón tay nâng lên nhẹ như bấc khiến anh chàng lác trật con ngươi.
Vài tuần sau, Tiểu Bạch bỗng nhiên vắng mặt liền mấy ngày và phiến đá
cửa địa huyệt cũng đóng chặt, không ai tìm cách nào xuống được. Về đêm,
từ địa huyệt thỉnh thoảng có những tiếng ầm ầm vang động từ dưới đưa
lên, rung chuyển cả sơn trang. Mọi người lo lắng không biết đã xảy ra sự gì? Riêng Vương Nhi không được gặp và mang nước cho Tiểu Bạch nên lại
càng buồn bã vô cùng.
Chàng định đi tìm Lý Thanh Hoa hỏi cho biết nguyên ủy chẳng thấy gia
huynh ở đâu? Chàng đi tìm Nhất Tiếu và các người khác thấy người nào
cũng nai nịt khí giới như sắp có trận đánh nhau lớn.
Nhất Tiếu, Cao Kỳ Phương và Mã Hóa Long đều cầm đao kiếm tuốt trần người gác cổng ngoài, người gác cổng trong. Hai Cẩu đầu quái, mỗi con vác một chầy gỗ đi vòng quanh hoa viên suốt ngày không nghỉ.
Vương Nhi thấy vậy cũng mất ăn mất ngủ, mặt mũi trở nên xanh xao, chờ ngóng xem sự thể sẽ diễn biến thế nào?
... Tới sáng sớm ngày thứ ba, lúc ánh mặt trời chói lọi chiếu xuống sơn
trang thì lần đầu tiên sau ba ngày đóng kín mít, phiến đá lớn nơi cửa vô địa huyệt hé mở.
Mọi khi trong hang tối mò. Lần này có ánh sáng từ trong chiếu ra. Lý
Thanh Hoa tay cầm thanh Long Quang Xạ Kiếm lưỡi gươm sáng loáng lên như
phát tia bạc, hộ vệ Tiểu Bạch từ dưới hầm đi lên.
Hai mắt nhắm kín, mặt nửa xanh lè, nửa đỏ ửng như trái táo coi rất ngộ,
Tiểu Bạch nghiêm nghị tiến về phía ánh mặt trời, nàng ngồi xếp chân bằng tròn ngay trước tòa am hai tay chắp trước ngực như đức Phật bà Quan Âm. Từ đỉnh đầu bốc lên hai làn khói một xanh một đỏ. Hai luồng khí thể này không tan, bao bọc quanh nàng thành hình ống dài y như một trụ pha lê
đục hai màu xanh đỏ lẫn lộn...
... Lý Thanh Hoa cầm gươm đứng trấn áp vì trong lúc này có kẻ phá đám tức thời lâm nguy tính mạng Tiểu Bạch.
Hai luồng âm dương tụ kết dưới ánh thái dương. Đến chính ngọ thì Tiểu
Bạch luyện xong Hỗn Nguyên khí công, thực là một sự thành công kỳ lạ
không ai ngờ tới được!
Đến lúc này mới biết sự tu luyện muốn thành chính quả không phải chuyện
dễ dàng! Có Pháp, có Địa mà thiếu chữ Lữ nghĩa là “bạn” thì cũng không
thể đắc đạo được.
Giả sử lúc này có một con chim bay xẹt qua hay cục đá liệng vô làm Tiểu
Bạch giật mình choàng dậy thì là công phu lỡ dở, thay vì trở thành một
kiếm tiên, cao nhân, hiệp sĩ nàng hóa thành một phế nhân quái gở đã mù
lại nửa mặt đỏ, nửa mặt xanh. Xem vậy, tu luyện không lựa chọn phương
pháp, không tìm đất tốt tu, không biết chọn bạn để giúp thật là nguy
hiểm vây!
Ở đời, nào ai học được chữ ngờ? Đã mấy tháng trời nay bọn người Mã phu
nhân trông chờ Thần Ma Mật Tăng đã gần... mòn con ngươi! Lỹ Thanh Hoa
ngày nào cũng leo lên đỉnh núi cao, ngóng coi mà chẳng thấy tăm hơi hay
bóng dáng... dù đó là ngọn khói nhỏ báo hiệu cho nhau.
Bây giờ đúng là lúc chim đang bay phải dừng cánh bay, ngựa đang chạy
phải cứng vó chôn cẳng một chỗ, gà không kêu, chó cấm sủa, con rắn con
rết vô cớ động đậy bò nhăng cũng bị lưỡi dao, lưỡi kiếm chém chết liền.
Thế thì ông vua “to miệng la hét” đương oang oang cái miệng dẫn một đám
đông người Miêu ào ào nhắm sơn trang tiến thẳng đến!
Lý Thanh Hoa nghe rõ tiếng người tiếng ngựa tự đằng xa hàng chục dặm,
chàng thiếu hiệp bứt đầu tai coi bộ khổ sở vô cùng. Chàng lại gần Mã phu nhân nói cho biết và hỏi tính kế nào?
Bà ta cũng lanh trí gọi chồng lại trao cho mật kế. Chỉ thấy ông ta cài
kiếm vô vỏ, lật đật chạy vô nhà bếp lấy hai “hũ rượu” lớn rồi cứ hai tay hai hũ rượu mở cổng chạy đi. Nhất Tiếu và bọn người nhà lục tục mang
thịt hươu nai, thực phẩm nhẹ nhàng chạy theo sau.
Mã Hóa Long tuy xách hai hũ rượu trông thấy Thần Ma Mật Tăng từ đằng xa, chạy thẳng tới gần.
Thần Ma Mật Tăng há miệng reo lớn :
- A ha! Mã...
Chưa kịp nói tới chữ “huynh” thì đã thấy suối rượu chảy ừng ực vô miệng, không thốt thêm được lời nào nữa!
Mã Hóa Long một hũ, Thần Ma Mật Tăng một hũ. Thần Ma Mật Tăng muốn ngưng uống, nói, hỏi một chút đã. Nhưng Mã Hóa Long lại bắt... “tu” liền.
Khi đã cạn nửa vò, Má Hóa Long để tay lên miệng ra hiệu phải im lặng. Thần Ma Mật Tăng chu choa hỏi tại sao?
- Suỵt... suỵt... Nếu anh làm rộn chết thằng con Lý nhi nhà tôi mất, nó
đương “hành công”, chỉ có tiếng động nhẹ một tí... thì là... “tẩu hỏa
nhập ma”. Xin các người ngồi chờ đây, ăn tạm uống tạm. Quá ngọ là xong.
Tha hồ... la hét, đánh trống, đánh phèn la... tùy thích!
Thần Ma Mật Tăng tưởng Lý Thanh Hoa đương nhập định, luyện công thực,
nên ngồi im thít, ông ta uống rượu không làm ra tiếng ực to nữa. Một con la tự nhiên hí, chưa phát được hai tiếng hí hí thì tiếp theo đến “bốp”, Thần Ma Mật Tăng đã hạ một Phật Thủ trùy vỡ tan óc con la.
Cả đám đông trăm người, ăn uống mà cứ thì thào người nọ ghé tai nói thầm người kia hoặc ra hiệu chỉ trỏ bằng tay như lũ người người câm.
Mã Hóa Long chợt trông thấy trong đám đông một giai nhân, cốt cách thanh kỳ, có nụ cười và cặp mắt muôn vàn khả ái.
Chẳng dừng được, Mã Hóa Long ghé tai Thần Ma Mật Tăng hỏi :
- Cô gái đẹp kia là ai vậy?
- Chi Mai Động Chúa Miêu động đấy!
- Trời, Quận chúa giá lâm mà chúng tôi vô lễ...
Chi Mai tủm tỉm cười lấy ngón tay chỉ miệng tỏ là muốn nói nhưng phải giữ im lặng.
... Mặt trời lúc đó cũng chẳng còn mấy khắc nữa thì lên tới đỉnh đầu. Mã Hóa Long sai người về báo tin cho Lý Thanh Hoa và Mã phu nhân biết có
nàng Chi Mai cùng tới. Mỗi một giây phút chờ đợi lại càng làm mọi người
hồi hộp, tuy ngồi nhấp nhấp chút rượu, song lòng ruột nóng như lửa bỏng
không biết những gì sẽ xảy tới? Nhất Tiếu chỉ muốn phá tan sự yên lặng,
gầm lên một tiếng to như tiếng sấm để... xả chút hơi nặng đe trên ngực.
Thời giờ hôm nay sao đi chậm thế?
Nhất Tiếu chú ý lắng nghe? Sao hôm nay vùng đồi này im lặng dữ? Không
thấy tiếng chim hót, tiếng thỏ chạy, tiếng lá bay, tiếng gió thổi. Không bao giờ Nhất Tiếu ghét sự tịch mịch bằng lúc này.
Bỗng có một toán người lạ tiến lại gần nhóm Nhất Tiếu một cách lặng lẽ
hơn! Dẫn đầu là một lão già quắc thước râu tóc bạc phơ. Các người đi sau đều bận võ phục đen, giắt võ khí.
Giả tỉ vào lúc khác thì những người “đa ngôn” như Nhất Tiếu, Thần Ma và
Mã Hóa Long đã ngoác miệng thét lớn ầm ĩ, nạt nộ hỏi ai? Xem chừng diện
mạo những người đi theo lão già tóc trắng cũng hung dữ, sẵn sàng ăn to
nói lớn những lời hô gầm báo thét!
Nhưng toán người này thấy toán kia chỉ giương mặt giơ tay ra hiệu không
nạt nộ thì cũng khoan thai tiến lại gần, chưa ra oai phách lối.
Ông già giương to hai mắt long lanh đầy vẻ tức giận, ngắm nghía mãi Mã Hóa Long như muốn hỏi một điều gì?
Mã Hóa Long thều thào :
- Yên đừng hỏi tôi? Muốn hỏi Thần Ma Mật Tăng thì cứ nhỏ nhẹ mà nói. - Ông ta sẽ nhỏ nhẹ trả lời.
Vị Phiên tăng áo đỏ gật đầu nói :
- Khương Lã Bá tôn ông! Xin cứ nhỏ nhẹ mà nói, mỗ rất cám ơn, mỗ đương có việc tụng niệm tư riêng.
Nói rồi, y vờ chắp tay trước ngực, hai mắt nhắm lại, miệng lẩm bẩm như đương niệm chú gì chẳng rõ.
Các người đứng sau Khương Lã Bá đều đặt tay lên chuôi kiếm đốc lao đầy
vẻ hăm dọa. Khương Lã Bá khoanh tay trước ngực nhìn chằm chằm vào lão sư Tây Vực da đen bồ hóng nói :
- Này Thần Ma Mật Tăng, vì tình bạn ta nói cho ngươi biết bọn mi bị
chúng ta theo dõi đã ba hôm nay. Ở rừng sâu, bọn mi có nỏ có ná tẩm
thuốc nên tự coi là vô địch. Bây giờ các mi khinh suất lìa rừng ra đây
thì tự nạp thây. Chúng ta đã bao vây chẹn các ngả bắt buộc ngươi phải
thụ địch bốn mặt. Cao thủ Bạch Hoa cương đến đây một phần lớn, ngươi nên đầu hàng thì hơn. Ta bảo đảm tính mạng cho bọn mi. Ta sẽ bỏ qua chuyện
mi đến cướp vàng tại phủ nha Hoài An. Mi nên giơ tay chịu trói, theo ta
ra mắt Hắc Y đạo trưởng, người sẽ trọng dụng ngươi và phong ngươi làm
Chưởng môn Miêu phái Tây Xuyên. Thần Ma, nên nghe lời ta kẻo hối không
kịp! Quân số ta mang theo đông gấp bội bọn ngươi.
Nói rồi, lão già day mặt qua phía Mã Hóa Long nói :
- Còn cái thằng khốn nạn “tớ phản chủ” tên... là là... Đỗ Vinh, râu quai nón... phải Đỗ Vinh này, mày ghê gớm thực! Vợ chồng mày tá túc nhà ta,
ngựa mày nuôi làm gãy chân con ta, vợ mày là con mẹ thầy thuốc Đỗ Lan
phạm tội giết phủ quan, cướp vàng trước đinh. Hôm nay, tao ra một mẻ
lưới lớn, tóm được trọn bầy cá sộp. Ta tính khó có thể tha tội mày lắm.
Mã Hóa Long nghe chửi bới như vậy vẫn điềm tĩnh giơ tay nhắc :
- Khương Lã Bá đại gia, xin nói... “khe khẽ” chứ...
Nhất Tiếu máu sôi sắp trào ra khỏi họng, ấm ức nói :
- Nói khe khẽ, nhỏ nhẹ trong bao lâu nữa?
- Con nhìn cây đũa ta cắm dưới đất, còn một ly nữa mặt trời đứng bóng...
Khương Lã Bá lấy chân đá Nhất Tiếu một phát và mắng :
- Thằng cha “tớ phản chủ” đẻ thằng con sư... đúng loại “sư hổ lửa”!
Nhất Tiếu cắn răng nói với cha :
- Nếu nhịn quá con... chết mất! Xin cho được giao đấu một phen.
Mã Hóa Long nói :
- Giao đấu ta cho phép nhưng cấm gây tiếng động, hễ nghe binh khí chạm
nhau kêu “reng” thì kể là mi bị thua phải buông đao quy hàng. Cấm không
được làm địch thủ bị đau la lối. Mi có chịu từng đó điều kiện thì ta cho phép mi giao đấu.
Khương Lã Bá ôm bụng cười ngặt nghèo...
Nhất Tiếu nói :
- Có đếch gì đáng buồn cười mà cười? Cười to hô hố ta thôi giao đấu.
Lúc này sau lưng Khương Lã Bá lại thấy chừng hai chục người nữa, binh khí cầm tay xáp lại mỗi ngày một gần.
Hơn một trăm Miêu nhân đã đứng thành vòng tròn bánh xe bao quanh Chi
Mai, người nào cũng cầm một con dao quắm mũi khoằm rất tiện cho việc
phạt cỏ và giật đứt dây leo trong rừng sâu.
Khương Lã Bá nắm chắc phần hơn vì đã số, với giọng trào phúng chế giễu :
- Ở trên đời không có bố con nhà nào “ngu dốt” như hai tên này! Thực là
đồ ngu hơn heo! Đánh nhau mà lại cấm la ó thì làm gì có khí lực giao
đấu? Y như người kéo gỗ nặng mà lại cấm hò “dô ta”. Đã đánh nhau lại còn cấm binh khí chạm nhau kêu đến “rẻng”. Người ra chém con mà không cho
nó đưa dao ra đỡ thì mất mẹ nó đầu, còn đánh chém gì nữa! Và đôi bên
đánh nhau, thằng nào vô phúc bị thương thì kêu “ối chao”! Không cho địch thủ kêu thì khác nào cấm chém trúng địch thủ. Như vậy có khác chi thằng bố bảo thằng con đừng giao đấu, “bó gối quy hàng” cho xong chuyện!
Nhất Tiếu tròn xoe hai mắt nói :
- Này lão già nuôi ngựa! Mi ngu dốt, mi bảo ai ngu dốt? Có mấy “ngoe”
đứng sau lưng nhà ngươi, trước khi ta khai đao cho biết tính danh là gì? Kẻo xuống Uổng Tử thành hóa vô danh trong bộ sổ!
Khương Lã Bá khóa tay :
- Nói tên làm gì cho mi biết thêm mất thì giờ! Xin các vị “khai đao” cho hai cha con tên chó lộn giống này về... chầu tiên tổ!
Lão ta vừa dứt lời, năm sáu người đứng sau lưng lão nhất tề tiến lên vu
động binh khí. Nhưng chỉ thấy một luồng “chớp vàng” lóe mắt, không một
tiếng kim khí chạm nhau, không một tiếng la, không một tiếng hét... cả
năm người lảo đảo ngã như bị trúng phong. Xem kỹ thì cả năm đã bị lưỡi
đao chém chết hết thảy, máu chảy loang lổ...
Khương Lã Bá đua tay nắm chuôi đao thì lưỡi Cổ Độc kiếm của Mã Hóa Long
đã dí sát cổ. Nhìn lưỡi độc kiếm xanh lè lão già biết chi khẽ cục cựa,
mũi nhọn sây sướt da thịt là coi như tính mạng bị kết liễu.
Mồ hôi đầm đìa, nhỏ giọt ướt trán. Khương Lã Bá biết đã chạm phải kình
địch. Hắn liếc mắt nhìn những cao thủ hắc y vừa mới tới tiếp ứng thì
thấy người nào cũng đã bị mũi tên tẩm thuốc độc bắn trúng ngã lăn xuống
bãi cỏ.
Nàng Chi Mai tay cầm chiếc ná đã đặt sẵn một mũi tên, giơ lên nhằm giữa
trán lão già định phóng ra một phát, nhưng Thần Ma Mật Tăng gạt đi nói
rằng :
- Tên già quỷ quái này là đầu sỏ bọn chúng! Không nên giết nó, để sống còn khai thác nhiều việc.
Giữa lúc đó, từ phía sơn trang đi đến đủ mặt mọi người.
Lý Thanh Hoa và Thất Tinh Tú Si thấy ở phía đồi đã giao tranh nên phi thân tới tiếp ứng.
Phía sau có Mã phu nhân, Vương Nhi đi hai bên Tiểu Bạch, giúp cô gái mù
lần bước chống gậy, thong thả tiến tới. Ba người này không biết có sự
“nguy hiểm”, vì hai bên đồi bọn hắc y đã mai phục toàn lực chỉ còn chờ
hiệu lệnh xông ra chém giết.
Sơn nữ Chi Mai trông thấy Lý Thanh Hoa tức thời mặt tươi như hoa, quên
hết nỗi bực dọc mệt nhọc và sự bó buộc phải mím mồm câm miệng nàng kêu
lớn như được của :
- A ha! Lý huynh! Em đây nè!
Nàng vui sướng như trẻ nít, nũng nịu không e dè trước đám đông thuộc hạ :
- Anh thất hứa rồi nhé! Bảo một năm lại thăm chúng em... mà đã hai... (mi mắt chớp chớp dàn dụa nước mắt... long lanh).
Lý Thanh Hoa chỉ Mã phu nhân ở đằng xa tít nói :
- Má anh cũng tới kia kìa!
Chi Mai giương mắt nhìn về phía xa... ủa! Thấy ai cũng giống như Lý
Thanh Hoa nữa, mà lại đi bên một cô gái đẹp bịt mắt... nàng lấy tay dụi
mắt ngỡ Lý Thanh Hoa có phép biến hình một người thành hai người. Nàng
định hỏi cho ra chuyện, bỗng một tiếng reo vang trời lở đất, toán hắc y
mai phục gần đấy, đã reo hò ùa ra vây bọc lấy ba người.
Tất cả có bốn toán phục kích. Toán thứ nhất do chính con trai lão già
Khương Lã Bá là Khương Bất Duy cầm đầu. Toán này kéo ra định mưu toan
bắt sống cả ba người đi chậm chạp lẻ loi để khiến những người loa phải
từ trên đồi chạy xuống tiếp cứu, thì roi vào ổ phục kích của ba toán
khác dũng mãnh hơn.
Cầm đầu ba toán chủ lực có Nhất Kiếm Nhị Thiên Lang, Đơn Kiếm Liệt Hùng, tên vô lại Báo Tử Đầu Kim Phiêu đã nhục mạ Cao Kỳ Nhất Phương hồi nọ và nhiều tên ma trảo, đầu trâu mặt chó trước đã làm quân cướp ngày tại phủ Đường Hoài An. Bọn chúng biết là Khương Lã Bá mạo hiểm nên bị sa tay Mã Hóa Long. Chúng cần bắt sống vài người để đánh đổi, mưu kế dụ địch thật hiểm độc, khôn khéo vô cùng.
Nàng Chi Mai chỉ kịp buông câu :
- Thôi chết rồi! Những người kia mắc bẫy bị chúng hạ sát mất!
Thực vậy, sự việc đột biến, dù bọn người Mã Hóa Long có cánh bay đến cứu bà Mã phu nhân và Vương Nhi cùng cô gái mù cũng không kịp nữa!
Mã Hóa Long đấm ngực kêu khổ. Ông kề kiếm sát cổ lão già dọa nạt :
- Mi ra lệnh cho thuộc hạ không được hạ sát đàn bà và người tật nguyền.
Khương Lã Bá nhếch miệng cá ngão thay vì lệnh cho bộ hạ chúng khoan ra tay thì lão lại thét lớn, tiếng vang như sấm động :
- Con mẹ Đỗ Lan giết quan phủ dạo nọ đấy! Giết hết đi cho ta! Giết hết!
- Thực là khốn nạn, quân này không có óc người nữa!
Mã phu nhân và Vương Nhi đương đỡ Tiểu Bạch lần bước thì thấy hai bên
đường ùa ra những người mặc đồ đen, tay múa gươm đao áp lại rất hung dữ. Bà nhận được tên Khương Bất Duy, bà gọi tên nó và bảo :
- Khương Bất Duy quên ta chữa khỏi hai chân mi ngày xưa sao?
Khương Bất Duy cười lạt :
- Nhớ lắm chứ! Nhưng bây giờ thì muộn mất rồi! Cha ta ra lệnh “trảm”,
chúng ta phải băm vằm bọn mi ra làm trăm ngàn mảnh vứt cho ác điểu ăn
thịt.
Không phút ngập ngừng Tiểu Bạch cầm gậy vẽ một vòng tròn nhỏ và bảo Mã phu nhân cùng Vương Nhi :
- Phu nhân và anh Vương ngồi trong vòng, để mặc ta đối phó!
Hai người sợ sệt ôm nhau ngồi bệt xuống cỏ miệng khấn Nam mô linh cảm
cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát... vừa tụng vừa run, mười phần chắc
chết chín... rưỡi.
Tiểu Bạch đứng thẳng người quát lớn :
- Một lũ ngạ quỷ, ban ngày ban mặt muốn giở trò múa rối gì đây? Đứng cách ta mười bước thì còn mạng sống.
Khương Bất Duy thấy cô gái bịt mắt người mảnh dẻ gió thổi cũng ngã sắp chết đến nơi còn phách lối.
Nó cười hà hà và giơ dao bước vào để hạ miệng nói :
- Con nhỏ này chắc chết... uổng... quá... ặc ặc...
Và y bị đứt họng gục xuống. Hai tên nữa nhảy vô cũng gục xuống, năm
tên... rồi mười tên vô... chỉ trong một hai cái chớp mắt, hơn năm chục
xác địch đứt họng ngổn ngang nằm quanh ba người, chưa người nào đặt chân tới vòng nhỏ do Tiểu Bạch đã vẽ trên mặt đất.
Toán phục kích thứ hai ùa xông lên. Nhất Kiếm Nhị Thiên Lang tay cầm mũi kiếm chỉ hướng Tiểu Bạch, mười tên nữa bắt chước, chỉa kiếm vô mình
nàng và thận trọng nhích chân từng bước một, thu hẹp vòng tròn lại.
Nhất Kiếm Nhị Thiên Lang nổi tiếng trên giang hồ là không đâm ai tới mũi kiếm thứ hai. Nhưng Tiểu Bạch vung tay quét tròn, lưỡi Long Quang Xạ
Kiếm vừa ra khỏi vỏ đã chặt cụt chục ngọn kiếm thương và mũi kiếm bạc đã chí sát cổ Nhị Thiên Lang trong một chiêu... Nhị Thiên Lang chưa hề học đến bao giờ! Hai mắt y trông rõ là lưỡi Long Quang Xạ Kiếm của Tử Ngang đạo trưởng Chưởng môn phái Côn Lôn thì y rụng rời tay chân, buông roi
cả thanh kiếm xuống đất. Tiểu Bạch chua xuống tay thì vị Phiên tăng áo
đỏ không biết đã tới gần lúc nào tặng cho Nhị Thiên Lang một Phật Trủy
Thủ trúng giữa thiên cái kêu đến “bốp”. Thế là rồi đời một tay kiếm sĩ
lỗi lạc theo bọn Hắc Y.
Báo Tử Đầu Kim Phiêu đương hăm hở dẫn đầu một toán đông cầm giáo nhọn
xông lên thì chạm trán ngay một chàng thư sinh mặt trắng, đã từng so
kiếm gỗ với hắn ta tại giữa chợ đông người.
Ngày hôm nay, anh chàng thư sinh thất tình ỉu xìu chặn đường tấn công
như vũ như bão của hắn. Vẫn cái trò thủ thế tay chỉ mũi kiếm dài lê thê
quét đất...
- Kim Phiêu có nhận ra ta không? Thế kiếm năm xua vẫn chờ ngươi đó!
Ngươi bảo ngươi đã thắng ta ở thế kiếm này, bây giờ ta giữ nguyên chờ
ngươi tấn công. Chịu chơi chứ?
Báo Tử Đầu gầm như con báo vồ mồi :
- Nhất định là chơi chứ! Phen này mày không bị chém sả làm hai mảnh thì ta...
Miệng nói Báo Tử Đầu Kim Phiêu vung đại đao chém bổ xuống nhanh như chim cắt sẹt xuống... nhơng ruột gan hắn đã đổ ộc ra trên mặt cỏ... không
phải địch thủ bị phanh thây mà chính hắn đã bị mũi kiếm sả dọc từ dưới
lên đúng thế “Lưu Vân Hoành Thiên” có một không hai của Nga Mi kiếm
phái.
Bọn hắc y thấy tên thủ lãnh chỉ huy toán chúng bị thảm tử ùa vào loạn
đao, loạn giáo đâm chém Thất Tình Tú Sĩ. Nhưng chỉ là thiêu thân tự sát
vì lưỡi Song Nhạn Thiên Linh rất bén, chỉ khẽ lướt qua tới đâu là cánh
tay bị chém cụt roi bắn tứ tung. Phút chốc, chỉ còn vài tên nhút nhát sợ quá đứng tro như phỗng đá.
Đơn Kiếm Liệt Hùng biết thế nguy, bỏ mặc bọn hắc y cho các Miêu nhân
truy sát. Y vác kiếm chạy lại định giải cứu cho bố của y là lão già
Khương Lã Bá.
Mắt hắn chằm chằm nhìn lưỡi kiếm Mã Hóa Long đương kề cổ lão già, không
để ý tới thanh Cổ Độc kiếm thứ hai đeo ở bên vai hữu Mã Hóa Long chua sử dụng tới. Hắn định dùng hư chiêu dọa chém Mã Hóa Long để ông ta phải
thu kiếm về hộ thân, nhưng hư chiêu chua kịp buông ra thì Mã Hóa Long đã đua tay về vai phất nhẹ thành thực chiêu phóng kiếm, một đạo thanh
quang bay ra như lụa xé, ghim phập ngay vào cổ Liệt Hùng khiến y không
kịp la một tiến té nhào.
Nàng Chi Mai tay cầm ná, nàng bắn phát nào trúng phát đó. Bọn người Miêu cũng...
(mất trang 31- 32)
... Hắc Hồ song quái tới trị bệnh, vì giúp đỡ họ nên hai luồng hư hỏa hư hàn của họ xâm nhập cơ thể làm em không ngủ đặng, đem đem xuống địa
huyệt tịnh mịch đi đi lại lại cho đỡ bị nhộn nhạo trong người. Giữa đêm
khuya tiếng niệm phật từ trên mặt đất vẳng xuống như giọt nước cành
dương tẩy mọi ưu phiền, lòng sạch lâng lâng như mặt hồ rộng, bao nhiêu
các luồng nghịch ý, ác lực đều trút xuống lắng dịu... tiêu tan như hòa
hợp với nhau.
VÌ vậy đến khi bị phục kích, quân dã man hò hét la lối “chói tai” hết
sức, em muốn làm im lặng những tiếng la hét, những hơi thở “vọng động”
như bò rống, hồng hộc... nên nghĩ sao thì mũi gươm đưa ngay tới điểm
phát ra các trọc âm hỗn loạn ấy... việc em làm là vậy chứ nào có tuyệt
chiêu, tuyệt kiếm gì đâu?
Nhất Tiếu gãi đầu gãi tai nói làu nhàu một mình :
- Đánh nhau thì phải nhìn vào mắt và bả vai đối thủ để dò xét ý địch và
động tác hai tay của chúng định xuất chiêu gì? Thì giờ đâu mà lắng nghe
hơi thở... như bò rống của nó được?
Ngày hôm nay, lâm trận đã bị bó buộc trong cấm điều không được chạm tới binh khí địch, không được la lối và làm địch kêu đau.
Bây giờ lại học thêm một điều là nghe hơi thở của địch mà đâm tới. Kể
cũng hay hay, nếu học thành tài thì đem sử dụng trong “dạ chiến” đánh
đem hay đánh lối bịt mắt thì hay tuyệt! Được rồi, để ta xuống địa huyệt
tập thử vài ngày xem sao?
Lý Thanh Hoa vỗ vai Nhất Tiếu cười bảo rằng :
- Chậm mất rồi, hiền đệ ơi! Địa huyệt bây giờ, ngày cũng như đêm phát ra ánh sáng không tối mò như hôm còn là tổ rắn, nhị đệ định cầm đuốc nhảy
đại vô nữa...
- Sao lại có chuyện như vậy?
Nhất Tiếu chạy thốc đến tòa nhà đại sảnh đi lại cửa hầm quả nhiên thấy có ánh sáng từ trong địa huyệt phát ra.
Lý Thanh Hoa dẫn mọi người xuống thì thấy từ căn phòng cũng Tý quẻ Khảm
thẳng sang căn phòng cũng Ngọ quẻ Ly đã có một con đường thẳng tắp nối
liền, vòm địa huyệt đã được khơi rộng, nước thủy ngân lóng lánh chảy
trong kẽ đá kết tinh như muôn ngàn mặt gương còn phản chiếu tia nắng nhỏ từ trên đỉnh giả sơn chiếu xuống làm vách các hành lang lấp lánh phản
quang rực rỡ. Ban đêm chỉ cần ánh sao hay một ngọn đèn dầu nhỏ thắp
trong giả sơn là cả địa huyệt vẫn sáng tỏ như thường, thực là một kỳ
công phát quang của sự sắp đặt giữa thiên nhiên và nhân trí.
Trên mặt đá phẳng giữa con đường mới khai thông hai cung, Lý Thanh Hoa
chỉ mọi người coi bốn vị, kẻ ngồi, người nằm trông tư thế nhàn nhã, nhập định hoặc nghỉ ngơi như Phật ngọa.
Ánh sáng nơi đó mát dịu không khí như gió thổi mà không có gió, tai
không nghe tiếng nói tự miệng mình phát ra, các thanh âm đều văng vẳng
như tận đằng xa đưa tới... nhìn kỹ lại thì ra hai Cẩu đầu quái và đôi vợ chồng Hắc Hồ song quái đã chiếm lấy chỗ thanh tịnh mát mẻ đó làm nơi
“ngủ ngày” bổ thần dưỡng khí.
Thực là một sự mâu thuẫn bốn ác sát tinh đó hèn chi đã không tham dự
cuộc chém giết... Chỉ xảy ra cách sơn trang không đầy nửa dặm đường! Họ
đã biết hưởng thú khoái tĩnh hơn... hiếu động? Và cũng rất có thể là vì
họ vừa dọn dẹp những đá vỡ ngổn ngang trên huyệt đạo vừa mới được khai
thông, bị mệt sức nên cần nghỉ ngơi đôi chút.
Nhưng hỏi ai là người đã đào ra con đường nối liền hai cung và đào bằng
cách nào, tại sao lại phá vỡ rộng được vòm trần nhà thông với tòa giả
sơn ở trên, thủy ngân ở đâu chảy ra, sức nóng nào đã làm thạch anh kết
tinh thành những mảnh gương lóng lánh... cả hai người Lý Thanh Hoa và
Tiểu Bạch đều không chịu giải thích một cách rõ rệt!
Nàng Chi Mai cô sơn nữ mỹ miều ở Miêu động không cần biết đến những điều thắc mắc đó! Nàng chỉ hết ngắm Lý Thanh Hoa, lại ngắm đến Vương Nhi
không biết người nào là chàng thiếu hiệp “chính cống” đã giải thoát nàng khỏi nanh vuốt mãnh hổ.
Nàng móc túi lấy ra một gói Bạch Hổ Tu Trâm mở ra nhìn hai chàng, chờ xem phản ứng.
Vương Nhi thì há hốc mồm không hiểu những sợi lông trắng dài cứng trong
suốt như thủy tinh là những vật chi? Trong khi ấy thì Lý Thanh Hoa giơ
tay cầm lấy và nói rằng :
- Chi Mai tiểu muội vẫn còn giữ được nhiều sợi râu bạch hổ nhỉ! Vật này đắc dụng vô cùng!
Nhờ vậy mà Chi Mai không còn ngờ vực sợ mình lầm lẫn ôm nhầm lấy Lý Thanh Hoa giả hiệu...
Biết rõ tính tình chất phác, mộc mạc của sơn nữ, không ai cho sự tỏ tình thân mật như thế là xâm phạm lễ giáo.
Mã phu nhân lo tính toán ngay đến việc sắp đặt nơi ăn chốn ở cho những
người mới đến. Việc xây dựng thêm nhà cửa cũng như việc mở mang khai
khẩn các đồi chè và khu vực trồng trọt được phát triển nhanh chóng vì có nhiều nhân công.
Sẵn tiền bạc kim ngân, bà tính việc phái người đi doanh thương mua bán
với một vài khu vực sản xuất trong miền nhằm mục đích thiết lập cơ sở
lâu dài. Một khi dân cư đã kéo đến ở đông ở tại đây thì đời sống trở nên thanh bình thịnh vượng và hạnh phúc mới có nghĩa lý.
Thất Tình Tú Sĩ dẫn toán người làm thuyền đi tới nơi có hồ rộng suối sâu để đánh cá lớn.
Quả nhiên cách Vạn Diệu sơn trang hơn mười dặm về phía Tây Bắc sau khi
đoàn người đi dọc theo dòng suối cẩn thận vượt qua rừng rậm có sình lầy
nguy hiểm, thì đến một hồ lớn có nhiều tôm cá đủ loại tại đây, không có
ai cư ngụ nên thủy sản được khai thác độc quyền, muốn được cá không cần
phải buông câu, thả lưới. Chỉ cần đẽo một cây ngọn rồi nắm xâu cá lớn
nhỏ tùy theo mình lựa chọn. Nếu sức yếu mà xiên trúng con cá vược lớn sẽ bị nó lôi ngã xuống nước. Phải thòng dây cho nó bơi đi xa, yếu sức rồi
kéo vô bờ.
Hồ đã sẵn cá, ngỗng trời, vịt trời hằng sa số kéo đến bắt mồi, thật là
một thế giới mong ước cho thợ săn và dân chài tới tìm kiếm lương thực.
Cuộc sống của nhóm người Mã phu nhân sau mấy tháng đã trở nên phong phú, nhàn hạ không vất vả như xua.
Việc phòng thủ Vạn Diệu sơn trang trao cho Nhất Tiếu và Mã Hóa Long đảm
nhiệm. Nhất Tiếu quyết tâm đào tạo lấy đủ số ba mươi sáu vị đao thủ để
lập thành một trận thế Kim Đao như chàng đã học lỏm được ở U Linh điện
tại Ngũ Đai Son. Chàng chọn lấy bốn người trưởng đao, mỗi trưởng như
tường đồng vách đá, một đạo binh giáp sĩ không thể phá nổi. Nếu khai
trận tại vùng đồi lựa chọn đã đào săn hố bẫy có cắm chông và đắp những
mô đất bụi gai thì dù địch có dùng kỵ binh công kích cũng không thể lọt
vô.
Trấn Viễn tướng quân thì huấn luyện một đội kỵ mã sử dụng trường thương. Ông ta thích cưỡi con ngựa hồng để dẫn đoàn quân giáo sắt “xung phong”
trên những bãi cỏ rộng lớn. Tài phóng lao, đâm giáo của đoàn dũng sĩ này rất điêu luyện, họ thường lấy sọ dừa làm mục tiêu nhắm phóng bách phát
bách trúng không trật một nhát nào.
Nàng Chi Mai thì ưa bắn nỏ bằng tên tẩm thuốc. Thay vì dùng loại thuốc
độc nguy hiểm cho người bị trúng tên lẫn người sử dụng, các mũi tên được ngâm và loại thuốc làm tê liệt đối phương. Như vậy giúp cho đoàn cung
thủ bắt sống địch nhân một cách dễ dàng.
Một khi thấy quân hùng, tướng dũng, Nhất Tiếu luôn luôn đòi tra hỏi
Khương Lã Bá và bọn hàng binh, bắt dẫn chàng đến Bạch Hoa cương để chàng “thanh toán” sào huyệt Hắc Y tại nơi đó.
Nhưng lần nào đề nghị cũng bị Mã phu nhân bác bỏ. Bà khuyên mọi người
nên chú ý đến việc “phòng thủ” hơn là việc tấn công vì theo ý bà, mình
có tài cao mười thước thì thiên hạ có kẻ tài cao mười trượng, chỉ vì
mình chưa có phen đụng độ với kẻ tuyệt luân mà thôi!
Đây là đại cương việc bên ngoài Vạn Diệu sơn trang. Còn việc bên trong ở dưới địa huyệt và trong tuyệt cốc thì không ai hiểu Mã phu nhân xếp đặt ra sao? Chỉ biết hai Cẩu đầu quái và hai vợ chồng Hắc Hồ song quái cùng vị đầu đã từ hôm được mang xuống địa huyệt thì không thấy họ lên mặt
đất được nữa. Không biết Mã phu nhân dùng họ làm gì trong tuyệt cốc? Đào thêm thạch động? Đào đường xuyên sơn? Cấy cầy, trồng thuốc, chăn nuôi
hay xây dựng cái gì trong tuyệt cốc? Không một ai được biết? Còn đàn rắn độc trong căn phòng chữ Kinh còn sống hay chết? Không ai nhìn thấy
chúng và biết chúng ra sao nữa?
Ở đời người ta thường nói “Đất lành chim đậu” ở đâu sinh sống dễ dàng,
có nguồn lợi thiên nhiên, có cuộc sống an ninh, đói có cơm bệnh có
thuốc, không có điều gì sợ hãi, áp bức thì dù là thâm sơn cùng cốc...
cũng có người tìm đến trú ngụ. Còn trái lại, ở đâu mà có sự đe dọa, đời
sống nguy hiểm, lo sợ, thiếu thốn, bệnh tật, độc xà mãnh thú, giặc cướp, chém giết thì lẽ tất nhiên không ai muốn ở.
Chẳng bao lâu, dân Miêu tìm đến rất đông, người Hán vùng xuôi cũng di cư tới lập nghiệp. Vùng đồi chè lại nghe thấy tiếng đàn bà con gái ca hát, lưng đeo giỏ mây, lũ lượt đi hái nụ chè trong sương sớm.
Sáng bình minh, một con gà gáy thì lại có tiếng trăm con gà khác gáy
vọng lại. Gà gáy, chó sủa là biểu tượng của thái bình yên ổn.
Người bệnh tật kéo đến xin thuốc cũng có nhiều. Nhưng Mã phu nhân chỉ
chữa trị những người đích thị là dân lành, làm ăn lương thiện, những
người nào bệnh tình giáo đâm, gươm chém, gây gổ vì có võ công thì bà
nhất định từ khước không trực tiếp cứu chữa.
Bà để mặc cho người khác băng bó, dịt thuốc đấu hoặc kim sang thông
thường, rồi tìm mọi cách tống khứ ra khỏi khu vực những kẻ thuộc hàng võ lâm đao búa, không có đức hạnh.
Sự chữa bệnh vì vậy cũng tầm thường không nổi danh tiếng vì cũng chẳng có gì đáng đồn đại trong chốn giang hồ ác đạo.
Vị thầy thuốc tài giỏi đáng được truyền tụng vẫn là Thánh Thủ Lão Thần Y mà không ai biết hiện nay đã ở đâu?
Nhờ vậy, Vạn Diệu sơn trang được trải qua một thời kỳ yên ổn trong quên
lãng, điều hòa như tiếng mõ đều đặn cùng câu kinh câu kệ tụng niệm từ
trong am nhỏ thờ Phật giữa sơn trang vọng ra.
Một buổi chiều nọ, tiếng chuông thu không trong am thờ Phật đã động đến
tai một nhà sư khuyến giáo. Vị sư này gầy gò, yếu đuối, tay chống gậy
gỗ, đeo bên mình một túi vải màu vàng trong đựng bình bát và một vài đồ
nhật dụng. Không thể đoán vị sư đó bao nhiêu tuổi, thoạt trông thì chừng độ trung niên, nhưng trông ngang thì thấy trẻ hơn, trông thẳng nét nhăn trên mắt thì lại thấy già hơn, hai mắt lờ đờ, dáng điệu uể oải, chậm
chạp như một anh chàng đại lẫn.
Mà có lẽ nhà sư này đại lẫn thực vì da dẻ bẩn thỉu, quần áo dơ dáy, chân đi đất hình như cả đời không hề biết tắm gội là gì? Vì thấy nhà sư yếu
đuối nên đi tới nhà nào khuyến giáo cũng được bố thí và cũng không ai để ý đến hắn ta, nên hắn ta lần mò vào được trong trang, đi thẳng vô am
thờ Phật như vì đầu đã hồi nọ.
Người trong sơn trang trông thấy nhà sư hiền lành, không ai nỡ đuổi nên
mặc y muốn ngồi đâu thì ngồi, muốn nằm đâu thì nằm không ai thèm lý tới
sự có mặt của y!
Thông thường bà Vương phu nhân tụng niệm kinh Phật rất khuya và đi ngủ
vào cuối giờ Tý. Bà dậy khoảng đầu giờ Dần. Nhưng khi tiếng mõ và tiếng
tụng niệm của bà vừa dứt thì nhà sư cũng lấy trong bọc vải ra cái dù và
mõ và cất tiếng tụng niệm tiếp theo.
Lẽ tất nhiên tiếng mõ “bất thường” phát xuất nơi am thờ Phật làm chói
tai Nhất Tiếu. Hắn ta không ngủ được nên tìm xem ai đã tụng kinh đêm hôm khuya khoắt thế? Xảy nhìn thấy nhà sư lạ mặt thì Nhất Tiếu lại gần nắm
cổ nhà sư yếu đuối, tay vẫn ôm khư khư giữ lấy dùi và mõ. Nhất Tiếu
không nói năng gì cả, cứ xách nhà sư như vậy, như ta xách con gà, chạy
một mạch ra khỏi sơn trang, thẳng tới đỉnh đồi chè và quẳng hắn xuống
đất nói rằng :
- Thích gõ mõ suốt đem thì ra đây mà tụng kinh gõ mõ để cho người ta yên lặng ngủ chứ?
Nói xong, bỏ đấy trở về. Tuy nhiên Nhất Tiếu lắng tai nghe xem y còn đủ
can đảm tiếp tục tĩnh tọa tụng niệm không? Chàng nghe thấy tiếng “cốc,
cốc” đều đều, giữa bầu không khí yên lặng trong tăm tối... Nhất Tiếu mặc kệ tên sư nửa điên nửa khùng với cái mõ của hắn.
Lúc trời còn tranh tối tranh sáng. Nhất Tiếu chợt bừng mắt tỉnh dậy nghi tới việc mình làm đêm qua, chàng ra ngoài sân lắng nghe xem sao? Gà
chưa gáy sáng, nhưng văng vẳng tiếng mõ vẫn “cốc, cốc”... đều đặn như
trêu chọc lỗ tai Nhất Tiếu.
Nhất Tiếu tự nói lẩm bẩm :
- Đem qua thằng chả không ngủ chắc? Nó thức suốt đêm! Hành vì tên này có nhiều điều đáng ngờ vực lắm!
Chàng liền đóng vai thị sát, bí mật theo dõi nhà sư nọ, chàng thấy hắn
ta không lúc nào ngủ hay chợp mắt cả, không đứng thì đi khuyến giáo ngồi ăn la cà chỗ nọ chỗ kia, xem ra không phải là người khỏe mạnh có võ
công trái lại, nhà sư còn có tính nhút nhát nữa!
Nhất Tiếu bí mật dò xét mãi cũng đâm ra chán nản. Chàng tự nghi :
- Đêm nay thế nào nó cũng tìm một xó xỉnh ngủ lăn như chết.
Nhưng đúng nửa đêm, Vương phu nhân dứt tụng kinh thì tiếng mõ của nhà sư nọ lại vang lên.
Nhất Tiếu nhất định phen này phải trừng trị hắn một trận cho bõ ghét,
một là bẻ què tay nếu hắn bướng bỉnh, hai là tịch thu cả mõ lẫn dùi.
Thấy Nhất Tiếu hầm hầm đi ra, nhà sư nọ đang ngồi trước am thờ Phật, vội đứng dậy, tay xách dùi, tay ôm mõ chạy. Nhất Tiếu lững thững đi sau hắn định chạy trốn đi đâu? Nhà sư nọ chạy đúng tới chỗ Nhất Tiếu xách cổ
hắn quăng xuống đất hồi tối hôm qua, ngồi xuống một cách rất ngoan ngoãn và biết điều sợ hãi. Nhất Tiếu thấy vậy cũng không nỡ làm khó hắn làm
chi nữa, chỉ mắng rằng :
- Ráng ngồi đấy mà gõ mõ suốt đêm ta không cấm đoán, nhưng nếu về sơn
trang làm ta mất ngủ thì... đừng có trách! Ông thì bẻ gãy tay, hết gõ
cốc, cốc... nữa!
Nhà sư kia cũng không cãi lại một tiếng nào. Hắn chờ cho Nhất Tiếu đi xa rồi mới ung dung tay hạ dùi đập xuống “mộc đạo”, miệng tụng vang lên :
-... Nam vô Phật... Nam vô Pháp... Nam vô Tăng... A ha... Cứu khổ chúng
sinh, ma ha tát. Một đêm, hai đêm, bốn đêm liên tiếp như vậy.
Nhất Tiếu lấy làm ngạc nhiên tự hỏi :
- Thằng cha này nó không biết “ngủ” thực sao? Sao nó thức liền mấy đem không ngủ?
Nhưng Nhất Tiếu đã như một vị hung thần hiện ra ngăn cản. Thấy Nhất Tiếu nhà sư thôi không tụng niệm nữa. Hai mắt nhìn Nhất Tiếu chằm chằm như
định hỏi ý muốn gì?
- Này, anh sư... “không ngủ” kia oi! Nghe tôi tối nay tạm ngủ một chút được không?
Nhà sư tỏ vẻ kinh hãi :
- Không! Không! Tôi không ngủ đâu! Nếu tôn ông không muốn tôi gõ mõ tụng niệm làm kinh động đến người thì đây, dùi, mõ đây mang đi tôi không
tụng niệm nữa.
Nhất Tiếu xua tay nói :
- Ta lấy dùi, lấy mõ của nhà ngươi làm gì? Ta muốn ngươi nhắm mắt làm
một giấc ngủ cho khỏe khoắn thân thể, có vậy thôi! Có khó khăn gì đâu?
Nhà sư lắc đầu lia lịa :
- Ấy chết! Không thể được! Tôi ngủ... tôi mà “ngủ” thì làm phiền mọi
người lắm! Chịu thôi! Chịu thôi! Ông muốn bắt tôi làm điều chi tôi cũng
ưng, nhưng bắt nhắm mắt nằm ngủ, thì không thể được!
- Tại sao?
- Nguy hiểm lắm!
Nói rồi nhà sư rũ áo đứng dậy định lẩn chạy đi nơi khác. Nhưng Nhất Tiếu xưa nay nổi tiếng là ương ngạnh, đâu có chịu nghe!
Chang nắm lấy tay nhà sư, giữ chặt, một tay móc lấy chục viên mê dược,
nhất định vạch miệng bắt uống. Nhà sư yếu đuối không thể nào khác cự nổi đành há miệng nuốt liền các viên thuốc ngủ.
Nhất Tiếu đắc chí, cười ha hả nói rằng :
- Sau giấc ngủ triền miên ép buộc, anh trọc đầu này có tỉnh dậy sẽ mang
dùi và mõ đi nơi khác mần ăn, không làm quấy nhộn... lỗ tai ta nữa!
Nói rồi, sau khi quay lại nhìn thấy nhà sư ngáp lấy ngáp để, hai mắt từ
từ nhắm nghiền, ngả người lăn xuống đất, ngáy khò khò... Nhất Tiếu hớn
hở xoa tay, bước dài về phía cổng sơn trang một cách khoái trá!
Nhưng chàng bỗng thấy tiếng gió thoảng như có người theo dõi, tiến sát
lại đằng sau lưng. Nhất Tiếu không nghe thấy bước chân nhưng đem đó có
ánh trăng mờ, chàng nhìn rõ bóng người đi sau chiếu lên phía trước.
Chàng định tâm dùng một thế võ Hoàn Bộ Cầm Nã xoay chéo người lại chớp
lấy địch nhân. Nhưng hai tay vươn ra chỉ chộp được... không khí. Địch
thủ lẹ làng nhanh hơn bóng ma. Nhất Tiếu mới cử chân chưa phóng gót thì
địch thủ cũng đánh đúng miếng võ như chơi.
Nhất Tiếu có cảm tưởng là mình đánh nhau với chính bóng mình! Mình đấm
nó đấm, mình đá nó đá, mình chuyển thế nó chuyển thế, và trong lúc chưa
nhìn rõ mặt địch thủ là ai thì đến huỵch, Nhất Tiếu thấy nhẹ bỗng, đầu
thì dốc xuống, cả thân hình nặng trăm cân có lẻ của Nhất Tiếu đã “giáng
địa” như nửa góc trời bị sụp đổ, cát bụi tung lên.
Nhất Tiếu bị bóng đen đánh ngã, đau ê ẩm cả người chưa kịp kêu lên thì
một bóng đen khác nhảy tới giơ quả trùy lên cao... đập xuống.
Nhưng chỉ là hú vía, quả thủ trùy không phát nhằm đầu Nhất Tiếu giáng xuống mà đánh vào bóng đen để giải vây cho chàng.
Phiên tăng áo đỏ vũ động trùy không phải là chậm chạp tưởng rằng trong
lúc xuất kỳ bất ý nắm được tiên cơ... ai ngờ bóng đen phản ứng vẫn lanh
lẹ không kém, chẳng những Thần Ma Mật Tăng đánh hụt mà lại còn bị bóng
đen phản công một chưởng vào huyệt đạo nơi Thái Dương rất nguy hiểm!
Nhất Tiếu được rảnh tay mở to đôi mắt xem hai người hỗn chiến. Mục quang chàng chiếu thẳng vào mặt bóng đen để nhận diện địch thủ là hạng người
nào?
Bất giác, Nhất Tiếu giật mình toát mồ hôi lạnh vì “tức giận” tưởng ai té ra thằng trọc không ngủ hai mắt nhắm nghiền nhà sư “duy thức mộng du”.
- Biết thế này thì mặc thây nó... “thức” cho xong! Nhưng được rồi, dù
thức hay ngủ ta về lấy kim đao cho nó một phát đứt làm hai đoạn trên
thức, đoạn dưới ngủ hay ngược lại cả hai cùng ngủ một giấc ngàn năm cũng được!
Nghi vậy, Nhất Tiếu chạy về sơn trang kiếm kim đao, vừa chạy vừa hô lớn :
- Bay đâu! Tập hợp lập “đao trận” thì triển tài nghệ ta coi kết quả công phu luyện tập!
Toán Miêu binh rối rít tuốt cương đao, hò reo lập Kim Đao sát trận để tiêu diệt nhà sư nọ!
Trong lúc sơn trang náo loạn nhà sư ngủ vẫn ác đấu với Thần Ma Mật Tăng. Lần này tay nhà sư cầm một đoạn gậy ngắn đầu nhọn để sáp chiến với Phật Thủ trùy.
Hai bên giao đấu trăm chiêu, Thần Ma Mật Tăng cảm thấy mình dụng chiêu
thế nào thì địch thủ cũng dùng chiêu thế đúng như vậy đánh lại mình,
nhưng bao giờ cũng nhanh hơn đủ để đả thương mình. Thành ra bao nhiêu
“thực chiêu” phóng ra lại đành biến thành “hư chiêu” thu về cho thật
nhanh để tránh khỏi “gậy ông lại đập lưng ông”.
Cây gậy tuy nhỏ và nhẹ, nhưng nội lực xuất thấy còn nặng và trầm hơn
trùy đồng. Đầu nhọn cây gậy còn có năng lực điểm huyệt mỗi lần bóng đen
phản ứng, mũi nhọn đua ra những đòn cực kỳ độc ác nhằm toàn tử huyệt đâm vô.
Cao Kỳ Nhất Phương lúc ấy không nề hà gì đến nghĩa khí giang hồ, cấm lấy hai chọi một, đương nhiên tuốt Song Nhạn Thiên Linh kiếm nhảy vào nhập
cuộc ngõ hầu đánh bại nhà sư mộng du.
Chàng dùng mũi kiếm điểm những chiêu tuyệt nhanh để tấn công đối phương, nhưng mũi kiếm xoáy vào chỗ nào thì cũng chạm phải mũi nhọn cây gậy ở
mặt đó.
Thiệt là kỳ lạ, ra tay nhanh là như vậy, chàng thiếu hiệp cũng không
chiếm được thượng phong, trái lại thấy đường gươm của mình vẫn còn kẽ hở để mũi nhọn cây gậy nhiều lần chớm tới cổ tay!
Mà những tuyệt chiêu ấy cũng chẳng có gì mới lạ, đối phương dùng toàn
đòn của mình để đánh mình, bao giờ cũng nhanh hơn một tích tắc.
Lúc này, Phiên tăng áo đỏ hít mạnh một hơi Thiên Cương quyết tâm phóng
ra một chưởng “Thiết Quyền Bạt Thạch” nhằm sống lưng nhà sư ốm nhom đánh cho gãy gập xương sống.
Cánh tay sắt buông quyền như sét nổ, tưởng xương sống nhà sư sẽ vụn như
cám, nhưng “đánh trộm” như vậy mà chưởng lực như đánh vào khoảng hư
không vì xương sống nhà sư mềm như sợi bún, người nhà sư như mảnh giấy
phất phơ trước gió, khiến cho đầu Thần Ma Mật Tăng chúi xuống rồi hai
chân cũng nhẹ bỗng như mất điểm tựa. Ông ta ngã quay tròn nhiều vòng như quả cầu trước khi dừng, đã chạm một hòn đá tảng kêu đến “bình” một
tiếng!
Thế là Thần Ma Mật Tăng cũng bị lại cùng một kiểu như Nhất Tiếu!
Nhà sư “mộng du” bay vào sơn trang, lọt vào giữa vòng vây của Kim Đao
sát trận bắt đầu chuyển động. Thế đầu tiên là Thượng Uyển Khai Hoa, các
lưỡi cương đao xoay tít vòng tròn như các bông hoa nở “cánh hoa” toàn
bằng lưỡi sáng của thép. Ba mươi sáu lưỡi đao xoay tít như ba mươi sáu
bông hoa ép nhà sư mộng du vào giữa. Chắc chắn là nhà sư sẽ nát thịt tan thây trong bộ máy chém vô cùng linh động có tính toán và huyền diệu!
Nhất Tiếu đứng ngoài lược trận xoa tay cả mừng! Chàng hô lớn :
- Khá lắm! Khá lắm! Chém nát nó ra như... thịt bò viên cho ta! Xáp vô! Đúng thế!... Khép chặt vô.
Bỗng các vây cương đao quay tít khép chặt vòng tròn lại, dồn nhà sư mộng du vào trung tâm và sắp đến hồi chót kẻ chém trên, người chém dưới.
Lưỡi dao xoay tả, lưỡi xoay hữu, lưỡi xoay trước, lưỡi xoay sau, lưỡi
chém chân, lưỡi chém đầu... dù ba đầu sáu tay cũng không thể lọt ra
ngoài dao trận, sức phát triển sát hại đã đến mức độ cao nhất.
Thân hình khẳng khiu của nhà sư nhắm mắt giống như cánh bướm sắp tan tành trước trận cuồng phong!
Nhưng, đột nhiên, có tiếng loảng xoảng hình như đao trận có gì “trục
trặc”, con gió lốc đương xoáy tít bị rã rời vì các lưỡi đao đương xoay
tít bị cây gậy nhọn chọc vô, lưỡi thép không chém đứt nổi khúc cây?
Thế là các cương đao vuột khỏi tay các cao thủ người Miêu bắn tứ tung,
thanh thì vọt lên trời, thanh thì cắm xuống đất, vung vãi bay ra tứ
phía. Lưỡi sắc bén chạm vào da thịt làm vô số người bị thương ôm đầu
chạy tứ tán.
Đao trận bị vỡ như một... bong bóng nước.
Nhất Tiếu luôn mồm chửi thề những câu rất thô tục!
Chàng vác kim đao, vỗ mông đến “đét” một cái nhảy vô không cần tính toán lợi hại ra sao nữa?
Nhà sư mộng du như biết Di Hình Biến Ảnh trong chớp mắt không thấy y
đậu? Nhất Tiếu nhảy quá mạnh, đã chân không kìm hãm lại được, xô vào một người to lớn xăm xăm nhảy tới. Hai người đụng mạnh như hai thớt voi húc nhau đến “rầm”.
Cả hai người đồng ngã trên mặt đất!
- Đụng mạnh quá! Đau chết tao rồi!
Nghe tiếng nói, Nhất Tiếu biết người mình xô nhằm, chẳng phải ai xa lạ chính là thân phụ chàng là Mã Hóa Long!
Chàng muốn chạy tới để đỡ ông ta đứng dậy, nhưng chính chàng cũng thấy
thân thể mình đau điếng, khó lòng tự đứng dậy một mình được.
Giữa lúc đó, trên bãi cỏ rộng lại diễn ra một trận đấu khác. Trận đấu
này ngoạn mục và yên lặng hơn. Dưới ánh đèn đuốc đốt sáng choang, nhà sư mộng du, hai mắt vẫn nhắm nghiền trong giấc ngủ say, hai tay cầm gậy
ngắn giơ ra phía trước. Đối thủ của y là cô gái mù, hai mắt cũng nhắm
nghiền, tiểu thư Tiểu Bạch đương chìa mũi gươm Long Quang về phía địch
thủ.
Hai người không tiến kích, cứ yên lặng đi những bước nhẹ nhàng theo
đường vòng tròn, rất thong thả, hình như cả hai đương lắng nghe nhịp thở của nhau? Tuy cả hai không phát chiêu, nhưng người nào tài giỏi về kiếm học đều phải mê say theo dõi bộ vị, cử động hai tay của họ và thân
pháp.
Hai đầu nhọn chiếu vào nhau hình như bao nhiêu năng lực đều tập trung ở
đầu mũi nhọn. Hai người không nhìn thấy nhau nhưng họ đánh nhau trong
tiềm thức?
Các người đứng chung quanh xem đều nghẹt thở, không ai dám nói một tiếng nào!
Thoạt tiên Tiểu Bạch lấn hai bộ, nhà sư lùi lùi hai bộ. Nhưng lúc ra tay cực nhanh chém ba nhát nhanh khôn tả. Nhà sư mộng du cũng ngáng kiếm
nhanh như điện. Kết cục hai người đứng sát nhau cây gươm gậy gỗ ngáng
nhau như dính liền lại. Cả hai dụng toàn lực để đe mạnh vật cầm tay đối
phương xuống để chiếm thượng phong.
Có lẽ cả hai vận dụng khí lực rất mạnh nên trên đỉnh đầu đều bốc khói.
Đầu nhà sư phát luồng khói trắng, đầu Tiểu Bạch cũng xông lên hai luồng
khí một đỏ một xanh...
Cả hai cùng thét lớn, cùng chuyên công xoay lưng lại nhau mà không kịp
chém ngang. Hai người giáp lưng mà chuyển thế, một lần nữa tất một sống
một chết, hoặc cả hai cùng chết trong chiêu thế “Tự Sát Đồng Vong”.
Lý Thanh Hoa bắt buộc phải can thiệp. Chàng bất thình lình rút thanh
Siêu Điện Tử Quang kiếm đánh vài khoảng giữa giáp lưng để tách rời hai
người xa nhau ra trong một chiêu thế nhanh hơn điện giật. Ba bốn luồng
công lực chạm nhau làm các đuốc tắt phụt, người đứng chung quanh như bị
lửa táp mặt mày, kiếm khí lạnh hơn băng, mắt hoa tai choáng quá nửa ngã
lăn quay hoặc phủ phục ôm đầu kinh khiếp...
Nhà sư Thiết Đầu ở dưới địa huyệt chạy lên la lối :
- Xin dừng tay! Xin dừng tay! Chớ có giết hại em tôi! Tôi có cách làm nó ngưng chiến!
Mọi người ngoảnh lại thấy vị này thương tích chưa khỏi hẳn, vòng quanh
đầu còn quấn mảnh vải trắng buộc thuốc vẻ mặt hốt hoảng sợ Lý Thanh Hoa
không nương tay hạ thủ em mình.
Chàng thiếu hiệp vội ngừng lưỡi kiếm Siêu Điện phát tia thanh quang
trong bóng tối còn đối phương lợi dụng lúc đó, lắc mình thành ngọn khói
đen vụt biến mất.
Nhiều ngọn đuốc được thắp sáng lên, Tiểu Bạch chống gươm mồ hôi nhỏ giọt vì nàng đã chú trọng quá nhiều tinh thần để đương cự bóng ma giao đấu
lanh lẹ và nguy hiểm vô cùng trong hôn mê.
Mọi người xúm quanh Thiếu Đầu hỏi biết duyên cớ.
- Lệnh đệ là ai? Vì sao tìm đến đây? Ban ngày thì lẻo khẻo như người
bịnh hoạn gió thổi cũng ngã sao ban đêm hai mắt nhắm tịt như người mù
ghê gớm làm vậy?
Thiết Đầu mời mọi người vào trong nhà kể rõ nguyên ủy cho biết :
- “Chúng tôi cả thảy bốn anh em người anh cả “Ngạo”, tôi là “Lãng”,
thằng lúc nãy là em thứ ba tên gọi là “Mê” còn thằng út... (nhà sư ngập
ngừng mãi mới nói) thằng út là “Dâm”. Cảm ơn các vị săn sóc cho tôi. Từ
lúc tôi húc đầu vô tảng đá bị bể thì hình như có luồng khí tốt nhập vào
não khiến tôi đỡ bệnh lãng trí, óc tôi trở nên trong lành và nhớ lại
được nhiều sự việc, không lẩm cẩm như trước. Nói ra sợ các vị chê cười!
Nhưng trên Tam Bảo có đấng Thế Tôn che chở độ trì tôi không dám nói dối? Cha mẹ chúng tôi xuất thân là phường đại đạo, chuyên nghề cướp của giết người, bị quan quân bắt trị tội chôn sống ngoài trời. Tưởng đâu đã chết vì đầy đọa dưới nắng mưa, đói khát đau khổ với cực hình chôn đứng chỉ
thò ra hai cái đầu lên khỏi mặt đất thì may có một đấng Phương trượng từ bi đạo hạnh xuất hiện cứu thoát cho ăn cho uống và bảo đảm với mọi
người cho cái tội “chết” thành “sống” chỉ phải đồ hình phạt lưu đầy.
Nhưng cha mẹ chúng tôi võ công rất giỏi nên sau vài năm bị giam giữ lại
vượt ngục trốn về xứ làm nghề cũ. Lần này hai người làm nghề cướp sống
và sinh ra bốn anh em chúng tôi.
Một ngày nọ nhập phái Ma giáo theo bọn họ mà luyện một loại võ công kỳ
dị bằng cách tập hút lấy máu người sống để thân thể được nhẹ nhàng có
thể “bán dạ phi hành” như các “ma cà rồng” trong sơn cước. Nhờ vậy, len
nhập rất dễ dàng vào nhà người ta, thi hành các thủ đoạn bất chính theo
như ý muốn của mình!
Mới đầu, nghĩ rằng hành nghề theo Ma đạo để sinh sống nuôi con, ai ngờ
càng ngày uống máu, giết người càng thấy ngon, thấy ngọt không làm được
như vậy thì thân thể như thiếu chất bổ dưỡng. Trước còn uống máu người,
sau hút máu tươi của cả trẻ nít, rồi quen dần các máu súc vật cũng không từ một giống nào cả...
Thú tính của bố mẹ truyền sang con cái cũng nhanh chóng. Chúng tôi cũng quen được nuôi dưỡng bằng phương cách quái gở đó.
Cho đến ngày tái gặp vị “Bồ Tát” đã cứu hai người, trên thuyền xuôi
Thiếu Lâm tự. Cha mẹ tôi gặp ân nhân cứu tử mình ngày trước đang lúc vị
Phương trượng bị người ta đầu độc để cướp lấy vật pháp bảo của nhà chùa
là chiếc bình bát bằng lam ngọc. Trước khi chất kịch độc làm dữ, vị
Phương trượng không hiểu nhân duyên từ đâu vẫn cố gắng khuyên hai vợ
chồng cha mẹ tôi nên cải tà quy chánh và dạy cho phép “Hoán Cốt Chuyển
Kiếp”...
Trong giây phút nghe phát nguyện tâm kinh, cha mẹ tôi hối lỗi vô cùng,
quyết hy sinh tính mạng mình để cứu sống vị đại sư nọ. Trong lúc lão
nhân bất tỉnh vì chất kịch độc, cha mẹ tôi đã bắt người sống đem về
thuyền. Một người cắn cổ lão nhân hấp huyết độc ra, một người uống máu
lành rồi truyền máu vô người lão nhân. Nõi rõ ra là một người ghé miệng
“hút” máu độc vô miệng và một người ngậm máu tươi thổi vào động mạch ở
cổ ông ta. Cứ thế cho đến khi lão nhân hồi tỉnh, lấy linh đan của lão
nhân bỏ vào miệng cho hồi sinh.
Qua một đem là việc “hút” máu và “truyền” máu như vậy, lão nhân thoát
nạn nhưng mẹ tôi là người chuyên việc hút lấy máu độc vô miệng bị chất
độc làm chết bà mẹ tôi đã chết thì cha thôi cũng hết muốn sống, nghĩa là cũng tự vận chết theo mẹ tôi!
Lão nhân sống lại thấy vậy, thương cảm vô cùng. Ông ta đem chúng tôi về
chùa, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng tôi bốn thằng “Ngạo, Lãng, Mê, Dâm” lớn lên thay cho cha mẹ tôi.
Tuy nuôi dưỡng dưới bóng đấng Chí Tôn, được dạy cho biết gõ mõ tụng
kinh, được truyền dạy phép “thay xương chuyển kiếp” nhưng hình như bệnh
di truyền còn luu luyến trong thân thể chúng tôi nên... sau ngày đức
Phương trượng viên tịch đi rồi, thằng Ngạo thì vẫn ngạo nghễ, gây sự với người. Vì “ngạo” nên bị lắm trận đòn đau chí tử, nhưng vì xương cốt
chịu đựng dẻo dai nên không thể chết! Nếu có đau quá thì... phạm giới
uống máu người một chút thì lại phục bồi nguyên lực ngay.
Còn thằng Lãng tôi thì máu huyết “tà chính” lẫn lộn, lúc nhớ lúc quên,
lúc ngu lúc khôn, lúc tốt lúc xấu... biết là thế mà cũng chẳng làm sao
được! Lúc nhớ thì tụng niệm chăm chỉ, khuyến thiện giúp đỡ mọi người
không kém gì đấng Bồ Tát. Nhưng lúc chót quên thì cũng có thể uống rượu, đánh lộn, sát giới và ăn chút “tiết canh” để bồi bổ sức khỏe. Nghĩ bao
nhiêu mà nhớ lại được bấy nhiêu thì muốn... “sám hối”, quay về chính đạo quá!
Thằng Mê thì tàn tệ hơn, lúc nó tỉnh mở mắt thì nó hiền hơn bụt, nhút
nhát, từ tâm và mộ đạo, chăm tụng kinh niệm Phật không ai bằng. Nhưng
đừng để nó ngủ, nó mà ngủ thì cái tính di truyền của cha mẹ nó trong
tiềm thức lại nổi dậy, nó có khả năng hành động như người trong giấc mê, cũng ham đánh, ham giết, ham uống máu như cha mẹ nó xưa kia!
Vậy xin quý vị đã hiểu như vậy thì nên thương lấy thằng em tôi, đừng hạ sát nó kẻo tội nghiệp!”
Nghe Thiết Đầu kể chuyện, mọi người đều ngẩn ngơ lấy làm lạ hết sức, như nghe một câu chuyện chua từng được nghe bao giờ.
Nhất Tiếu nói :
- Tôi đã được nếm bản lĩnh của Mê hòa thượng rồi! Nó “duy thức” là phải
vì “thức” như thế đúng Phật dạy! Còn ngủ mê thì lẽ tất nhiên, chẳng
những nó mà ai cũng có thể “đổ đốn” như vậy được! Đã rõ nguyên ủy, chúng ta cũng chẳng chấp chi? Từ nay giữ cho nó “thức” là khỏi lo. Nhưng còn
cái thằng em út của anh, nó có những “đặc tính” gì xin nói cho biết?
Thiết Đầu ngần ngừ không muốn nói cứ đua mắt nhìn Mã phu nhân, Tiểu Bạch, nàng Chi Mai và một số phụ nữ ngồi quanh đó!
Mã Hóa Long biết ý nói rằng :
- Được không sao! Đây toàn là người lớn “trưởng thành” cả! Nói để biết,
biết cái xấu tức là bắt đầu bước vào đường thiện. Chỉ sợ không biết là
xấu, cứ làm mới thực là nguy hiểm mà thôi!
Thiết Đầu kể tiếp :
- Còn thằng út thì... thực là rất khó nói! Đối với phái nam thì nó là
một thằng người rất tốt không hề càn rỡ, gây chuyện hay nghĩ đến làm hại ai bao giờ cả, ban ngày nó đúng là một vị La Hán đắc vị. Nhưng phải có
một cái tật là quá “tốt”... với các phụ nữ, nghĩa là trẻ không tha già
cũng không làm sao mà chừa được! Nó xuất hiện ở vùng nào mà vùng đó xảy
ra các vụ án hái hoa, thì không cần phải truy cứu nơi đâu, nhất định thủ phạm là nó. Nó thường phàn nàn là có lẽ “xương cốt chưa đổi thì ma kiếp không chuyển” được! Vì vậy nó luyện võ công giỏi lắm, trong bốn anh em
chúng tôi thì nó đứng vào bậc đệ nhất. Nhưng võ công càng giỏi ít gặp
tay đối thủ, tài phi thiềm tẩu bích càng siêu quần bạt...
(mất trang 63- 64)
... Không bao lâu đầu xóm cuối xóm những gà trống khác tưởng trời sắp
sáng đều cất tiếng gáy o o dội lại khắp nơi. Trời lúc đó còn tối sầm khó tỏ mặt người, nhưng kẻ tinh mắt thấy hiện ra tại cổng sơn trang một
bóng người nhỏ thó, thất thểu đi bước một, dáng điệu mỏi mệt như khí lực sắp suy tàn.
Mê hòa thượng đương chống gậy lại gần mọi người, tuân theo tiếng gọi của ông gà rúc từng hồi bài Hùng Kê Nhật Minh.
Trông thấy người em khốn nạn, Thiết Đầu thôi gáy và chạy tới ôm choàng
lấy Mê hòa thượng đúng lúc hắn ta khụy hai giò, miệng lắp bắp thốt ra
mấy tiếng: “Anh... anh...”.
Hắn ta kiệt lực là phải vì suốt đem giao đấu, chạm trán với toàn những
tay cao thủ “gạo cội”, và chưa kịp tìm sinh vật để hấp huyết thì tiếng
gà quái ác đã làm chấn động thần kinh hệ, kéo nhà sư mộng du ra khỏi con mê đấm đá.
Lúc đó, Vương Nhi vì thấy Tiểu Bạch đánh nhau với nhà sư miên du thì
cũng chạy đi tìm một cây côn bằng gỗ nhẹ, chàng ta từ nãy vẫn lăm lăm
cầm cây côn trong tay. Bây giờ, trông thấy địch thủ đã tỉnh giấc, dưới
ánh đèn đuốc có vẻ yếu đuối hom hem không khỏe hơn mình mấy chút nên...
vác côn chạy lại định choảng cho mấy gậy để so tài.
Sự đâu kỳ ngộ, anh sư “vô địch” kia lúc này thấy có kẻ vác gậy đến đánh
mình, thì kêu thét lên tỏ vẻ vô cùng sợ hãi và la lối cầu cứu. Và có lẽ, nếu cứ mặc cho hai người sáp chiến thì kẻ thắng trận nhất định là Vương Nhi!
Mọi người khuyên can mãi Vương Nhi mới chịu thôi. Xong Mê hòa thượng đã
xuất hạn dầm dề, toàn thân run lật bật, mặt đã tái lại xanh thêm. Mã phu nhân thương hại cấp linh đan cho uống để hồi sức.
Thiết Đầu ôm em vào lòng và xin Mã phu nhân cho đem y vô địa huyệt để
cứu chữa vì thực tình Mê hòa thượng bị mất sức rất nhiều, gần bại xuội.
Thiết Đầu xin cho được đặt ở trung tâm ôn địa giữa Bát Quái Đồ vì tại
nơi đây, Thiết Đầu đã tĩnh dưỡng chữa lành được vết thương bể sọ. Thiệt
vậy, không có một tịnh xá dưỡng đường nào có thể so sánh với trung tâm
thạch thất nơi đây, ánh sáng êm dịu, âm thanh huyền ảo, không khí mát
lành, kẻ nào đã vô ở không muốn ra hoặc đi ở một nơi khác.
Riêng chỉ một mình Lý Thanh Hoa biết là trung tâm Bát Quái Đồ chỉ là một phần nhỏ hẹp tạm giống thạch động chàng ở trong tinh cầu trước đây,
nhưng còn thua kém về nhiều phương diện.
Vẻ khoan khoái hiện lên trên mặt Mê hòa thượng. Y bình phục dần dần,
hoàn toàn thoát khỏi sự nguy kịch có thể chết vì quá mệt. Hai mắt bỗng
chớp chớp. Y cảm thấy buồn ngủ êm ái đua đến một giấc ngủ ngon lành,
không bịnh hoạn của một kẻ đã thức nhiều vì sợ ngủ!
Đặt đầu trên bắp vế Thiết Đầu, hắn thiu thiu cho hồn du cõi mộng dịu
dàng. Văng vẳng từ trên tòa giả sơn đua xuống địa huyệt, giọng trầm buồn tụng niệm của Vương phu nhân thức giấc khai kinh kệ vì ngoài trời đã
sáng tỏ. Chim chóc bay ra khỏi tổ kiếm mồi.
Nhất Tiếu thấy Mê hòa thượng bắt đầu nhắm mắt ngủ thì cả sợ, tay nắm chuôi đao đề phòng lâm chiến, miệng hỏi :
- Sao để nó ngủ? Đánh thức nó dậy... không thì đánh nhau một trận kinh thiên động địa bây giờ?
Mã phu nhân khuya tay bảo yên lặng, khiến Lý Thanh Hoa sai hai đầu quái coi chừng và dẫn mọi người ra khỏi địa huyệt.
Bà nói :
- Không có chi e ngại! Hắn đã lâu không được ngủ thực sự, luôn luôn hốt
hoảng trong giấc mộng du. Để yên hắn ngủ giữa Bát Quái Đồ có cơ khỏi
bệnh. Con người cứ dồn đuổi cuộc sống ham muốn vào tiềm thức, mộng du
như hắn thiếu gì ở ngoài đời hằng ngày? Đánh chém mà không biết là mình
đánh chém. Giết người mà không biết mình giết người? Thức cũng như ngủ.
Ngủ lại tưởng mình thức?
Bốn anh em Mê hòa thượng tuy bị mọi người ghét bỏ, mà vẫn yêu thương
nhau rất mực như vậy thì bỏ con đường tà trở về con đương chính đâu có
bao xa?
Nhất Tiếu cẩn thận hơn hỏi rằng :
- Chân nó yếu thế, mà sao lúc đánh nhau, nó đánh kiếm giỏi làm vậy?
Mã phu nhân thủng thỉnh trả lời :
- Chiêu pháp Mê hòa thượng sử dụng về “siêu hình”, mình lấy “lực” kiếm,
“hận” kiếm, “tâm” kiếm, “ý” kiếm khó thắng đặng. Sách phật dạy lấy
“thức” mà chống “vô thức” chưa dễ thủ thắng được. Con nên tin như vậy. Ở đời, dại gì lấy đao chém nước bao giờ?
Lý Thanh Hoa đùa giỡn :
- Nhị đệ nên khảo sát lại “đao trận” xem tại sao mà đại bại một cách sâu cay đến thế? Cũng may mà mẫu thân không muốn nhị đệ tái xuất giang hồ
chứ nếu gặp phải anh em nhà họ “ngủ” và “không ngủ” thì mệt lắm đó!
Nhất Tiếu mặt đỏ ửng, nói chữa thẹn :
- Kỳ thật há! Đại huynh này! Tại sao lại gần hai trăm võ sĩ Hắc Y tấn
công chớp nhoáng, chúng ta làm thịt chúng một cách rất gọn gàng, không
cho chạy thoát một mống và không mệt nhọc gì cả? Thế mà tất cả chúng ta
với Cương Đao sát trận phát huy uy lực dũng mãnh như thế lại không áp
đảo nổi một anh chàng “ngủ mê”?
Lý Thanh Hoa đáp :
- Ấy ở đời vẫn thường có sự “trái khoáy” như thế! Giá Nhất đệ biết cao
giọng tập “gáy” tiếng gà trống gáy gáy hay một kiện đao biết lấy lá cỏ
ép vào ngón tay thổi “kéc ke ke” như nhà sư nọ thì... chúng mình đâu có
mệt sức? Cho nên đánh nhau với địch phải biết cái “tánh”, cái “tình” của địch! Nó mộng du thì làm gà gáy sáng, nó bừng tỉnh thì là mọi việc xong xuôi cả.
Nhất Tiếu tiếp lời :
- Ừ nhỉ! Việc dễ dàng như thế mà em không nghĩ ra! Đánh nhau thì phải
nhìn vào mắt địch thủ để xét đoán ý muốn hành động của nó. Nếu nó nhắm
nghiền hai mắt lại thì tìm cách cho nó... “mở mắt” ra. Có thế mà em
không tính ra! Kém thực! Kém thực! Nhưng tại sao đối với kẻ tà giáo, hút huyết ăn máu người không tanh, tại sao đại ca không vũ động Siêu Điện
kiếm chém nó chết phắt đi rồi? Để nó sống làm chi thêm nguy hiểm? So
sánh với tụi áo đen, em thấy lũ này còn kinh tởm hơn nhiều?
- Hai anh em Thiết Đầu và Mê hòa thượng bị bệnh di truyền phải “hấp
huyết” là để bồi bổ sức khỏe sinh tồn cho bản thân chúng, nhưng họ chưa
hẳn có ác ý ham thích muốn làm như vậy. Thiết Đầu còn muốn gặp Thần Y
chữa bệnh để trở thành lương nhân, gặp Phật am thì biết sợ quỳ xuống
tụng niệm. Mê hòa thượng tuy “mê” mà còn biết đi tìm anh. Tình huynh đệ
cùng một bọc sinh ra thắm thiết với nhau rất đáng quý. Biết mê thì làm
bậy nên không dám ngủ. Ví thử nhị đệ không bắt hắn uống mười viên thuốc
ngủ, vị tất hắn đã mộng du. Tụng niệm thâu canh suốt sáng không biết mỏi là điều đáng kính phục. Đức Phật có biết cũng thương tình cho hắn. Trái lại cha con Khương Lã Bá thì là giống tuyệt ác, phải trừ khử. Thằng
Khương Bất Duy thấy thần mã thì thèm chiếm đoạt. Bị ngựa đá thì muốn
giết cả ngựa mình ham muốn. Bị gãy chân gặp mẫu thân chúng ta chữa chạy
cho khỏi, không mang ân mà lại còn đang tay giơ kiếm muốn hạ thủ. Thực
là giống vô loài! Còn cha nó đã giàu lại phụ lời ủy thác của chủ cũ là
anh em Lão Thần Y, sư phụ tham quan, làm tôi mọi cho ác tặc, giết hại
lương dân, thấy vàng tối mắt. Nó hướng dẫn đồ đảng Hắc Y đi truy nã Thần Ma Mật Tăng để đoạt lại số vàng lớn mà ta đoạt của Thái Tôn Hành, vàng
ấy đâu phải của nó? Cha con nó đã bắt cóc bao nhiêu là Miêu Nhân làm tan nát cửa nhà người ta, đem tới Bạch Hoa cương vào hầm núi đục đá cho
chúng nấu vàng. Biết bao nhiêu nhân mạng đã chết tại nơi đó? Chúng ta
“hóa kiếp” cho chúng sớm ngày nào là giải tội cho chúng đấy!
Nhất Tiếu nghe xong hớn hở vỗ tay reo lớn :
- Lời lẽ đại ca phân tích thật là xác đáng! Em kính phục! Kính phục! Bây giờ hiểu rõ, em thấy em thiết suy xét, em có cảm tưởng là chính em mê
nhiều hơn là người khác mê! Tối qua bị ngã một cái, sau lại xô mạnh một
cái, bây giờ thân thể đau nhừ. Em đi tìm hai Cẩu đầu quái nhờ chúng đấm
bóp, “tẩm quất” một hồi cho nó giãn xương cốt. như vậy là đắc sách nhất.