Đang ngủ ngon, tôi bống nghe thấy những tiếng gõ cửa “cộc cộc cộc”, liền
giật mình ngồi phắt dậy, thấy trước mắt thoáng qua một bóng đen. Tôi bất giác cả kinh, vội há miệng ra định kêu nhưng lại bị một bàn tay bịt
chặt miệng lại, bên tai thì vang lên giọng nói đã được hạ xuống rất thấp của Tôn Kim Nguyên: “Suỵt, đừng kêu!”
“Có chuyện gì xảy ra vậy?” Tôi ghé sát bên tai cậu ta, khẽ hỏi.
“Trong tủ hình như có thứ gì đó.” Tôn Kim Nguyên lạnh lung nói.
Tôi khẽ mỉm cười, hóa ra những âm thanh vừa rồi vọng ra từ trong tủ. Hồi
chiều, tôi đã nhìn kỹ chiếc tủ đó. Bên trên có khóa, hơn nữa cái khóa
còn đã rỉ sét, giữa đêm khuya thế này, chắc chắn là lũ chuột chạy ra gây chuyện. Tôi bèn nói với Tôn Kim Nguyên: “Không sao đâu, là chuột ấy mà. Nơi này lâu rồi không có người ở, chắc lũ chuột đã làm tổ trong ấy rồi. Nhìn cậu hoảng hốt kìa, thế mà còn nói là tớ nhát gan nữa chứ!”
Tôn Kim Nguyên không cho là thế, vẫn cứ ngồi xổm cạnh giường không động
đậy, nhưng một hồi lâu sau vẫn không thấy có động tĩnh gì nữa, lại không cự được sự khuyên nhủ của tôi, liền tiếp tục lên giường đi ngủ.
Chúng tôi vừa kê đầu xuống gối được một lát, còn chưa kịp ngủ thì đã nghe ba
tiếng “cộc cộc cộc” nữa vang lên, âm thanh lớn hơn hẳn vừa rồi. Lần này, tôi nghe thấy rất rõ ràng, trong lòng thầm nhủ đây tuyệt đối không phải là chuột, vì chuột không thể tạo ra âm thanh lớn như thế được.
Tôn Kim Nguyên bật đèn pin lên, nói: “Chúng ta qua đó xem thử xem sao!”
Tôi mò lấy một viên gạch từ dưới gầm giường, rảo bước tới trước cái tủ kia, nhanh chóng đập bung khóa ra. Trong tủ hoàn toàn trống trải, mọi đồ đạc đều đã bị mang đi sạch sẽ, hơn nữa xung quanh còn được dán giấy báo cực kỳ cẩn thận, không hề có chỗ nào bị rách hay thủng, cho nên không thể
có chuột hay thứ gì khác chui vào trong tủ được. Nhưng tiếng gõ “cộc cộc cộc” vừa rồi rốt cuộc từ đầu mà ra chứ?
“Lẽ nào…. có ma?” Tôi
đưa mắt nhìn qua phía Tôn Kim Nguyên vẻ nghi hoặc, muốn xem xem vị Mô
Kim hiệu úy được cao nhân chân truyền này có kiến giải gì cao minh
không.
Nhưng Tôn Kim Nguyên lại tỏ ra rất thất vọng, khẽ lắc đầu, nói: “Tớ cũng không biết nữa. Tớ vốn ngỡ rằng trong tủ có tà vật gì đó, nhưng bây giờ mở tủ ra rồi lại chẳng thấy có chỗ nào lạ thường, thật
khó hiểu.”
Tôi rụt đầu ra khỏi tủ, làu bàu nói: “Nhật định là
chúng ta tự dọa mình rồi, cứ nên quay về ngủ tiếp thôi.” Dứt lời liền
chuẩn bị đóng cửa tủ lại.
Tôn Kim Nguyên chợt kêu lên: “Từ từ đã, cậu nhìn những tờ báo kia mà xem, có phát hiện ra vấn đề gì không?”
Tôi chăm chú nhìn kỹ, thấy những tờ báo đó quả đúng là có vấn đề. Phần rìa
của chúng rõ ràng ẩm ướt hơn những chỗ khác, hơn nữa còn có thể nhìn ra
vệt nước. Như vậy thì chỉ có hai khả năng, thứ nhất là không khí ẩm ướt, trên các tấm ván gỗ có hơi nước ngưng đọng, mà phần rìa của những tờ
báo thì lại dính chặt vào đó, vậy nên mới ẩm ướt hơn những chỗ khác. Có
điều tôi lập tức loại bỏ khả năng này ngay, vì hai bức tranh dán bên
ngoài không hề có hiện tượng này, như vậy thì chỉ còn một khả năng nữa
thôi. Tôi trầm giọng nói: “Theo tớ thấy, những tờ báo này rất có thể là
vừa mới được dán lên không lâu.”
Tôn Kim Nguyên nói: “Cậu nói
đúng lắm, ban đầu tớ cứ ngỡ rằng chiếc tủ này đã bị khóa từ bên ngoài,
những tờ báo kia không thể nào mới bị dán lên được, nhưng đáp án có lẽ
nằm ngay sau đó thôi.”
Dứt lời, Tôn Kim Nguyên liền đưa tay giật
phăng mấy tờ báo xuống, quả nhiên nhìn thấy tại nơi đối diện với cửa tủ
có một cái hang tròn được đào sâu hẳn qua tường. Hai chúng tôi đều kinh
ngạc mãi không thôi.
“Tớ phải xem xem bên trong đó có điều cổ
quái gì mới được.” Tôn Kim Nguyên nói xong liền nhảy vào trong tủ chui
luôn vào trong cái hang ấy. Tôi sợ cậu ta có điều gì sơ sẩy, thế là vội
vàng theo sát phía sau.
Sau khi chui qua bức tường, chúng tôi
phát hiện phía đối diện cũng là một cái tủ, cửa tủ không đóng, bò ra
ngoài thì thấy đây là một ngôi nhà bỏ hoang chẳng khác ngôi nhà bên kia
là mấy, mọi sự bài trí cũng tương tự, chỉ là chính giữa phòng khách bên
này có đặt một cái vại nước lớn, đúng là vô cùng kỳ lạ. Tôi và Tôn Kim
Nguyên tò mò đi tới bên vại nước, vầng trăng tròn vành vạnh len qua mái
nhà bị sập mất một nửa vừa hay rọi thẳng xuống giữa vại nước, giống hệt
như một ngọn đèn sáng. Đột nhiên, là nước nổ lên gợn sóng làm bóng trăng bị đánh tan ra thành từng mảnh nhỏ như vảy cá, sau khi mặt nước bình
lặng trở lại thì bóng trăng in giữa vại nước đã biến thành một bài thơ
với các con chữ đều mang màu trắng bạc:
Lương Vương cố sự lịch thiên niên
Đa thiều si nhân thi cốt hàn
Hữu duyên trì tảo lai tương ngộ
Vô duyên đồ lao chung uổng nhiên
“Sao lại như vậy chứ?” Tôi không thể giải thích được tại sao giữa vại nước
lại đột nhiên xuất hiện bài thơ như thế này. “Lẽ nào bài thơ này có ý
khuyên chúng ta đừng đi tìm mộ Lương Vương? Theo như lời trong bài thơ
thì hình như có rất nhiều người đã vì việc này mà chết không có chỗ chôn rồi, chúng ta có nên suy nghĩ lại không nhỉ?”
Tôn Kim Nguyên
nói: “Theo tớ thấy thì không phải, cậu đừng quên còn câu thứ ba, có thể
hiểu câu đó là chúng ta đều là người có duyên, và bây giờ chính là thời
khắc gặp gỡ. Có câu rằng thiên cơ không thể tiết lộ, cũng tức là thiên
cơ thì không thể xác định trước, chỉ có đi làm rồi thì mới biết được
thiên cơ rốt cuộc là gì. Tớ bây giờ càng lúc càng có hứng thú rồi đây,
lẽ nào trong chốn mông lung mọi việc đều đã được ông trời định trước?”
Sau chừng một phút ngắn ngủi, nước trong vại lay động thêm lần nữa, rồi dần dần bóng trăng trở lại như trước, mọi việc dường như chưa từng xảy ra.
Sau đó, thấy không còn xuất hiện chuyện gì kỳ lạ nữa, tôi và Thái Khải
Long liền quay trở về theo lối cũ, mang theo nối nghi hoặc từ từ chìm
vào giấc ngủ, không trò chuyện gì thêm.
Ngày hôm sau, chúng tôi
kể lại chuyện này với Vương Tiên Dao, cô nàng liền nói ngôi nhà đó vốn
là của một cặp vợ chồng già, nhưng họ đã qua đời từ mấy năm trước, ngôi
nhà bị bỏ hoang từ đó đến giờ. Thế rồi cô nàng cùng chúng tôi chui qua
bên đó xem thử, nhưng làm gì có vại nước nào. Chỗ đặt vại nước hôm qua
xuất hiện một chiếc chậu gỗ, bên trong chẳng có một giọt nước nào.
Vương Tiên Dao cười vang, nói: “Đây chính là vại nước mà các cậu đã kể ư? Các cậu đều đến từ vương quốc người tí hon hay sao vậy? Hay là hôm qua các
cậu đã cùng nhau mộng du?”
Tôi cũng chẳng hiểu chuyện này rốt
cuộc là sao, chỉ biết ấp úng nói: “Dù sao bọn tớ cũng đã nhìn thấy, tin
hay không thì tùy cậu.”
Chiều hôm đó, Tôn Kim Nguyên nói là những món đồ thiết yếu đã tới, cậu ta cần phải ra ngoài một chuyến. Tôi vốn
muốn đi cùng nhưng cậu ta lại nói là không cần, vì đối Phương không muốn gặp người lạ. Tôi không làm sao khác được, đành ở lại chờ trong cửa
hàng đồ cổ của Vương Tiên Dao.
Chiều tối hôm đó, Tôn Kim Nguyên
trở về, xách theo một chiếc túi vải bạt, vừa đi vào phòng đã mở túi ra
khoe: “Các cậu xem tớ mang về được những thứ gì này! Đây là xẻng gấp,
thang leo núi, bếp lò không khói, bật lửa chống gió, toàn là đồ tốt cả
đấy nhé! Còn đây là đèn mỏ, gậy huỳnh quang, dùng để chiếu sáng. Gạo nếp với móng lừa đen này thì chuyên dùng để đối phó với “bánh chưng”. Cái
này gọi là phi hổ trảo. Lần trước khi bị rơi xuống gian phòng đá kia,
nếu có thứ này thì chúng ta đã không cần phải hao tốn nhiều công sức như vậy rồi. Thứ này thì là dao Tây Tạng chuẩn, sắc bén vô song, là thứ
hiếm có lắm đấy, nhưng mà chỉ có mỗi một con thôi, nên nó thuộc về tớ,
còn hai con dao găm quân dụng này là dành cho các cậu. Còn đây nữa, dây
thừng vài sợi, bật lửa Zippo một chiếc, mấy cái này thì không có gì đặc
biệt. Nhưng chưa hết đâu, còn thứ này nữa, máy bộ đàm mỗi người một cái, đề phòng chúng ta bị lạc nhau. Ấy, không ổn, ở dưới lòng đất thì thứ
này hình như không dùng được, không nên mang theo thì hơn. Phải rồi, còn có một thứ nữa cực kỳ quan trọng.”
Nói rồi, cậu ta liền mở một
chiếc túi dài màu đen bên trong túi vải ra, tôi không khỏi bất ngờ khi
nhìn thấy bên trong đó là một khẩu súng. Tôn Kim Nguyên đắc ý nói: “Đây
là một khẩu súng hoa cải, loại nguyên thủy nhất thôi, dùng còn tệ hơn
súng trường loại nhỏ của quân Bát Lộ ngày xưa nữa, nhưng ở Trung Quốc
muốn kiếm được một khẩu súng chẳng phải việc dễ dàng gì, đành dùng tạm
cái này vậy, chủ yếu là để đối phó với mấy con thú dữ chúng ta có khả
năng gặp phải trên đường đi. Ai mà biết được dưới lòng đất có những gì.”
Tôi chưa từng tận mắt nhìn thấy súng, liền tò mò đưa tay tới định cầm thử,
đột nhiên bị Tôn Kim Nguyên quát to làm giật nẩy mình: “Cẩn thận súng
cướp cò đấy!” Thế là tôi vội vàng rụt tay về và lùi lại phía sau mấy
bước, khiến hai người bọn họ không kìm được cười ha hả.
Chúng tôi lại bỏ ra thêm một ngày để chuẩn bị những thứ nhu yếu phầm khác, sau đó lái chiếc xe việt dã hiệu Thiên Lý Mã của Vương Tiên Dao đi thẳng một
mạch từ Giang Tây tới Vân Nam. Chúng tôi dừng lại tại trường cũ một
ngày, cho xe đậu trong trường, đến ngày thứ hai thì khoác ba lô leo núi, mang theo các thứ công cụ và lương khô, nước uống khởi hành đi tới Đại
Hạp Cốc.
(2) “Bánh chưng” là tiếng lóng của giới trộm mộ, chỉ các thi thể vẫn còn nguyên vẹn nhưng đã phát dinh biến dị, trở thành quái
vật.
(3) “Phi hổ trảo” có nghĩa là “vuốt hổ bay”
(4) Quân Bát Lộ là tiền thân của quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.