Trời vừa tờ mờ sáng, đất trời hãy còn bị bao phủ bởi một màn sương mờ đục, trời lạnh thấu xương, không khí lạnh lẽo ẩm thấp, thời tiết này người thường tuyệt đối chẳng dám ra khỏi nhà.
Trong đám cỏ khô vàng, một thân thể bê bết máu nằm cuộn tròn dưới đất.
Vết máu đặc quánh còn chưa kịp khô ánh lên một màu đen thẫm, chẳng còn mang màu sắc đỏ hồng vốn có của máu. Người bị thương trầm trọng này chẳng phải ai xa lạ, chính là Nhậm Sương Bạch vừa đào thoát khỏi tay thần chết đêm qua. Chàng nằm đó, hơi thở mảnh như tơ, toàn thân hoàn toàn bất động, nếu đứng cách chàng chừng vài bước chân sẽ tưởng đó chỉ là một tử thi mà thôi.
Trên con đường ruột dê dẫn lên núi, xảy nghe vang lên tiếng bước chân, tiếng bước chân chậm rãi nhàn hạ, chứng tỏ đây là khách du sơn chứ chẳng phải là người đang trên đường đi ngang đây. Chỉ có điều nếu là du sơn ngoạn thủy vào giờ này thì quả là còn quá sớm.
Nhậm Sương Bạch vẫn nằm cuộn tròn bất động, y phục chàng ướt đẫm sương đêm dính sát vào da thịt, bộ y phục cùng sương đêm hòa với máu tạo thành một lớp bọc vỏ kín thân thể chàng.
Người đang dạo bước trên sơn đạo là một hán tử tuổi trạc tứ tuần, dáng cao ráo, gương mặt gầy gầy thanh thoát, chỉ có điều những nếp nhăn hằn sâu trên trán chứng tỏ đây là một người đã trải hết sóng gió của cuộc đời, lại thêm bộ áo vải trên người khiến cho dáng vẻ y trông vừa phiêu linh vừa thoát tục.
Trung niên hán tử hai tay chắp sau lưng, nhàn hạ bước đi, song mục nhìn đó đây chẳng có một mục tiêu cố định, mục quang vô tình liếc nhìn vào đám cỏ, thân thể bê bết máu của Nhậm Sương Bạch đã gây được sự chú ý nơi trung niên hán tử.
Dừng chân bên sơn đạo, trung niên hán tử hơi do dự một thoáng rồi cẩn trọng bước đến gần, cúi người vạch cỏ quan sát thương thế Nhậm Sương Bạch, trung niên hán tử bất giác biến sắc, lắc đầu liền liền.
Hai mắt Nhậm Sương Bạch nhắm nghiền, sắc mặt vàng như nghệ, hai gò má sưng phù tím thẫm, đôi môi còn dính đầy vết máu, đó là chưa kể các vết thương trên người còn khủng khiếp hơn nữa. Thể trạng Nhậm Sương Bạch lúc này có thể nói là chỉ còn thoi thóp thở.
Trung niên hán tử đứng thẳng người dậy, phóng mắt nhìn ra tứ phía, núi xa đồi gần, tất cả đều chìm đắm trong sương mù, một cảm giác cô độc như chỉ còn có mỗi mình ta trên cõi đời này. Trong lòng trung niên hán tử bỗng nổi dậy một cảm giác đồng bệnh tương lân.
Trung niên hán tử cúi đầu nhìn xuống khẽ thở dài, biết rõ đây là một việc rất phiền phức, thậm chí còn dẫn đến họa sát thân, nhưng cũng đành vậy. Đất trời rộng lớn nhường này, nhưng người bị thương lại chọn ngay cạnh con đường núi gồ ghề này để ngã gục xuống, không phải là thiên ý thì còn là gì nữa?
Trung niên hán tử cúi thấp người xuống, thật cẩn thận ôm thân thể Nhậm Sương Bạch lên, quay người đi ngược trở lại, nhưng lúc này bước chân của y đã không còn vẻ nhàn hạ như lúc trước nữa.
Đi độ vài dặm, dưới một con dốc thoai thoải xuất hiện một gian nhà cỏ ba gian ẩn hiện trong một khoảng rừng trúc nhỏ. Trên mái nhà, một làn khói nhạt lượn lờ, buổi sáng thu lạnh lẽo, giữa một nơi hoang dã như vầy, gian nhà và làn khói bếp làm cho không gian trở nên ấm cúng hơn.
Bước chân của trung niên hán tử vững chãi bước trên sơn đạo gồ ghề, hơi thở từ miệng hóa thành một đám khói trắng phả lên thân thể Nhậm Sương Bạch. Vừa đi y vừa đưa mắt quan sát diện mạo Nhậm Sương Bạch, gương mặt trầm trầm như đang suy nghĩ một điều gì đó lại vừa như phát hiện ra một điều gì đó. Khi trung niên hán tử về gần đến nhà thì một bóng người thướt tha xuất hiện nơi ngưỡng cửa.
* * * * *
Khi Nhậm Sương Bạch tỉnh dậy đã là ngày thứ bảy kể từ hôm trung niên hán tử cứu chàng về đây.
Trên chiếc sập tre, Nhậm Sương Bạch mở hai mắt trống rỗng nhìn lên trần nhà, hai cánh mũi phập phồng, dùng khứu giác để cố nhận định nơi mà chàng đang dung thân. Đương nhiên, không khí tư bề vô cùng lạ lẫm, chàng không thể nào biết được đây là nơi nào, càng không biết vì sao mà mình lại có mặt ở đây.
Cuối cùng chàng cảm thấy có người đến, người này dừng chân ở cách chỗ chàng nằm khá xa, thập chí chàng còn cảm nhận được ánh mắt đối phương đang chăm chú nhìn mình. Chàng nhận ra đó là một nữ nhân, không những là một nữ nhân mà còn là một xử nữ, trên người xử nữ bao giờ cũng tỏa ra một thứ mùi đặc dị, một mùi u hương khó nói thành lời.
Một giọng nói êm như nhung, ngọt như mật vang lên :
- Công tử đã tỉnh rồi?
Nhậm Sương Bạch cố cử động thân hình, chỉ cảm thấy toàn thân bị quấn chặt, không thể cử động được. Chàng ho khan hai tiếng, đưa hai tay làm một cử chỉ hành lễ, nói :
- Chính cô nương đã cứu tại hạ?
Giọng nói êm dịu ngọt ngào ấy lại vang lên, nói :
- Không phải ta, mà chính là đại ca đã cứu công tử.
Nhậm Sương Bạch liếm đôi môi khô ráp của mình, cất giọng khản đặc nói :
- Cô nương, xin hỏi danh húy của lệnh huynh là...
Thiếu nữ cười nhẹ nói :
- Để đại ca đích thân nói cho công tử biết, nếu anh ấy bằng lòng nói!
Nhậm Sương Bạch cố nở một nụ cười, nhưng gương mặt chàng cứng ngắc, không sao cử động được, chàng khó khăn nói :
- Vậy khi nào tại hạ mới được bái kiến lệnh huynh?
Thiếu nữ dịu dàng nói :
- Đại ca ta lên núi hái thuốc, chẳng bao lâu nữa sẽ trở về, khí anh ấy về nhà thể nào cũng đến thay thuốc cho công tử. Chắc công tử không thể biết, để cứu được công tử, đại ca đã phải thức suốt ba ngày ba đêm liền...
Nhậm Sương Bạch cảm thấy bất an, nói :
- Nói vậy tại hạ đã hôn mê ba ngày ba đêm rồi, thật không ngờ lại nghiêm trọng đến như vậy!
Thiếu nữ cười nhẹ nói :
- Công tử không chỉ hôn mê có ba ngày ba đêm, hiện giờ đã là chiều ngày thứ bảy rồi đó! Lúc đại ca mang công tử về, tiểu nữ sợ đến chết khiếp, toàn thân đầy máu, nhìn chỗ nào cũng thấy vết thương, da thịt tơi bời đến chẳng dám nhìn, cả xương trắng cũng lộ ra ngoài, trên vai trái hãy còn một chiếc thiết bổng cắm dính trong đó. Ta cứ tưởng đại ca ôm một tử thi về nhà!
Nhậm Sương Bạch khó khăn nuốt khan một cái nói :
- Thật không ngờ lại bị thương nặng đến như vậy!
Thiếu nữ nói :
- Lúc ấy công tử chỉ còn thoi thóp thở, hơi thở mảnh như sợi tơ, tưởng như có thể đứt đoạn bất cứ lúc nào. Đại ca đã phải rất vất vả mới có thể ổn định được thương thế. Nhớ lại lúc ấy đại ca nói, kể như đã giành lại được mạng công tử từ trong tay tử thần!
Nhậm Sương Bạch ngẩn ngơ một lúc rồi nói :
- Ân tái tạo này, biết lấy gì để báo đáp?
Thiếu nữ tiến lại gần hơn chút nữa, không phải hương thơm mà là mùi da thịt thanh thoát của thiếu nữ nghe nồng hơn một chút :
- Công tử chẳng cần phải quan tâm đến điều lễ tục ấy, đại ca cứu người chẳng phải để mong được đáp đền. Trời còn có đức hiếu sinh, làm gì có chuyện thấy chết mà không cứu? Nếu công tử nhìn thấy cảnh ấy, chắc cũng không thể bỏ qua!
Nhậm Sương Bạch khẽ nhếch mép nói :
- Cô nương, có lẽ cô nương không thể biết được rằng, trong trường hợp này vấn đề không chỉ là cứu một mạng người, mà đằng sau con người ấy còn liên quan đến rất nhiều điều phiền phức, ân oán trùng trùng chẳng biết thế nào mà lường trước được!
Thiếu nữ im lặng một thoáng rồi nói :
- Đó chẳng phải là điều nên nghĩ tới khi cứu người! Người ta sống ở trên đời, mấy ai tránh được phiền phức, mấy ai chẳng có dây dưa ân oán?
Nhậm Sương Bạch ngẩn người nói :
- Cô nương, vậy ra nhị vị cũng...
Thiếu nữ ngắt lời Nhậm Sương Bạch :
- Ta chẳng có ý gì cả, thôi mau uống thuốc đi, thuốc đã nguội hết rồi.
Nhậm Sương Bạch đón lấy chén thuốc ực một hơi cạn sạch, thuốc đắng đến líu cả lưỡi.
Thiếu nữ đón lấy chén mỉm cười nói :
- Thuốc hay thường phải đắng như vậy đó, công tử!
Nhậm Sương Bạch gật đầu, nói :
- Làm phiền cô nương quá!
Xảy nghe có tiếng vén rèm cửa, một giọng nói trầm trầm vang lên :
- Khách đã đỡ chưa, muội tử?
Thiếu nữ hình như quay mình lại, cười cười nói :
- Đã tỉnh dậy rồi, vừa mới uống thuốc xong.
Nhậm Sương Bạch cố hết sức ngồi thẳng người dậy, hai tay ôm quyền hướng về phía phát ra tiếng nói thi lễ :
- Tại hạ Nhậm Sương Bạch, đa tạ ân đức cứu mạng của huynh đài!
- Không cần phải khách sáo như vậy, gặp chuyện qua đường không làm đêm về nhà ngủ cũng không yên, chẳng có gì phải đa tạ cả.
Người vừa mới bước vào nhà chính là trung niên hán tử đã cứu Nhậm Sương Bạch.
Nhậm Sương Bạch chỉ nhìn thấy lờ mờ bóng dáng của hai huynh muội, bằng không, khi nhìn thấy thiếu nữ ắt hẳn chàng phải buột miệng khen hai tiếng “mỹ nhân”.
Thiếu nữ tuổi trạc đôi mươi, mặt như trăng rằm, mũi thẳng dọc dừa, làn thu ba sáng rỡ dưới đôi mày liễu làm gương mặt nàng càng thêm sáng sủa, mỗi khi môi anh đào hé mở để lộ hai hàm răng ngọc đều tắp. Toàn thân nàng toát lên một vẻ đẹp thánh thiện thuần khiết như một đóa sen trắng, mỹ miều, tao nhã và không vương chút phấn son trần tục!
Hán tử kéo chiếc ghế tre ngồi xuống trước giường, song mục chăm chú quan sát Nhậm Sương Bạch, nói :
- Nhìn bên ngoài, có lẽ ta lớn hơn ngươi vài tuổi, thôi thì chẳng khách sáo, gọi ngươi hai tiếng lão đệ cho gần gũi. Lão đệ, lúc nãy ngươi tự xưng tên là “Bạch” gì đó có phải không?
Nhậm Sương Bạch cũng chẳng khách sáo, gật đầu nói :
- Tiểu đệ họ Nhậm, Nhậm Sương Bạch!
Trung niên hán tử hơi nhíu mày, lẩm nhẩm nhắc lại mất tiếng “Nhậm Sương Bạch”, cúi cùng ngẩn mặt lên hỏi :
- “Hàn Nguyệt” Nhậm Sương Bạch?
Nhậm Sương Bạch gượng cười nói :
- Thiên hạ gán cho tiểu đệ cái xú hiệu ấy.
Trung niên hán tử xoa xoa hai tay vào nhau, vẻ ngạc nhiên nói :
- Lão đệ, bằng vào bản lãnh của ngươi, kẻ nào có thể làm ngươi bị thương đến độ này? Suýt chút nữa thì mạng cũng không còn!
- “Quật Doanh lão nông” Tằng Kiếm, “Khai Quan quỷ tẩu” Ngô Trạm, “Vô Duyên tiều tử” Bành Nguyên, ba người bọn chúng liên thủ biến tiểu đệ thành hình dạng như huynh đài đã thấy.
Trung niên hán tử thở hắt ra một hơi dài nói :
- Thì ra là ba lão quái vật ấy, thảo nào mà kết quả không tàn khốc đến thế sao được! Đừng nói là ba lão quái vật ấy liên thủ, chỉ một người thôi đã rất khó đối phó rồi. Nhậm lão đệ, trong vòng vây của ba lão mà còn thoát thân được, đương kim võ lâm chưa chắc đã có mấy người!
Nhậm Sương Bạch gượng cười nói :
- Không ngờ chúng đã chuẩn bị một thứ âm khí gọi là “bàn tiêu” làm phát ra thứ tiếng kêu inh ỏi, vừa nghe thấy tiếng kêu tiểu đệ đã biết là tình hình bất diệu, cố gắng lắm mới giữ được mạng chạy thoát thân.
Trung niên hán tử cẩn trọng nói :
- Nhậm lão đệ, nghe nói song mục của lão đệ có điều bất tiện...
Nhậm Sương Bạch gật đầu nói :
- Không sai, tiểu đệ bị lòa.
Thiếu nữ nãy giờ đứng yên, nghe nói bỗng kêu lên một tiếng, nàng vội vàng lấy tay bịt miệng, sau đó mới chậm rãi nói :
- Thật lỗi quá, thảo nào tiểu muội thấy cử động của Nhậm huynh có hơi khác thường.
Nhậm Sương Bạch chẳng mấy lưu tâm, mỉm cười nói :
- Cử động của người mù, ít nhiều gì cũng có khác biệt so với người thường.
Trung niên hán tử nhìn nàng, giọng trách cứ :
- Muội tử, ngươi đã lớn dường này rồi mà ăn nói còn không biết lựa lời!
Thiếu nữ hơi đỏ mặt nói :
- Đại ca, tiểu muội chỉ thuận miệng nói vậy thôi mà, muội có ý gì đâu!
Nhậm Sương Bạch khoát tay, nói :
- Không sao, không sao. Tiểu đệ xưa nay không hề úy kỵ chuyện ấy...
Dừng một lát, chàng lại nói :
- Không biết cao danh đại tánh của huynh đài có thể cho tiểu đệ biết được chăng?
Trung niên hán tử hơi do dự một thoáng rồi nói :
- Thôi được, cũng chẳng giấu gì lão đệ, ta họ Chung, tên là Khứ Tầm, còn đây là tiểu muội cùng cha khác mẹ của ta, Chung Nhược Tự. Nhậm lão đệ, nói trắng ra là, sở dĩ hai huynh muội ta sống chui rúc ở nơi thâm sơn cùng cốc này cũng là vì lánh nạn.
Nhậm Sương Bạch trầm ngâm một thoáng rồi nói :
- Vậy ra Chung huynh xuất thân từ Quỷ Mã bang?
Chung Khứ Tầm gật gật đầu nói :
- Quỷ Mã bang có tất cả sáu vị đương gia, ta là lão tam.
Nhậm Sương Bạch chợt nhớ ra, ngẩng đầu lên, nói :
- Nghe đâu hai năm trước Quỷ Mã bang xảy ra nội loạn, chẳng hay việc này thực hư thế nào?
Chung Khứ Tầm gượng cười nói :
- Đúng là có chuyện đó, sau cơn động loạn ấy, ta gắng gượng đào thoát chạy về đây nương náo. Nhưng hiện giờ chưa hẳn là đã yên, bọn chúng đang ra sức truy lùng ta để trảm thảo trừ căn.
Nhậm Sương Bạch nhíu mày nói :
- Huynh đệ trong cùng một bang, làm gì đến nỗi phải tương tàn tương sát như vậy?
Chung Khứ Tầm thở dài nói :
- Chuyện ở đời, một khi có dính đến quyền lực và tài phú, lương tri của con người dễ bị ăn mòn, tâm tánh cũng đổi thay. Quỷ Mã bang vốn là một bang hội có thực lực và tiềm năng rất lớn, chính vì địa bàn hoạt động quá rộng và nhân mã cũng quá đông, việc các huynh đệ tranh giành quyền lực tranh thủ lợi riêng thường xuyên xảy ra. Đại đương gia muốn thanh trừng để giữ nghiêm bang quy, nhưng Nhị đương gia và ba vị đương gia ở dưới ta lại kịch liệt phản đối, sự việc càng ngày càng nghiêm trọng, nỗi uất ức tích tụ lâu ngày cuối cùng đã bùng phát, biến thành một trận tương tàn máu lửa...
Nhậm Sương Bạch dù đã biết kết cuộc, nhưng cũng không ngăn được, hỏi :
- Kết quả Chung huynh và Đại đương gia thất bại?
Chung Khứ Tầm thở dài nói :
- Nếu ta và Đại đương gia thắng thế thì ta đã không phải trốn chui trốn nhủi như bây giờ!
- Nếu chỉ là lưu lạc giang hồ thì nói làm gì, Đại đương gia bị thất thủ chết tại chỗ, còn ta thì phải trốn chui trốn nhủi, sống không bằng chết! Mỗi khi nhớ đến việc này lòng ta như bị lửa đốt, căm hận đến không biết để đâu cho hết!
Chung Nhược Tự dịu giọng nói :
- Đại ca à, đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa, nếu không đại ca sẽ lại ăn không ngon ngủ không yên cho mà coi. Như hai năm trước đó, suốt ngày đại ca không than vắn thở dài thì nghiến răng nghiến lợi, người cứ như điên như dại, chỉ vài tháng là lại gầy đến không còn ra nhân dạng nữa...
Chung Khứ Tầm nghiến răng nói :
- Muội tử, việc này ta dù có chết cũng không thể quên được. Bọn phản nghịch phạm thượng, tiếm quyền đoạt vị, khi sư diệt tổ ấy tội ngàn vạn lần chết cũng chưa chuộc được, nếu không nhìn thấy chúng đền tội ta chết cũng không nhắm mắt được!
Chung Nhược Tự thở dài, giọng u oán nói :
- Nhưng hiện thời chúng ta sức yếu thế cô, chúng phản thân ly, lấy gì để tranh chấp với chúng?
Thần thái Chung Khứ Tầm cũng lập tức trở nên u ám, giọng nặng nề nói :
- Chưa hẳn là không có cách, có một ngày ta nhất định sẽ chu diệt chúng, nếu không thì còn đâu là thiên đạo nữa!
Chung Nhược Tự cúi thấp đầu nói :
- Từ nhỏ, cha mẹ đã lần lượt qua đời, muội do một tay đại ca giáo dưỡng nên người, bao năm nay huynh muội ta sống dựa vào nhau, nếu đại ca chết đi, muội không biết mình sẽ sống ra sao nữa. Muội hiểu được nỗi lòng của đại ca, hiểu được nỗi căm hận uất ức trong lòng đại ca, nhưng đại ca nhất định phải nhìn xa trông rộng, đại ca phải sống, không vì đại ca thì cũng vì muội.
Chung Khứ Tầm đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng một lúc lâu không khí trầm lặng nặng nề bao trùm khắp nhà.
Chung Nhược Tự bưng chén thuốc không bước ra, đến cửa phòng còn quay đầu lại nói :
- Đại ca đi rửa tay đi, muội đi dọn cơm đây.
Chung Khứ Tầm khẽ “Ừ” một tiếng rồi đưa mắt quan sát thần thái Nhậm Sương Bạch. Lúc này Nhậm Sương Bạch nhắm nghiền hai mắt, thần thái tĩnh lặng đến lạ lùng, chỉ có đôi mày là hơi nhíu lại, chứng tỏ lòng chàng đang nghĩ ngợi một điều gì đó.
Chung Khứ Tầm khẽ đằng hắng một tiếng, vẻ bất an nói :
- Nhậm lão đệ, lẽ ra ta không nên nói những việc này khiến cho lão đệ phiền lòng, việc của ngươi cũng đủ phiền toái lắm rồi.
Nhậm Sương Bạch mở hai mắt ra, giọng bình thản nói :
- Nhân sinh là một trường khổ hận, ai ai cũng phải hứng chịu, lấy đâu ra hoan lạc mà tận hưởng?
Chung Khứ Tầm gật đầu, lẩm bẩm nói :
- Đúng, nhân sinh chính là một trường khổ hận...
Chung Khứ Tầm bỗng ngẩn lên nói :
- Ta đi ăn cơm trước đây, lát nữa Nhược Tự sẽ mang cơm lại cho ngươi. Nhậm lão đệ, hãy cố mà tĩnh dưỡng, đừng nghĩ ngợi những điều phiền lòng làm gì, thương thế này phải tĩnh dưỡng mới mau chóng bình phục.
Nhậm Sương Bạch gượng cười nói :
- Làm phiền nhị vị nhiều quá, tiểu đệ thật hổ thẹn, chẳng dám nói lời cảm ơn.
Chung Khứ Tầm xua tay nói :
- Đừng khách sáo, đồng là người lưu lạc cả.
“Đồng là người lưu lạc cả”, bất giác Nhậm Sương Bạch nghe trỗi dậy một niềm thương cảm vô bờ. Đúng, đồng là người lưu lạc giang hồ, nhưng huynh muội Chung gia ít ra cũng còn có tự do, được tự mình quyết định mọi việc, được tự do quyết định hành động của mình; nhưng còn chàng? Ngay cả cái quyền cơ bản nhất ấy chàng cũng không có!
* * * * *
Sáng sớm, khó khăn lắm mới có được một ngày đẹp trời.
Nhậm Sương Bạch ngồi trên một chiếc ghế đặt trước cửa, lim dim mắt ngồi tắm nắng, ánh nắng ấm áp vuốt ve thân thể chàng, một cảm giác lâng lâng dễ chịu lan tỏa toàn thân.
Chung Nhược Tự từ trong nhà đi ra, tay nàng bưng một chén trà nóng bốc khói, đặt chén trà vào tay Nhậm Sương Bạch rồi lui ra ngồi trên một tảng đá bên thềm nhà, hai tay nàng vuốt ve đuôi tóc, len lén đưa mắt nhìn Nhậm Sương Bạch.
Nhậm Sương Bạch mỉm cười nói :
- Chung cô nương, tại hạ có gì đáng nhìn mà cô nương nhìn nhiều vậy?
Chung Nhược Tự bật cười nói :
- Lạ thật, Nhậm huynh làm sao biết tiểu muội nhìn huynh chứ?
Nhậm Sương Bạch hớp một ngụm trà, chậm rãi giải thích :
- Một loại cảm giác, cũng là phản ứng theo bản năng. Chung cô nương, ví dụ như cô nương đang đi đường, mắt chẳng nhìn sang hai bên đường, nhưng nếu có người chú mục nhìn cô nương, chắc rằng cô nương sẽ có cảm giác như ai đó đang nhìn mình. Mục quang là thứ vô chất vô hình, nhưng lại ẩn chứa một lực lượng không thể giải thích được!
Chung Nhược Tự gật gật đầu nói :
- Không sai, muội đã từng có cảm giác như vậy...
Rồi nàng lại mỉm cười, để lộ hai hàm răng ngọc, nói :
- Sương Bạch ca, huynh có biết không, có những lúc huynh hoàn toàn giống như một người bình thường, mỗi một hành động, cử chỉ đều chính xác đến không thể hiểu được, có khi muội còn hoài nghi không biết huynh có thật là một người khiếm thị hay không nữa!
Từ Nhậm huynh chuyển sang xưng hô bằng Sương Bạch ca, khoảng cách giữa hai người vô tình được kéo lại gần hơn lúc nào Chung Nhược Tự cũng không hay biết.
Nhậm Sương Bạch mỉm cười nói :
- Giá mà tại hạ mù giả được như vậy thì còn gì hơn!
Chung Nhược Tự thở dài nói :
- Chuỗi ngày tăm tối của người khiếm thị chắc là buồn bã bức bối lắm?
Nhậm Sương Bạch trầm ngâm một thoáng rồi nói :
- Thế giới trong mắt tại hạ không hoàn toàn tăm tối, nói cho chính xác hơn là “lờ mờ” mà thôi, nhưng như vậy cũng đủ chịu đựng rồi. Nhìn hoa qua một làn sương dày đặc, hoa dù đẹp cũng chỉ nhìn thấy mơ hồ và xa xăm...
Chung Nhược Tự hình như cảm nhận được có điều gì đó hơi khác lạ trong giọng nói Nhậm Sương Bạch, nhưng hãy còn rất mơ hồ, chỉ nghe giọng nàng tỏ vẻ quan tâm, hỏi :
- Không lẽ chẳng có cách gì chữa trị được sao?
Nhậm Sương Bạch lắc đầu, khẽ thở dài nói :
- Chẳng có chút hy vọng nào, Chung cô nương.
Chung Nhược Tự cúi đầu trầm ngâm một thoáng rồi ngẩn lên nói :
- Sương Bạch ca, y thuật của đại ca muội khá tinh thâm, từ nhỏ đại ca đã rất thích thú nghiên cứu y thuật, đại ca đã từng bái sư học nghệ, về sau còn mở hiệu nữa đấy! Muội đang định hỏi đại ca xem có cách gì chữa trị cho huynh hay không.
Nhậm Sương Bạch mỉm cười nói :
- Đa tạ hảo ý của cô nương, có điều, theo tại hạ thì hy vọng mỏng manh lắm.
Chung Nhược Tự tỏ vẻ rất tự tin, nói :
- Nhưng ít ra cũng phải thử một lần cho biết chứ, Sương Bạch ca, không thử thì sao biết được là vô vọng?
Nhậm Sương Bạch hớp một ngụm trà, nước trà ấm nóng tràn qua đôi môi, mùi trà thoang thoảng, vị trà nồng nàn lan tỏa trong miệng, Nhậm Sương Bạch mỉm cười nói :
- Việc này để bàn sau đi. À phải rồi, Chung huynh đi đâu rồi? Lại đi hái thuốc à?
Chung Nhược Tự lắc đầu nói :
- Không phải, đại ca vào trong trấn mua đồ, trong núi chỉ có rau dại thú hoang, những thức ăn và vật dụng khác đều phải vào trấn mua về, cứ vào khoảng cuối tháng là đại ca phải chạy một chuyến, muộn lắm là xế trưa sẽ về tới.
Nhậm Sương Bạch hỏi :
- Từ đây lên trấn bao xa?
Chung Nhược Tự đáp :
- Khoảng hơn hai mươi dặm gì đó. Sương Bạch ca định lên trấn chơi chăng?
Nhậm Sương Bạch lắc đầu nói :
- Không, tại hạ hỏi thử để ước đoán khoảng thời gian đi về của lệnh huynh.
Chung Nhược Tự mỉm cười nói :
- Đại ca muội đánh xe đi, từ khi về ẩn cư ở đây, để tránh tai mắt, đến cả ngựa đại ca cũng chẳng dám dùng tới, chỉ mua một con lừa để kéo xe, trông dáng dấp của đại ca khi đi ra ngoài, hoàn toàn giống một anh chàng người miền núi, oai phong của đại ca ngày cũ đã biến mất từ lâu rồi.
Nhậm Sương Bạch tựa lưng vào ghế, chậm rãi nói :
- Biết cân nhắc khinh trọng đó mới là đại trượng phu!
Chung Nhược Tự thở dài nói :
- Hai năm nay phải sống ẩn dật thế này quả là một việc quá sức chịu đựng của đại ca, đôi lúc nhìn thấy vẻ nhẫn nhục của đại ca muội cũng thấy xót xa.
Nhậm Sương Bạch bỗng ngẩn mặt lên nhìn về phía Chung Nhược Tự, hỏi :
- Quỷ Mã bang hiện thời do Nhị đương gia hồi trước nắm quyền phải không?
Chung Nhược Tự giọng căm hận nói :
- Hắn tên là Chương Cư Nhân, do đầu tóc bạc trắng nên ai nấy đều gọi hắn là “Bạch Phát” Chương Cư Nhân. Người này tên thì nghe văn nhã nhân từ nhưng kỳ thực lại là một kẻ đê tiện, lòng lang dạ thú. Thật ra thì hắn đã âm mưu tạo phản từ lâu, nhưng lần lữa mãi chưa chịu hạ thủ vì thời cơ chưa tới đó thôi, một khi thời cơ đã tới, hắn định đánh một mẻ hết sạch những người chống lại hắn, nhưng đại ca nhanh chân tẩu thoát được. Cho đến tận bây giờ hắn vẫn chưa chịu buông tha cho đại ca.
Nhậm Sương Bạch lại hỏi :
- Gã họ Chương ấy võ công chắc khá lắm?
Chung Nhược Tự hừ lạnh nói :
- Khá thì có khá, nhưng nếu một đấu một thì hắn bì sao nổi với đại ca?
Nhậm Sương Bạch mỉm cười nói :
- “Hồng Cân” Chung Khứ Tầm, hồng cân kiến huyết, xưa nay chưa từng có ngoại lệ, oai danh của lệnh huynh tại hạ kính ngưỡng đã lâu.
Chung Nhược Tự vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nói :
- Sương Bạch ca cũng biết thói quen ấy của đại ca muội à?
Nhậm Sương Bạch gật đầu nói :
- Lăn lộn trên giang hồ, những nhân vật có danh tiếng đều buộc phải biết, một khi chạm mặt mới biết phải cư xử sao cho hợp lẽ.
Chung Nhược Tự thoáng ảo não nói :
- Nhưng chiếc hồng cân ấy đã hai năm nay đại ca không chạm đến...
Nhậm Sương Bạch khoát tay nói :
- Không cần phải ảo não như vậy, Chung cô nương, tại hạ hiểu được nỗi lòng của lệnh huynh, anh ấy không bao giờ chịu sống thầm lặng như vầy đến cuối đời đâu. À phải rồi, tại hạ muốn hỏi cô nương một việc, thương thế của tại hạ còn phải tĩnh dưỡng bao lâu nữa mới hoàn toàn bình phục?
Chung Nhược Tự nói :
- Nghe đại ca nói phải tĩnh dưỡng thêm mươi bữa nửa tháng nữa mới khỏi hẳn, các vết thương trên người Sương Bạch ca lành miệng rất nhanh, chỉ có vết thương nơi sườn vì quá sâu, lậm vào đến nội phủ, nên bình phục hơi chậm. Đại ca nói phải chờ cho vết thương này khỏi hẳn mới được làm việc nặng, nếu không sẽ rất dễ lưu di chứng.
Nhậm Sương Bạch làm ra vẻ không mấy quan tâm nói :
- Gần tháng đã qua rồi, sá gì mươi ngày nửa tháng nữa? Không lưu ý đến ngày tháng nó sẽ mau chóng qua đi.
Chung Nhược Tự nhìn Nhậm Sương Bạch một thoáng rồi hỏi :
- Huynh đang có việc gấp bên người phải đi ngay sao?
Nhậm Sương Bạch hớp một ngụm trà, nước trà đã lạnh ngắt, nuốt ngụm trà xuống bụng, nhưng chẳng biết tại sao vị trà bỗng trở nên đắng lạ thường, cố giấu một tiếng thở dài nói :
- Chung cô nương, tại hạ còn việc phải làm, số mệnh của tại hạ là phải bôn ba quanh năm suốt tháng, chẳng có lấy một ngày an nhàn.
Chung Nhược Tự như cũng có cảm xúc khác lạ, nói :
- Giang hồ gian trá, nhìn đâu cũng thấy nguy cơ, một khi đã nhảy vào vũng bùn ấy rồi thật khó mà thoát ra được, ai lỡ rơi vào đó thì thật là bất hạnh.
Nhậm Sương Bạch thở dài nói :
- Thân đã ở trong giang hồ, nếu không muốn nửa chừng xuất gia thì chẳng có lối nào thoát ra cả, phần lớn đều mắc phải tình huống giống như tại hạ, nghĩa là mình không thể làm điều mình muốn làm mà buộc phải nhắm mắt bước liều trên con đường đầy gai góc ấy. Từ khi sư phụ ta nhận ta về dạy dỗ, từ khi ta bắt đầu hiểu biết thì thân này đã rơi vào vũng bùn ấy rồi!
Chung Nhược Tự hiếu kỳ hỏi :
- Sương Bạch ca, hình như huynh là một cô nhi?
Đưa chén trà đã uống cạn cho Chung Nhược Tự, Nhậm Sương Bạch gật đầu nói :
- Đúng vậy, ta là một cô nhi, một cô nhi mù lòa, nói ra thì thật tội nghiệp có phải không?
Chung Nhược Tự đón lấy chiếc chén, chẳng biết đáp lời Nhậm Sương Bạch thế nào, chỉ giương đôi mắt đen láy chăm chăm nhìn Nhậm Sương Bạch.
Trước đây nàng tưởng chỉ có huynh muội mình mới là người khổ nhất trần gian, nhưng bây giờ nàng mới biết thế gian còn nhiều người khổ ải hơn mình gấp nhiều lần mà Nhậm Sương Bạch là một ví dụ sống động nhất.