Lòng tự tin ấy của Nguyên Đào suýt một tý nữa làm cho Tiểu Hồng nổi giận, vì chàng đã chạm phải lòng tự ái của một thiếu nữ mà không hay. Sau Tiểu Hồng sực nhớ lời dặn bảo của Công Dương Mậu, và nhận thấy chàng rất thực tình chứ không phải màu mè gì đâu nên nàng mới cố nén lửa giận xuống rồi. nhìn mặt chàng một hồi, gượng cười hỏi:
– Thị cái gì mà đại ca tin tưởng như thế?
Nguyên Đào lắc đầu đáp:
– Không phải tôi tự tin mà là Tiểu Hồng đã nói cho tôi hay như thế.
Tiểu Hồng ngạc nhiên hỏi tiếp:
– Tiểu muội nói cho đại ca hay bao giờ?
Đôi mắt lộ đầy tình tứ, Nguyên Đào vẫn ngắm nhìn Tiểu Hồng mỉm cười khẽ đáp:
– Tiểu Hồng không dùng đầu lưỡi nói cho tôi hay, mà là dùng nước mắt bảo cho tôi biết. Nếu Tiểu Hồng không ưa tôi, hay không muốn ở cạnh tôi mãi mãi thì không khi nào Tiểu Hồng lại khóc lóc như thế nữa.
Tiểu Hồng không sao nhịn được cười và gật đầu đáp:
– Không ngờ chàng ngốc tử lại bỗng thông minh đến như thế. Nhưng đại ca muốn tôi nhận lời thì phải nghe theo điều kiện này của tôi mới được!
Nguyên Đào thấy mình đã đoán đúng, hớn hở vô cùng, nắm vai của Tiểu Hồng lay mấy cái và hỏi tiếp:
– Tiểu Hồng nói đi, dù một vạn điều kiện tôi cũng vui lòng nhận.
Tiểu Hồng bỗng hỏi một câu rất bất ngờ rằng:
– Tôi không tán thành đại ca là Võ Lâm Đệ Nhất Nhân.
Nguyên Đào nghe nàng nói xong, chỉ cau mày lại gượng cười thôi.
Tiểu Hồng thấy thế cười khẩy nói tiếp:
– Thế mà còn nói một vạn điều kiện nữa...
Nguyên Đào xua tay đỡ lời:
– Tiểu Hồng đừng có tức giận vội, tôi nhận lời không làm võ Lâm Đệ Nhất Nhân, mà chỉ làm Võ Lâm Đệ Nhị Nhân thôi. Như vậy Tiểu Hồng đã bằng lòng chưa?
Tiểu Hồng lạnh lùng đáp:
– Làm đệ nhị nhân cũng không được. Tiểu muội không muốn trong đầu óc của đại ca lúc nào cũng có ý nghĩ làm người thứ mấy của võ lâm một cách rất tức cười như thế.
Nguyên Đào có vẻ không phục hỏi lại:
– Ý nghĩ ấy là di mệnh của sư phụ tôi dặn bảo trước khi hấp hối, sao Tiểu Hồng lại bảo là tức cười được?
Tiểu Hồng cười khẩy đáp:
– Sư phụ của đại ca là ai? Có lẽ ông ta là người rất tầm bậy, đã tự hại thân mình, lại còn muốn hại hết thẩy nhân vật của võ lâm. Vì tôn chỉ học võ, đối với bổn thân là dùng để làm cho khỏe mạnh, tráng kiện sống lâu. Còn đối với người, thì dùng để độ dân cứu thế, trừ bạo an dân. Nếu học võ chỉ cốt làm người thứ mấy trong võ lâm như vậy, có khác gì con chó điên, bạ ai cũng cắn không? Vả lại còn Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đông, Tây, Nam, Bắc, bất luận đại điểm, suốt ngày chỉ đi kiếm người để đấu trí mạng. Đại ca không tin thử nhắm mắt suy nghĩ xem, một đại hán điên như thế là cái thá gì không? Thử hỏi tiểu muội có chịu làm bạn suốt đời với người ấy không?
Thoạt tiên Nguyên Đào nghe thấy Tiểu Hồng nói xấu sư phụ mình, đã nổi giận luôn, nhưng nghe tới câu sau, thì chàng bỗng kêu “Ối chà” một tràng đáp:
– Lời nói của Tiểu Hồng rất có lý.
Tiểu Hồng đi theo Lệnh Hồ Sở Sở xông pha khắp mọi nơi, kiến thức rất rộng lớn, nên nàng đã khôn khéo bắt giữ được trái tim của Nguyên Đào một người mới sa ngã vào trong bể tình rồi. Vì vậy nàng đang lạnh lùng bỗng hớn hở tươi cười và khẽ nói tiếp:
– Đại ca đã thấy những lời nói của tôi có lý thi phải nên ngoan ngoãn nghe lời. Bằng không, chúng ta mỗi người đi một ngả, xin chia tay ngay từ đây.
Nguyên Đào nắm chặt lấy hai tay của Tiểu Hồng, gật đầu đáp:
– Tiểu Hồng đừng có chia tay với tôi nữa. Tôi xin ngoan ngoãn nghe lời.
Tiểu Hồng rất an lòng, hai má lộ ngay hai núm đồng tiền và tinh nghịch hỏi:
– Đại ca sẽ ngoan ngoãn tới mức độ nào?
Nguyên Đào rất thành khẩn, mỉm cười đáp:
Ngoan ngoãn tới mức không còn ngoan ngoan được hơn thế nữa. Tiểu Hồng bảo tôi đi Đông, tôi không bao giờ đi Tây, bảo tôi đánh chó, không bao giờ tôi đuổi gà, bảo tôi không được dậy thì tôi cứ nằm yên ở trên giường.
Không sao nhịn được, Tiểu Hồng vừa cười vừa lúc lắc đầu hỏi tiếp:
– Tôi chỉ cần đại ca nghe tôi dặn bảo những đại sự thôi, chứ có ai muốn đại ca biến thành một cái máy, tha hồ để cho người ta thao túng như thế.
Nói tới đó, nàng lại mỉm cười hỏi tiếp:
– Tại sao đại ca lại cứ thích sống chung với tôi như thế?
Nguyên Đào lấc đầu đáp:
– Tôi cũng không hiểu tại sao. Tôi chỉ cảm thấy hai chúng ta hình như là một Tiểu Hồng khóc thì tôi buồn, Tiểu Hồng vui thì tôi cao hứng.
Nghe thấy Nguyên Đào nói như vậy, Tiểu Hồng cảm động đến ứa nước mắt ra, liến thừa cơ tựa ngay vào lòng Nguyên Đào để cho chàng được âu yếm chốc lát Nguyên Đào đang khoan khoái không thể tưởng tượng được, thì Tiểu Hồng nũng nịu cười và khẽ hỏi tiếp:
– Nguyên Đào, tuy đại ca yêu tôi, nhưng tôi có nhiều khuyết điểm lắm, chỉ e không xứng với đại ca, ví dụ về phương diện võ công...
Không đợi chờ nàng nói dứt, Nguyên Đào đã vội đỡ lời:
– Tiểu Hồng, võ công của hiền muội đã là cao thủ thượng thừa rồi. Từ giờ trở đi, chúng ta cùng nghiên cứu với nhau, tất nhiên Tiểu Hồng thể nào cũng được tiến bộ nhanh chóng...
Hai mắt lim dim, hai má đỏ bừng, Tiểu Hồng u oán nói:
– Về phương diện thân phận, tôi cũng rất tự hổ thẹn, vì tôi chỉ là một thị nữ của chủ nhân tôi, Lệnh Hồ Sở Sở...
– Chủ nhân là người mà thị nữ cũng là người, có quan hệ gì đâu? Nếu Tiểu Hồng cảm thấy như thế là bị khuất phục, thì tôi đánh cho Lệnh Hồ Sở Sở phải chịu phục, bắt Lệnh Hồ Sở Sở phải để cho Tiểu Hồng làm chủ nhân, còn nàng ta thì làm thị nữ.
Tiều Hồng nghe nói liền giận dữ khiển trách luôn:
– Diệp Nguyên Đào, nếu đại ca còn nói nửa lời đại nghịch bất đạo như thế, thì tôi sẽ vĩnh viễn không thèm đếm xỉa tới đại ca nữa. Chủ nhân của tôi, Lệnh Hồ cồ nương nuôi nấng dạy bảo tôi với chị Tiểu Thanh từ hồi còn nhỏ tới giờ, ơn như núi bể, nên đại ca cũng phải coi Lệnh Hồ cô nương như là chủ nhân mới được.
Nguyên Đào cau mày lại hỏi:
– Cái gì? Tiểu Hồng bắt tôi phải coi Lệnh Hồ Sở Sở như là chủ nhân ư?
Tiểu Hồng thấy chàng ta có vẻ như không bằng lòng, liền cười khẩy hỏi tiếp:
– Đại ca không bằng lòng phải không?
Nôi tới đó, nàng bỗng rùng mình một cái, mặt tái mét, rúc vào lòng Nguyên Đào run lẩy bẩy hoài.
Nguyên Đào lại tưởng nàng thấy mình không bằng lòng nhận Lệnh Hồ Sở Sở làm chủ nhân mà tức giận đến run lẩy bẩy như thế, rất động lòng thương, vội gật đầu trả lời rằng:
– Tiểu Hồng đừng có tức giận. Tôi bằng lòng nghe lời, coi Lệnh Hồ Sở Sở cũng như là chủ nhân.
Tuy Nguyên Đào cũng nói như thế rồi, mà Tiểu Hồng lại còn run hơn trước.
Thì ra chất độc bị Thiên Trạch dùng móng tay rạch vào cổ Tiểu Hồng đến lúc này mới bắt đầu làm nguy.
Nguyên Đào thấy mình đã xin lỗi mà Tiểu Hồng cứ run lẩy bẩy hoài, và trái lại còn run hơn trước là khác, lúc ấy chàng mới biết thể nào cũng có chuyện gì, vội thất thanh hỏi:
– Tiểu Hồng làm sao thế? Đau ốm phải không?
Ngũ tạng đau nhức chịu không nổi, Tiểu Hồng cứ phải cố gượng, với giọng run run đáp:
– Hình như... tôi đã bị trúng độc... chắc lúc tha tôi thế nào tên Ngải Thiên Trạch cũng đã ám hại ngầm.
Nguyên Đào nghe nói cả kinh thất sắc, vội hỏi tiếp:
– Tiểu Hồng... biết làm sao bây giờ? Vì tôi không sợ độc nên không bao giờ đem theo thuốc giải độc.
Tiểu Hồng run giọng:
– Chắc thế nào tôi cũng không thể sống nổi, tôi chỉ mong đại ca nhớ lúc nào cũng phải coi Lệnh Hồ Sở Sở cô nương, công tử Nghiêm Mộ Quang là chủ nhân và Nhiếp Tiểu Thanh là bạn. Các nhân vật Nam Nhạc, Bắc Nhạc, Trung Nhạc đều là bạn còn những người của phái Tây Nhạc với Thế Ngoại Bát Hung đều là những kẻ táng tận lương tâm bại hoại giang hồ cần phải tru diệt...
Nàng nói tới đây hơi thở yếu dần, da mặt từ từ biến thành màu xanh mét.
Nguyên Đào thất kinh la lên:
– Tiểu Hồng... Tiểu Hồng... tỉnh lại để đại ca đi tìm thuốc giải độc...
Chàng càng kêu gào thảm thiết, bỗng Tiểu Hồng từ từ lại tỉnh kêu lên:
– Khát quá! Khát quá!
Nguyên Đào nhìn chung quanh thấy toàn là núi non không kiếm đâu ra được miếng nước, chàng đang rối trí, Tiểu Hồng lại thều thào:
– Đại ca cho tôi miếng nước! Khát quá!
Túng quá không biết làm sao, Nguyên Đào sực nghĩ ra liền cắn đầu ngón tay lấy máu của mình cho Tiểu Hồng uống.
Lát sau nàng lại thều thào tiếp:
– Đại ca nhớ những lời của tiểu muội nói nhé... Lệnh Hồ Sở Sở... và Nghiêm Mộ Quang công tử, là chủ nhân... Tiểu Thanh... tỷ tỷ... là bạn...
Nàng nói chưa dứt lời, chợt nàng co rúm người lại, rồi thở hắt ra một hơi, da mặt nàng từ xanh mét, đến xám và tím bầm lại chứng tỏ bị ngộ độc quá mạnh.
Nguyên Đào đang ôm nàng thấy tình trạng như vậy bỗng hét lớn lên rồi căm hận nói:
–Ta thề sẽ diệt hết bọn Bàn Long Giáp và chặt đầu tên Thiên Trạch cho hả lòng hiền muội.
Khóc lóc một hồi, Nguyên Đào liền bồng nàng đi tìm một hang động để quàn thi hài của nàng vì chàng không nỡ vùi dập thể xác nàng xuống ba tấc đất. Kiếm thấy một hang động, chàng bồng nàng vào trong hang và đặt nàng nằm ở trong cùng hang, rồi nuốt lệ nói:
– Tiểu Hồng ngoan ngoãn nằm ngủ ở đây để Đào đại ca đi trả thù cho hiền muội, khi nào lấy được đầu lâu của tên Thiên Trạch, Đào đại ca sẽ quay lại tiếp Tiểu Hồng mãi mãi.
Nôi xong chàng hôn lên má Tiểu Hồng mấy cái, rất đau lòng và từ từ lui về phía sau, lui tới cửa hang chàng nghẹn ngào nói:
– Tiểu Hồng yên tâm, thế nào Đào đại ca cũng nhớ lời của hiền muội. Các nhân vật Nam Nhạc, Bắc Nhạc, Trung Nhạc đều là bạn, còn người của phái Tây Nhạc với Thế Ngoại Bát Hung đều là những kẻ khốn nạn. Đối với bạn, Nguyên Đào thể nào cũng rất khách sáo, đối với bọn khốn nạn, thế nào cũng giết chúng sạch sành sanh mới thôi.
Nói tới dó chàng ngẫm nghĩ giây lát, rồi nghẹn ngào nói tiếp:
– Tiểu Hồng, Đào đại ca này không quên đâu, hãy nhớ kỹ ba cái tên Lệnh Hồ Sở Sở, Nghiêm Mộ Quang, Nhiếp Tiểu Thanh ở trong lòng. Nếu gặp ba người ấy thế nào Đào dại ca cũng nghe lời họ, họ bảo lên núi dao hay xuống vạc dầu, Nguyên Đào này cũng không từ chối.
Nối xong chàng không sao cầm lòng được, liền khóc sướt mướt như mưa, rồi mới lui ra khỏi hang động, kiếm mấy tảng đá bịt lấy cửa hang để khỏi bị rắn rết đột nhập làm hư di thể của Tiểu Hồng đi. Chàng bịt kín cửa hang xong rú lên một tiếng để cho đỡ đau lòng và để gợi thêm lửa thù, rồi như một con hổ điên quay trở lại Bàn Long Giáp định giết chết Thiên Trạch với Cửu Uyên trả thù cho người yêu.
Nhưng Nguyên Đào đã tới chậm một bước, Cửu Uyên với Thiên Trạch đã rời khỏi Bàn Long Giáp rồi.
Thì ra Cửu Uyên biết Thiên Trạch đã dùng thuốc độc giết hại ngầm Tiểu Hồng, đoán chắc Tiểu Hồng cũng chết và Nguyên Đào thế nào cũng quay trở lại trả thù. Đồng thời y còn phải đi kiếm các vật liệu để chế Tỷ Quang Tử Châu, một võ khí lợi hại để chuyên đối phó với Nguyên Đào. Cho nên y với Thiên Trạch rời khỏi Bàn Long Giáp ngay.
Cửu Uyên thấy mình phải đi đây đi đó để tìm kiếm các thứ tài liệu, nên không tiện đem theo Thiên Trạch, người đã bị phế mất hai chân như thế. Y liền dẫn Thiên Trạch vào một nơi biệt phủ ở cách Bàn Long Giáp không xa, và vẽ đồ hình giao cho hai người thợ khéo, bảo chúng làm mọt đôi gậy gang rất tinh kỳ cho Thiên Trạch sử dụng.
Nguyên Đào tới Bàn Long Giáp, thất vọng vô cùng và tức giận chịu không nổi liền rú lên một tiếng, ra tay đánh hai tên thủ hạ gác cổng của Cửu Uyên tức thì, chỉ tấn công có một chưởng là hai tên nọ đã bị vỡ bụng lòi ruột ra chết tốt.
Chàng còn định vào Bàn Long Giáp giết chết hết những người trong đó, nhưng lần này chàng thấy hai tên hung đồ bị chết một cách thảm khốc như thế, và nghĩ tới lời khuyên bảo của Tiểu Hồng đừng có thị tài ba mà giết chết bừa bãi. Nên rốt cuộc chàng cố dùng ý chí nén lửa giận xuống.
Tuy chàng không giết người nữa nhưng vẫn cảm thấy chưa nguôi cơn giận, chàng vội ra tay phá phách, thấy nhà phá nhà, thấy cây bẻ cây, phá cho Bàn Long Giáp không còn một vật gì lành lặn tồn tại cả.
Thảm khốc nhất là Tu Ni Động Thiên với Toàn Cơ Bình mà Cửu Uyên đã tốn công cả một đời người mới gây dựng nên, cũng bị chàng phá tan tành hết.
Phá phách Bàn Long Giáp xong, mới nguôi được phần nào cơn giận Nguyên Đào đi khắp chân trời góc bể để tìm kiếm Thiên Trạch với Cửu Uyên hai người.
Bây giờ hãy nói Huyết Hà U Cốc ở trong núi A Nhĩ Kim Sơn, nơi đây chỉ trừ lần trước quần hùng đến tìm kiếm Huyết Thần Kinh đã náo nhiệt một phen ra, còn thì không một người nào lui tới cả. Nhưng lúc này trong đó đang có hai người, một người mà đã vắng mặt quý vị khá lâu rồi, người đó là Ngọc Địch Kim Cung Thần Kiếm Thủ Nghiêm Mộ Quang, còn một người nữa chính là sư phụ của chàng Lãnh Trúc Tiên Sinh Trà Nhất Minh.
Ngẫu nhiên di du ngoạn Kỳ Liên, Nhất Minh đã cứu được Mộ Quang thoát khỏi lưới tình vô biên của Tố Mai, ông ta khiển trách đồ đệ cưng một phen, và bắt phải cắt đứt mối tình ấy để chuyên tâm nghiên cứu “Đảng Ma Thần Âm” với “Nhất Nguyên Thần Kiếm” thần công trấn phái của phái Bắc Nhạc.
“Đảng Ma Thần Âm” với “Nhất Nguyên Thần Kiếm” là hai môn võ học thượng thừa ghi ở trên một tảng đá tại đỉnh núi tuyệt cao của Bắc Nhạc, nếu khổ công nghiên cứu thành công, có thể so tài cao thấp với bất cứ một cao thủ nào của đương thời.
Mãi gần đây Lãnh Trúc tiên sinh mới tìm kiếm thấy, vì vậy ông ta mới vội rời khỏi Bắc Nhạc để đi tìm đồ đệ cưng để truyền thụ.
Điều thứ nhất Nghiêm Mộ Quang không biết chuyện Lệnh Hồ Sở Sở nói đã lấy Gia Cát Lang là cố ý chọc tức mình, nên về mặt tình cảm chàng đã bị kích thích thực lớn.
Thứ hai chàng nhận thấy mình sa ngã vào bể dục với Tố Mai như vậy thực không nên không phải.
Thứ ba chàng cảm thấy sư phụ đối với mình thực là ân sâu như bể cả, nên chàng đã quỳ xuống trước mặt Nhất Minh thề nặng, quyết tâm tuyệt tình nhi nữ, ngày đêm sẽ khổ luyện “Đảng Ma Thần Âm” với “Nhất Nguyên Thần Kiếm” để đến khi đại hội Bạch Long Đôi sẽ làm rạng rỡ oai danh cho phái Bắc Nhạc.
Nhất Minh thấy đồ đệ cưng của mình có chí hướng như vậy, trong lòng rất mừng rỡ, nhưng sợ Tố Mai tìm kiếm tới, Mộ Quang lại bị quấy nhiễu, nên mới viết tên Mộ Quang vào một tấm bia đặt ở trước ngôi mộ của La Tĩnh Thạch mà bị ông ta giết chết để cho Tố Mai có tình kiếm thấy sẽ không còn hy vọng gì mà đi khắp mọi nơi để tìm kiếm Mộ Quang nữa.
Ngờ đâu Tú Mai chưa tìm kiếm tới, thì Tiểu Thanh với Tiểu Hồng đã tới nơi trước. Nhất Minh dùng lời nói và mưu định đã gạt được Tiểu Hồng với Tiểu Thanh, nhưng biết Lệnh Hồ Sở Sở thế nào cũng sẽ tới, nên ông ta vội quay trở về chỗ hang động mà Mộ Quang đã ẩn núp với lời lẽ nghiêm nghị nói:
– Quang nhi, hồng phấn ma kiếp lại giáng lâm, đã có người tới Lãnh Trúc Bình tìm kiếm con đấy.
Mộ Quang mặt đỏ bừng ấp úng hỏi:
– Sư phụ... người nào... tới thế? Có phải... U Minh Quỷ Nữ Âm Tố Mai đấy không?
Nhất Minh biết Mộ Quang rất ăn năn vì việc đã dây dưa với Âm Tố Mai, nên mới cố ý không nói sự thực mà gật đầu đáp:
– Phải, nàng ta đã tới tìm kiếm con đấy.
Mộ Quang nghiên răng mím môi nói:
– Sư phụ, đời này con quyết không gặp lại nàng ta nữa, sao sư phụ... lại không đem nàng ta đi đến ngôi mộ giả để cho nàng hết hy vọng?
Nhất Minh lắc đầu đáp:
– Tố Mai là người rất thông minh, ngôi mộ giả ấy chỉ có thế tạm lừa dối y thị được thôi.
Mộ Quang cau mày lại hỏi tiếp:
– Sư phụ có diệu kế gì không?
Nhất Minh nhìn thẳng vào mặt đồ đệ cưng trầm giọng hỏi:
– Con có thể quyết tâm trước khi luyện thành tuyệt nghệ để làm rạng rỡ cho Bắc Nhạc mà tuyệt đối không nghĩ đến tình nhi nữ đấy không?
Mộ Quang ứa lệ ra vâng lời:
– Sao sư phụ vẫn còn nghi ngờ Quang nhi như thế? Quang nhi chả đã thề nặng rồi là gì...
Nhất Minh vội ngắt lời Mộ Quang mà gật đầu nói tiếp:
– Quý hồ Quang nhi quyết tâm là được rồi, vậy chúng ta phải rời khỏi Bắc Nhạc, đi tới một chỗ thực vắng vẻ, khiến bất cứ ai cũng không sao tìm kiếm tới được.
Thế rồi hai thầy trò thu xếp và nhặt nhạnh những đồ cần dùng xong, liền lẳng lặng rời khỏi Bắc Nhạc.
Trước khi lên đường, Nhất Minh thấy đồ đệ cưng của mình ngoan ngoãn như thế, trong lòng rất cao hứng, liền mỉm cười hỏi:
– Mấy năm gần đây con đã đi khắp Đông, Tây, Nam, Bắc chả hay con biết chỗ nào vắng người lui tới nhất không?
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Mộ Quang nhanh nhẩu đáp:
– Con nhận thấy chỉ có Huyết Hà U Cốc là nơi có ít người lui tới nhất, bây giờ Huyết Thần Kinh đã xuất hiện, không còn ai chú ý tới nơi đó nữa, nên con nhận thấy nơi ấy quả thực là một chỗ tập luyện rất lý tưởng.
Nhất Minh gật đầu nói tiếp:
– Phải, Huyết Hà U Cốc lý tưởng làm. Vậy bây giờ chúng ta đi tới đó, con ở đấy phải luyện tập “Đảng Ma Thần Âm” với “Nhất Nguyên Thần Kiếm” cho có hỏa hầu tương đương rồi ra mặt đi dự đại hội Bạch Long Đôi.
Mộ Quang gượng cười đáp:
– Con nhận thấy luyện tập hai môn tuyệt kỹ ấy phải có nội công rất thâm hậu, chân khí rất mạnh thì mới hy vọng luyện tới mức thượng thừa được. Nếu muốn có được chân lực mạnh như thế, nội công thâm hậu như vậy, chỉ e Tết Thanh Minh sang năm không kịp luyện thành công hai pho tuyệt nghệ ấy đâu.
Nhất Minh mỉm cười đỡ lời:
– Con cứ yên tâm mà luyện tập đi, muốn cho con trở nên người vô địch để làm rạng rỡ cửa ngõ Bắc Nhạc, sư phụ đã có cách xếp đặt cho con rồi, quý hồ con khổ tâm nhất chí luyện tập là xong.
Thế rồi hai thầy trò liền ra đi khỏi Ngọc Môn Quan tới Huyết Hà U Cốc để khổ luyện tuyệt nghệ.
Ngoài việc đốc thúc Mộ Quang luyện tập tuyệt nghệ ra, hàng ngày cứ đến hai giờ Tý, Ngọ, Nhất Minh còn dùng Thuần Dương Chân Khí của mình cách thể truyền công để đả thông toàn thân kinh mạch của đồ đệ cưng một lượt. Nhờ vậy, sự luyện tập của Mộ Quang càng tiến bộ rất nhanh chóng, Lãnh Trúc tiên sinh càng ngày càng yếu ớt gầy còm.
Mộ Quang thấy ân sư của mình như có bệnh, đã hỏi han mấy lần mà Nhất Minh chỉ cười chứ không nói năng gì, sau cùng chỉ trả lời rằng, ông ta đã có linh đơn cứu chữa rồi.
Linh đơn đó là một hồ lồ thuốc viên mầu đỏ, ngày nào cũng vậy, cứ đến giờ Tý, Ngọ, trước khi ông ta cách thể truyền công dồn nội lực sang cho Mộ Quang, thì lại uống một viên, thuốc ấy thực thần diệu, uống xong một lúc, là ông ta tinh thần vô cùng, nhưng hành công xong, thì lại uể oải ngay.
Mộ Quang rất lấy làm lo âu, nhưng không sao trái được lệnh của sư phụ mình..
Thì ra Lãnh Trúc tiên sinh trong lúc tĩnh tọa hành công, mới thấy trong người mình có bệnh kín không thể nào chữa khỏi được, gắng lắm cũng chỉ sống được hơn một năm là cùng. Từ khi ông ta phát giác sự bí mật ấy rồi, nên mới chế luyện một hồ lô thuốc đó để làm cho lâm thời tinh thần được phấn chấn, vì vậy thuốc ấy có thể nói là thuốc độc chứ không phải là thuốc bổ.
Nhưng ông ta đã quyết định chết sớm nửa năm, để hàng ngày dồn công lực của mình sang cho đồ đệ cưng, để đồ đệ cưng chóng thành công hai pho tuyệt nghệ ấy.
Mộ Quang có biết đâu ân sư của mình khổ tâm để mong mình thành công như vậy, lại cứ tưởng mình chăm chỉ học tập, nên mới tiến bộ nhanh chóng đến thế.
Ở trong u cốc khổ luyện tuyệt nghệ, thời giờ đi nhanh như bay, không bao lâu hồ lô thuốc đỏ của Lãnh Trúc tiên sinh chỉ còn lại sáu viên, lúc này ông ta đã kiệt hết tinh huyết, sắp chết đến nơi.
Nói tóm lại, chỉ còn sáu viên thuốc đơn độc, có thể uống ba lần Tý, Ngọ, nghĩa là ba ngày sau ông ta vĩnh biệt đồ đệ cưng rồi.
Ngày hôm đó, Nhất Minh chờ Mộ Quang hành công xong, ngó nhìn vào hồ lô chỉ còn có sáu viên đơn độc, liền gượng cười nói với Mộ Quang rằng:
– Quang nhi, con có thể hoành hành trong giang hồ đã gây được biệt hiệu Ngọc Địch Kim Cung Thần Kiếm Thủ cũng không phải là chuyện dễ, sau này con phải làm rạng rỡ cho phái Bắc Nhạc thêm mới được.
Mộ Quang nghe lời nói của sư phụ, hình như có ý vĩnh biệt mình, vừa gật đầu vừa ngơ ngác nhìn lại sư phụ.
Nhất Minh mỉm cười hỏi tiếp:
– Quang nhi, cái cung vàng của con đâu?
Mộ Quang hổ thẹn đỏ mặt tía tai, cúi đầu bẽn lẽn đáp:
– Cái cung vàng đã để ở chỗ Âm Tố Mai ngày đó, vội vàng theo ân sư đi ngay nên không kịp đem theo Nhất Minh mỉm cười nói tiếp:
– Con ra lấy cái túi hành trang của sư phụ lại đây Mộ Quang vâng lời, ra đem cái túi hành trang của Nhất Minh vào. Nhất Minh mở cái túi, lấy ra một cái cung bằng Âm Trầm Trúc, bên ngoài sơn vàng và cột bằng sợi dây giao long với bẩy mũi tên dị hình đen nhánh ra.
Nhất Minh lấy cây cung ra, hai mắt lộ vẻ hiền từ nhìn Mộ Quang mỉm cười nói tiếp:
– Từ khi sư phụ phát hiện ra hai pho tuyệt nghệ của tiền bối tôn sư để lại ở trên tuyệt đỉnh của Bắc Nhạc, mới biết phái Bắc Nhạc chỉ có hai thầy trò chúng ta thôi, nhưng nếu luyện thành hai môn tuyệt học này, thì cũng đủ vô địch thiên hạ, làm rạng rỡ cho phái Bắc Nhạc rồi.
Mộ Quang thấy sư phụ mình không những có vẻ cao hứng, mặt còn lộ vẻ bóng bẩy, nên chàng nghĩ bụng:
“Bất cứ cao nhân của võ lâm nào cũng không thể tránh khỏi được lòng háo danh, sự thực luyện tập tuyệt học, mục đích là để cứu nhân độ thế, với làm cho khỏe mạnh để sống lâu, quý hồ phù trì nổi chính khí của võ lâm là được rồi. Hà tất cứ phải trở nên vô địch của võ lâm, khiến thanh oai của bổn phái đè đầu phái khác như thế”?
Mộ Quang vì tình cảm bị kích thích, nên ngày đêm khổ công luyện tập tuyệt học, vì thế mà bụng dạ của chàng lại khoáng đạt hơn sư phụ, nhưng chàng vẫn không nhẫn tâm làm giảm mất hứng thú của ân sư, mà chỉ cung kính lắng tai nghe thôi.
Nhất Minh nói tiếp:
– Nay sư phụ đã già, không thể nào khổ luyện võ công nữa, huống hồ dù có thành tựu cũng như ngọn nến ở trước gió chả sáng sủa được bao lâu. Vì vậy vừa tìm kiếm thấy kỳ báu, đã vội đi khắp nơi tìm kiếm con về núi để truyền thụ ngay.
Nghe thấy sư phụ nói tới đó, Mộ Quang rất cảm động đến ứa nước mắt ra.
Nhất Minh đưa mắt nhìn đồ đệ cưng một cái rồi mỉm cười nói tiếp:
– Không ngờ khi đi qua Trung Điều, dưới ánh sáng trăng, sư phụ ngẫu nhiên trông thấy ngôi mộ cổ, ở trong ngôi mộ ấy lại tìm ra được cây cung báu này với bẩy mũi Xạ Dương thần tiễn, bất cứ vật rắn đến đâu, nó cũng có thể bắn thủng được.
Mộ Quang là người sở trường về cung tên, thấy sư phụ nói như thế liền đỡ lấy cây bảo cung ngắm nhìn.
Nhất Minh lại nói tiếp:
– Con thử kéo cây bảo cung này, xem nó có chừng bao nhiêu kình lực?
Mộ Quang vội kéo thử hai cái rồi thất kinh đáp:
– Không ngờ cây cung này lại cứng rắn như thế, phải dùng tới ba nghìn cân sức mới kéo tròn được. Nếu gần đây con không được ân sư chỉ điểm cho, công lực tiến bộ rất nhanh, thì có lẽ con không thể nào kéo nổi nó.
Nhất Minh thấy thế nở nụ cười an ủi, đưa một mũi Xạ Dương Thần Tiễn cho chàng và nói tiếp:
– Quang nhi, con thử dùng mũi tên thần này bắn vào cây thông ở chỗ cách đây ba mươi trượng xem sao?
Mộ Quang vâng lời, đỡ lấy thần tiễn, vận hết sức ra ngắm cành thông bắn luôn.