Bộ tóc rối bù như cỏ rác kia vặn vẹo chia thành mười búi, bị sóng nước kéo ra nên vô cùng lơ thơ, căn bản không chỉ che được hộp sọ bên dưới, để mặc cho nó gồ hằn lên.
Bên dưới hộp sọ, là một bộ mặt trẻ sơ sinh vô cùng đáng sợ!
Phần máu thịt kể từ trán trở lên của đứa trẻ đã bị chảy ra, mềm oặt như lòng trứng. Bên trên, xương hộp sọ lớn như của nữ tử trưởng thành lại cứng chắc găm vào đó.
Hai thứ này dường như vẫn chưa hoàn toàn dung hợp, chỗ nối hở ra mấy khe to bằng đầu ngón tay, não tương màu xám trắng lờ mờ lộ ra.
Không biết nó đã bị ngâm trong nước kia bao nhiều năm, tuy chưa thối rữa, nhưng làn da đầy những nếp nhăn kia đang toát lên một màu trắng nhợt nhạt khiến người ta chỉ muốn nôn ọe.
Gương mặt đó, đang vặn vẹo cực độ, hai má, cằm còn dính chặt những viên đá lớn nhỏ, đủ màu đủ sắc, dính sâu vào gương mặt phù thũng của đứa trẻ sơ sinh chết yểu như những đầu đinh, nhìn lại càng biến thái, quái dị vô cùng.
Nhìn tiếp xuống dưới, thân thể đứa trẻ co rút lại cực nhỏ, tứ chi quặt ra sau lưng theo một tư thế không thể nào tưởng tượng nổi, giống như một con ếch xanh bị biến dị, lại giống như một kẻ tù binh từ thời man hoang thượng cổ bị kẻ thủ giày vò cho tới chết.
Người Hỉ Xả bị thương kia bất ngờ hất văng hai người đang đè y xuống, quay đầu nhìn chằm chằm vào xác đứa trẻ sơ sinh kia.
Đang trong cơn đau đớn kịch liệt, không ngờ y lại dần dần trở nên bình thản, ánh mắt hiện lên vẻ thân thiết, tựa như gặp được thân nhân lâu ngày xa cách, mút mút sợi tơ đỏ nơi miệng theo thói quen.
Nhưng sự bình tĩnh đó trong nháy mắt đã bị nỗi sợ hãi ào ào ập tới nhấn chìm, y tựa hồ như đã nhìn thấy thứ đáng sợ nhất trên đời này, không ngừng nôn ọe, dùng hết sức lực toàn thân nhổ sợi tơ đó ra sau đó gào rống lên như bị moi tim móc thận.
Tiếng kêu gào này lại không giống như tiếng kêu thảm thiết lúc đau đớn khi nãy, ngoài đau đớn ra, phần tuyệt vọng có vẻ nhiều hơn – sự tuyệt vọng khi thấy sinh mạng mình đang tan biến mà không thể nào ngăn trở nổi.
Những người Hỉ Xả khác lặng lẽ nhìn y, mấy người buồn bã lắc đầu, cơ hồ như đang thương lượng gì đó.
Tương Tư kinh hãi đến trắng nhợt cả mặt: “Chuyện này là thế nào vậy?”
Trác Vương Tôn thản nhiên đáp: “Chuyện trong Mạn Đà La trận, tự nhiên là phải thỉnh giáo Dương minh chủ, chắc hẳn là đến lúc này rồi, cho dù có nỗi khổ gì, Dương minh chủ cũng không giấu diếm nữa đâu.”
Dương Dật Chi liếc mắt nhìn y, trầm mặc giây lát, rồi nói: “Tại hạ không có ý giấu diếm chuyện trong Mạn Đà La trận, mà là có nỗi khổ không thể nói ra, Có điều các vị đã kiên trì như vậy...”
Y lắc lắc đầu, cuối cùng đành thở dài một tiếng: “Xác đứa trẻ sơ sinh này, là anh linh (linh hồn trẻ sơ sinh) mà người Hỉ Xả trồng trong hồ để kéo dài thanh xuân của mình.”
Tương Tư ngạc nhiên hỏi: “Anh linh?”
Gương mặt Dương Dật Chi nghiêm nghị lạ thường: “Người Hỉ Xả là dân tộc bất lão. Trong mắt người ngoài, bọn họ thân hình lùn tịt, mặt mũi den thui, xấu xí vô cùng. Nhưng người Hỉ Xả lại rất tự phụ mình trẻ đẹp tươi tắn, hết sức tham luyến dung nhan tuổi trẻ. Để giữ mãi dáng vẻ thanh xuân, bọn họ đã bất chấp dùng đến trận pháp tà ác nhất – Li Thủy Anh Linh trận.”
Tương Tư hỏi: “Li Thủy Anh Linh trận này là gì vậy?”
Dương Dật Chi trầm giọng nói: “Một đôi nam nữ người Hỉ Xả, cả đời chỉ sinh đẻ được một lần, đều là sinh đôi một nam một nữ.
Sau khi đứa trẻ ra đời một canh giờ, bọn họ cắt đứt cuống rốn, sau đó buộc vào vết thương của đứa trẻ một sợi tơ đỏ, rối dìm nó xuống đáy hồ. Đầu kia của sợi dây, ròng từ đáy hồ lên, buộc vào giường của mỗi người. Cứ đến đêm, người Hỉ Xả đều ngậm sợi dây đó vào miệng hút lấy linh khí của đứa trẻ sơ sinh, nuôi dưỡng thân thể đang ngày một già nua. Nếu ban đêm muốn rời khỏi giường thuyền, bọn họ cũng phải ngậm sợi tơ đỏ trong miệng. Nếu không sẽ không thể nào hút đủ tinh khí hòng chống chọi với ánh mặt trời ngày hôm sau. Bọn họ cứ như vậy giữ được dung mạo và thể lực thời thanh niên suốt mấy trăm năm, cho tới khi chết đi mới thôi.”
Sắc mặt Tương Tư dần chuyển từ sợ sang phẫn nộ: “Tham luyến đến mức độ đó là cùng, bọn họ có tư cách làm cha mẹ nữa hay sao? Hàng ngày nằm trên thuyền hút lấy tinh huyết của con cái mình, lẽ nào không sợ hãi gì hay sao?”
Dương Dật Chi nói: “Đương nhiên là sợ. Người Hỉ Xả tham lam nhưng nhát gan, một mặt điên cuồng theo đuối tuổi xuân vô tận, mặt khác lại cực kỳ sợ linh hồn đứa trẻ sẽ báo thù, nghe nói chỉ cần nhìn thấy trẻ con của các bộ tộc bên cạnh, họ cũng đã sợ mất mật bỏ chạy rồi. Mỗi năm vào ngày đứa trẻ ra đời, họ đều lặn xuống đáy nước, gắn những hạt châu rực rỡ sắc màu vào mặt đứa trẻ. Tương truyền, chỉ có cách đó mới hóa giải được oán khí của đứa bé, cầm cố linh hồn của chúng, khiến bọn chúng không thể bò lên khỏi mặt nước báo thù cha mẹ. Vì vậy, trân châu bảy màu cũng trở thành thứ mà người Hỉ Xả điên cuồng tìm kiếm.”
Tương Tư nhất thời không nói được gì, chỉ im lặng nhìn đám người kia, ánh mắt tham lam mà già cỗi của họ đầy vẻ sợ hãi, tuyệt vọng, trở thành một vùng mờ đục. Sợi tơ đỏ ngoằn ngoèo trên môi kia rực lên, tựa như con độc xà đang ẩn mình trong thân thể họ.
Vẻ giận giữ dần tản đi trên gương mặt nàng, chỉ nghe nàng thở dài một tiếng: “Tuổi xuân như vậy, giữ lại phỏng có ích gì?”
Dương Dật Chi lắc đầu, không trả lời.
Tiểu Án thở ra nhè nhẹ, nói: “Thứ họ có được chắc chắn không phải là thanh xuân vĩnh viễn, mà là trừng phạt vĩnh viễn.”
Tiểu Án nhìn thi thể quái dị của đứa trẻ, thấp giọng nói: “Trừng phạt mới chỉ bắt đầu thôi.”
Tương Tư suy nghĩ giây lát, kinh hãi thốt lên: “Có phải điện hạ muốn chỉ ý gì khác?”
Tiểu Án nói: “Tương Tư cô nương lẽ nào không chú ý đến cách miếng xương đầu kia và thi thể đứa bé kết hợp có gì rất quen mắt sao?”
Tương Tư ngạc nhiên, một cảm giác lành lạnh đột nhiên xuất hiện nơi sống lưng giọng nói cũng run rẩy: “Ý ngài là…”
Trác Vương Tôn mỉm cười: “Điện hạ nói tới Không đỗ mẫu.”
Tương Tư run giọng thốt: “Nhưng, nhưng không đỗ mẫu chẳng phải đã bị chúng ta tiêu diệt rồi hay sao?”
Dương Dật Chi lắc đầu: “Không phải tiêu diệt, chỉ là tạm thời khiến chúng không thể hành động, chỉ cần có cơ hội, những thi thể đó sẽ giống như mảnh xương đầu vỡ kia, tìm kiếm vật chủ mới để ký sinh, trở lại với thế gian này.”
Tương Tư thốt lên: “Dương minh chủ muốn nói miếng xương đầu kia là một bộ phận của con Không đỗ mẫu nào đó?”
Dương Dật Chi gật đầu: “Chính nó.”
Trác Vương Tôn cười cười nói tiếp: “Hơn nữa, chủ nhân của nó cũng không phải không đỗ mẫu tầm thường.”
Tương Tư liền hỏi: “Vậy thì là ai?”
Trác Vương Tôn đáp: “Vợ của trưởng thôn Vô Khải quốc. Tương Tư ngây ra giây lát, hỏi lại: “Vợ của trưởng thôn Vô Khải quốc?”
Trác Vương Tôn gật đầu nói: “Tiểu Loan vô tình hỏi tới vợ của lão, lúc đó lão đã mập mờ úp mở, cơ hồ như chạm phải nỗi đau, chỉ nói bà ta cũng thuộc loại không thể phục sinh, chôn ở Phù Dung trạch. Nhưng người Vô Khải quốc chỉ nên chôn ở trong đất, quyết không bao giờ nhấn chìm thi thể trong đầm lầy cả.”
Tương Tư không tin nói: “Vậy thì tại sao trưởng thôn lại làm như vậy?”
Trác Vương Tôn nói: “Chuyện này e chỉ có bản thân lão mới biết được. Nhưng giờ chúng ta chỉ có thể đoán – vợ của lão đã trở thành Không đổ mẫu.”
Tương Tư kinh hãi thốt: “Việc này…”
Trác Vương Tôn tiếp tục nói: “Thân thể Không đổ mẫu nếu không bị lửa thiêu đốt thành tro, sẽ sinh sôi nảy nở vô tận trong đất. Chỉ có một nơi là ngoại lệ, đó chính là Phù Dung trạch.”
Tương Tư nói: “Ý tiên sinh là, trưởng thôn sớm đã biết đầm lầy có thể ngăn cản Không dỗ mẫu sinh sôi?”
Trác Vương Tôn đưa ánh mắt ra phía hồ nước: “Mấy trăm năm trước, vợ của trưởng thôn không phải chết vì mệnh tận, đầu bị vỡ nát, không thể phục sinh, cũng sẽ trở thành một trong lũ Không đỏ mẫu kia. Theo quy định, lão phải nhân lúc bà ta chưa kịp hồi sinh tiêu hủy thi thể đó đi. Nhưng trưởng thôn rất yêu vợ mình, không nỡ hạ thủ, vậy nên đã ngấm ngầm phản lại cấm kỵ trong tộc, chôn thi thể ái thê trong Phù Dung trạch.”
Tương Tư cơ hồ như đã hiểu ra gì đó: “Lẽ nào lão muốn lợi dụng nước trong Phù Dung trạch để ngừa thi biến?”
Trác Vương Tôn gật đầu: “Không sai. Mấy trăm năm nay, kế hoạch của thôn trưởng đã rất thành công, nhưng mới đây chúng ta đã dẫn dụ cả vạn con Không đỗ mẫu vào đầm nước, vô ý dã chạm tới thi thể của vợ trưởng thôn, một bộ phận nào đó của thi thể bà ta đã lần theo dòng nước ngầm trong đầm nước, từ từ chảy vào hồ nước chôn giấu thi thể trẻ con của người Hỉ Xả.”
Tương Tư lẩm bẩm thốt: “Nước ở Nguyệt Nha hồ không giống nước đầm, không thể ngăn được Không đỗ mẫu tái sinh, vậy nên...”
Tương Tư không khỏi run lên: “Lẽ nào con Không đỗ mẫu còn lại này đã lợi dụng thi thể của đứa trẻ để phục sinh?”
Trác Vương Tôn lắc đầu: “Phục sinh thì còn chưa chắc. Nguyệt Nha hồ tuy không ngăn được sức mạnh của Không đỗ mẫu, nhưng dù sao cũng ngăn cách với đất bùn, khiến sức mạnh của nó giảm đi đáng kể, vì vậy chỉ có thể ăn bám vào thi thể gần nó nhất mà thôi.”
Tương Tư ngạc nhiên, ngoảnh đầu lại nhìn người đang không ngừng gào thét kia, hai mắt y cơ hồ như sắp tan chảy ra, chỉ còn lại hai hố sâu hoắm màu đen.
Tương Tư nhíu mày lên nói: “Nếu cứ tiếp tục như vậy...”
Trác Vương Tôn nói: “Cứ tiếp tục như vậy, khi xác đứa trẻ mà người này hút sinh khí bị ăn hết, cũng chính là lúc Không đỗ mẫu phục sinh.”
Tương Tư nhìn đám dân làng đứng ven bờ hồ, cuống quýt nói: “Chúng ta phải mau chóng cản nó lại!”
Dương Dật Chi nói: “Chậm dã!”
Tương Tư quay đầu lại kêu lên: “Dương minh chủ, lúc này Không đỗ mẫu còn chưa thành hình, nếu chúng ta động thủ trước một bước, không những có thể giải cứu người này khỏi cơn đau đớn, mà còn có thể ngăn cản nó ăn hết những thi thể trẻ thơ khác nữa.”
Dương Dật Chi nhìn mặt nước màu tím xanh khẽ rung động, hai hàng lông mày nhíu chặt lại, lắc đầu nói: “Chỉ sợ không thể nữa rồi.”