Vòng qua hai chỗ ngoặt, Long Phi đã đến trước Đinh gia trang.
Chần chừ một lúc, chàng bước đến rung khoen cổng. Phải đến lần thứ ba, cửa mới mở ra.
Trong cửa là một lão nhân, tay xách đèn lồng, tóc bạc trắng nhưng sắc diện vô cùng quắc thước.
Lão giơ cao đèn, cố nhìn Long Phi: “Ai vậy?”
“Thọ lão bá, là tiểu điệt đây mà!”
Ông lão đó chính là Đinh Thọ, gia nhân kỳ cựu của Đinh gia trang. Nhìn
rõ Long Phi, ông không giấu nổi vẻ mừng rỡ: “Hóa ra là Long công tử!”,
nói rồi mau mắn mở cổng: “Mau vào đi, kẻo ướt hết bây giờ!”
“Tiểu điệt thật đã làm phiền lão bá rồi” - Long Phi nói vẻ hối lỗi.
Đinh Thọ xua tay: “Lão đây đâu có ngủ sớm như vậy!”, nói rồi đỡ dây
cương trong tay Long Phi: “Đã ba năm không gặp, công tử vẫn như ngày
nào, tuấn tú phong độ, nhã nhặn lễ phép”.
Long Phi chưa kịp đáp lại thì Đinh Thọ đã tiếp lời: “Phải rồi, sao ba năm rồi cậu không về chơi? Tiểu thư nhà tôi mong cậu lắm!”
Long Phi cười: “Lão bá, Tiểu thư vẫn khỏe?”
“Vẫn khỏe, chỉ có ngày nào cũng ngóng cậu!”
“Giờ này chắc cô ấy đi ngủ rồi?”
Đinh Thọ lắc đầu: “Sáng sớm nay Tiểu thư đi thăm bà ngoại ở trấn bên cạnh, mai mới về”.
Long Phi thăm dò: “Lão bá, bên ấy có việc gì vậy?”
Đinh Thọ lắc đầu: “Không có việc gì, chỉ là đi thăm thôi mà”.
Tâm trí Long Phi bỗng dưng chùng xuống.
Chàng đến Đinh gia trang chủ yếu là vì Tử Trúc. Sau bao biến cố kỳ dị từ chiều đến giờ, chàng thật nôn nóng muốn biết nàng có việc gì không, có
ngồi làm mẫu tạc tượng cho ai đó không.
Sự việc với mộc mỹ nhân chàng đã muôn phần nghi vấn. Nhưng giờ đây, việc làm chàng sửng sốt nhất lại là việc nàng không có ở nhà. Bởi, mười ngày trước chàng đã gửi thư cho Tử Trúc, hẹn đúng hôm nay chàng sẽ tới.
Thư, là gửi tiêu trạm thân tín, không thể thất lạc. Vậy mà Tử Trúc hôm nay lại đi đâu?
Đinh Thọ đương nhiên là không biết những nghi vấn của Long Phi, sốt
sắng: “Tuy Tiểu thư không có nhà nhưng lão gia thì có đấy. Cậu muốn đến
vấn an lão gia bây giờ không?”
Một linh tính bỗng vụt qua, Long Phi hỏi nhanh: “Lão gia đã đi ngủ chưa?”
“Lúc nãy tôi qua thư phòng thấy đèn vẫn sáng. Chắc lão gia vẫn còn thức!”
Long Phi gật đầu: “Vậy bây giờ tiểu điệt qua thư phòng trước”.
Long Phi cười nhỏ: “Mới có ba năm mà, trí nhớ tiểu điệt chưa đến mức kém cỏi như vậy, tiểu điệt tự đi được!”
Ba năm trước, Long Phi một dạo là khách thường xuyên ở đây. Từng gia
nhân, từng ngóc ngách trong gia trang, chàng đều còn nhớ rõ.
Đinh Thọ biết vậy, dừng lại cười: “Vậy cậu tự đi nhé. Lão đưa ngựa vào chuồng trước, rồi sẽ đi xếp phòng ngủ cho cậu!”
Long Phi cảm kích: “Đã làm phiền lão bá rồi!”
Chàng tạm biệt Đinh Thọ, đi về phía tây trang.
Thư phòng của Đinh Hạc vốn là nằm phía tây gia trang!
* * * * *
Ngô đồng ướt sũng trong mưa, gió thổi tơi bời lá rụng. Tiểu viên quanh thư phòng ngập tràn vẻ não nùng của tiết cuối Thu.
Long Phi vừa bước vào tiểu viên, đã có ngay cảm giác quen thuộc.
Không phải vì chàng vốn đã đến đây. Ba năm không phải là quá dài, chàng
vẫn còn nhớ những lần đàm đạo với Đinh Hạc tại chính nơi này. Nhưng
những cảm giác quen thuộc của Long Phi bây giờ lại không có từ đó.
Mà lại bởi khu vườn này thật quá giống nơi chàng vừa đi ra lúc nãy.
Cổng vào cũng kiểu Nguyệt động, lối vào cũng có Ngô đồng, xa xa cũng là
rừng trúc. Hai khu vườn chỉ cách nhau một bức tường rào, một ở phía
đông, một phía tây.
Phải khó khăn lắm Long Phi mới dằn nén được nỗi xúc động khi đi qua rừng trúc.
Thư phòng nằm giữa khu vườn, tương đồng với nơi tọa lạc của ngôi lầu bên kia.
Đèn trong thư phòng vẫn sáng rõ, cửa ra vào nửa khép nửa mở. Long Phi đứng bên ngoài nghe ngóng một lúc, rồi gõ cửa.
Không có ai trả lời.
Chàng chần chừ một lát nữa mới đẩy cửa bước vào. Phòng vắng lặng không một bóng người!
Đinh Hạc đã đi đâu?
* * * * *
Cạnh bức tường phía tây là một tấm bình phong. Trên bình phong vẽ một bức tranh tùng hạc.
Trên cây tùng trơ trọi đậu một con hạc lẻ loi, đối diện với hạc là vầng
trăng đơn độc, một vẻ tang thương ảm đạm khó diễn tả được thành lời.
Cách đây ba năm, Long Phi đã ngạc nhiên về vẻ ảm đạm của bức tranh.
Chàng từng hỏi Đinh Hạc sao không cho vẽ thêm một con hạc nữa. Đinh Hạc
chỉ cười nhạt, còn Long Phi cũng sớm quên đi.
Chàng từng cho rằng bức tranh cô tùng cô hạc này gợi Đinh Hạc nhớ đến
người vợ đã quá cố của ông ta. Ba năm sau, bức tranh vẫn nằm chỗ cũ, mọi thứ trong thư phòng vẫn y nguyên từng chi tiết, không một mảy may xê
dịch. Có thể thấy rõ, Đinh Hạc là một con người thủ cựu vô cùng.
Long Phi đảo mắt quan sát một lượt, rồi như theo thói quen tiến lại bức
bình phong, nghiêng người ngó vào phía sau. Sau bình phong trống trơn,
không có vật gì cả.
Chàng bỗng giật mình, đây rõ ràng là đã quá đa nghi, lại như không hề chủ định. Chẳng lẽ vẫn là ma quỷ xui khiến?
Long Phi tự cười gượng, lắc lắc đầu, rồi đi về phía án thư.
Án thư bày một nghiên mực, còn cả một ống quyển trải rộng. Mực trong
nghiên chưa khô hết, lấp lánh một cách kỳ dị dưới ánh đèn. Bút gác trên
giá, vẫn thấm đẫm mực tươi nguyên.
Ống quyển chép bài thơ vô đề của Lý Thương Ẩn: “Lai thị không ngôn khứ
tuyệt tông, Nguyệt tà lầu thượng ngũ canh chung, Mộng vi viễn biệt đề
nan hoán, Thư bị thôi thành mạc vị nồng, Lạp chiếu bán lồng kim phỉ
thúy, Xạ hoắc vị độ tú phù dung, Lưu lang dĩ hận phùng sơn viễn, Canh
cách phùng sơn nhất vạn...” [1]
Chữ viết rất đẹp, như rồng bay phượng múa, đến chữ “vạn” lại lệch đi, hỏng một nét. Chữ “trùng” cuối cùng không thấy viết nốt.
Rõ ràng đả xảy ra chuyện gì đó, đột ngột mà cũng rất quan trọng, khiến
Đinh Hạc không những viết hỏng chữ “vạn”, mà còn tức khắc đặt bút xuống
và dời đi.
Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?
Long Phi cúi xuống cầm ống quyển lên. Chữ “vạn” cuối cùng kia đã khô hoàn toàn. Đinh Hạc ra khỏi đây chắc cũng lâu rồi.
Khi nào ông ta mới quay trở lại?
Long Phi đang trầm ngâm nhìn bài thơ, bỗng nghe sau lưng có tiếng sột
soạt như tiếng trườn của rắn. Chàng quay phắt đầu lại, thấy một người đã đứng cạnh bức bình phong tự bao giờ!
Người đó tuổi trạc ngoại ngũ tuần, ánh mắt sắc như dao, hai gò má cũng
tựa như dao cắt, râu để dài ba chỏm, mặc một bộ y phục thêu hoa màu xanh lam, đứng im không chút động đậy.
Vóc dáng cao gầy, khuôn mặt khắc khổ, quả đúng hình ảnh một con hạc cô đơn.
Long Phi vừa thấy, đã giật thót tim.
Không phải ai khác, chính là Đệ Nhất Khinh Công Lưỡng Hà, người chưa
từng để sót một đối thủ dưới kiếm của mình, ‘Nhất Kiếm Câu Hồn’ Đinh
Hạc.
* * * * *
Đây là thư phòng của Đinh Hạc, ông ta đến thư phòng của mình tự nhiên là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên. Điều làm Long Phi ngạc nhiên là ông ta đã vào đây như thế nào.
Án thư đối diện với cửa, Long Phi lại đứng sau án thư. Có thể nói, không một chuyển động nào trong phòng mà lại lọt qua tầm mắt của chàng. Thế
mà Đinh Hạc xuất hiện ra sao, chàng không hề hay biết.
Cửa sổ tuy mở, nhưng đèn cũng treo chỗ đó. Đinh Hạc nếu qua cửa sổ mà
vào thì khinh công dù có cao đến mấy cũng không thể không làm rung chiếc đèn. Nhưng từ nãy đến giờ đèn vẫn đứng yên. Còn nếu như bảo Đinh Hạc từ sau bình phong mà ra thì lại càng khó tin hơn. Vừa rồi Long Phi đã nhìn kỹ sau bức bình phong, chắc chắn không có vật gì che giấu.
Lẽ nào Đinh Hạc đã luyện thành “Thất Ức Ma Pháp”, đi về tuyệt đối vô thanh vô ảnh?
Đinh Hạc dường như cũng bất ngờ khi thấy Long Phi trong phòng. Ông ta im lặng một lát, dáng điệu rất kỳ quặc, rồi mới lên tiếng: “Tiểu Phi?!”
Long Phi cung kính đáp lại: “Sư thúc!”, rồi đặt ống quyển trên tay xuống.
Thực ra Đinh Hạc là sư thúc của Long Phi. Người trong võ lâm biết được
điều này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Sư phụ Long Phi, “Nhất Âu Tử”, hai
mươi năm trước đã quy ẩn. Ngay Đinh Hạc dù chưa quy ẩn, hơn mười năm nay cũng hầu như không còn đi lại giang hồ.
Ba năm nay, tiếng tăm Long Phi nổi như cồn. Không ít người dò tìm nguồn
gốc võ công của chàng, nhưng võ công Long Phi đa số là do Nhất Âu Tử
sáng tạo ra khi đã vui thú lâm tuyền, nên xuất xứ sư thừa của chàng vẫn
là bí mật với hầu hết mọi người.
Đinh Hạc nhìn như quan sát Long Phi một lượt, hỏi: “Điệt nhi đến khi nào vậy?”
Long Phi cố lấy bình tĩnh, đáp: “Dạ, tiểu điệt mới đến đây chưa lâu”.
“Sao không báo trước cho Tử Trúc một tiếng?”
“Tiểu điệt mười ngày trước đã gửi thư cho Trúc muội báo hôm nay đến!”
Đinh Hạc hơi cau mày: “Sao không thấy nha đầu này nói gì nhỉ?”
Lời lẽ lạnh lùng, nét mặt không chút biểu cảm. Long Phi có cảm giác
chàng đang đối mặt với một con người khác, hoàn toàn không phải là Đinh
Hạc thân thiết nồng ấm của ba năm về trước.
Chàng quan sát Đinh Hạc một lượt theo phản xạ tự nhiên. So với ba năm
trước, ông ta dường như đã già đi nhiều. Không biết là do ánh đèn hay
nguyên nhân nào khác mà sắc mặt nhợt nhạt lạ thường, giữa hai chân mày
ẩn ước một nỗi ưu tư nặng nề, hay một sự sợ hãi khó diễn tả được bằng
lời.
Ánh mắt Long Phi chuyển qua chiếc áo Đinh Hạc đang mặc trên người, tim chàng thoắt đập mạnh hơn.
Không phải kẻ xuất hiện trong trai phòng bên kia cũng mặc một chiếc áo xanh như thế này hay sao?
Chẳng lẽ đó chính là Đinh Hạc?
Long Phi nhớ lại sự xuất hiện đột ngột của Đinh Hạc trong thư phòng này.
Ban nãy, quái nhân áo xanh đó không phải cũng hiện ra như từ hư không sao?
Chàng bỗng phát hiện ra tay trái Đinh Hạc quấn băng, trên băng còn vương vài vết máu. Long Phi vội hỏi: “Tay trái của sư thúc...”
Đinh Hạc vội ngắt lời chàng: “Không có gì, ta mài kiếm không cẩn thận, bị đứt tay một ít”.
Đứt tay? Mài Kiếm? Vào giờ này?
“Nhất Kiếm Câu Hồn” lại bị đứt tay vì kiếm của mình ư?
Nghi ngờ trong lòng Long Phi mỗi lúc một thêm chất chứa. Song chàng vẫn
tỏ ra quan tâm, hỏi: “Ra là thế! Sư thúc, vết thương có nặng lắm không?”
“Thương thế ngoài da ấy mà” - Đinh Hạc dường như thấy Long Phi có ý nghi ngờ, liền nói vồn vã - “Thật đúng là bà lão tám mươi bế làm rớt cháu.
Ta đã mài kiếm bốn mươi năm, đây là lần đầu tiên xảy ra sự này”.
Long Phi thăm dò: “Sư thúc, phải chăng đã có chuyện gì?”
Đinh Hạc cười ha hả: “Sư thúc người đã hơn mười năm tuyệt tích giang hồ, ân oán cũng đoạn cả rồi!”
Tiếng cười nghe vẫn có vài phần khiên cưỡng. Đinh Hạc ngừng một lát rồi tiếp :
“Sư thúc người mê kiếm đến cuồng. Tuy không hành khứ giang hồ nữa nhưng
kiếm thì không thể không luyện mỗi ngày, lại cũng vẫn thường xuyên mài
đi mài lại”.
Lời giải thích không phải không có lý, Long Phi vẫn có cảm giác Đinh Hạc đang giấu diếm gì đó. Nhưng, vốn là người tôn sư trọng đạo, chàng không dám gặng hỏi gì thêm.
Chàng bước lại chiếc giường trúc, khom người: “Kính thúc thúc lại nghỉ ngơi!”
Đinh Hạc cười: “Nhìn thấy người, ta mới thấy ta quả thật già mất rồi!” - Giọng cười lần này mới thật tự nhiên, nhưng vẻ ưu tư trên khuôn mặt vẫn chưa hề giảm bớt.
Ngồi xuống giường, ông ta giơ ngón tay: “Bữa trước có mấy người bạn cũ
đến chơi, nhắc đến điệt đều khen ngợi không ngớt. Ngay cả “Song Phủ Khai Sơn” cũng không qua nổi trường kiếm của người. Lớp trẻ bây giờ luận về
danh tiếng, không ai qua được điệt.
Ôi, Tiểu Phi, người đã trưởng thành thật rồi!”
Long Phi cười hơi ngượng: “Tiểu điệt không hề có ý cầu tiếng tăm, chỉ có một vài chuyện không quản không được”.
Đinh Hạc gật đầu: “Hảo! Hữu sở bất vi, hữu sở tất vi! Đó mới là nam tử hán đại trượng phu!”
Ông ta nói tiếp ngay: “Lần này điệt đến lại không thực đúng lúc. Tử Trúc đi thăm bà ngoại nó, sáng mai mới về”.
Long Phi cúi đầu: “Thọ lão bá đã nói với tiểu điệt. Nhưng tiểu điệt...”
Đinh Hạc bật cười: “Không nhưng nhị gì nữa. Ta cũng đã từng là thanh
niên, tâm sự của bọn thanh niên các người làm sao ta lại không rõ?”
Chưa nói dứt câu, vẻ mặt Đinh Hạc đã thoắt trở thành ảm đạm.
Phải chăng câu nói đã động đến một nỗi niềm sâu kín trong lòng ông ta?
Long Phi đang muốn đáp lời thì Đinh Hạc đột nhiên khoát tay: “Đinh Thọ hẳn đã chuẩn bị xong phòng ngủ cho điệt rồi!”
Ý tứ câu nói rõ ràng là tiễn khách!
Long Phi ngần ngừ giây lát rồi lấy hơi, nói: “Sư thúc, cháu có chuyện muốn hỏi một chút”.
Đinh Hạc càng chú mắt nhìn chàng: “Trang viện bên cạnh làm sao?”
“Cháu chỉ muốn biết đó là trang viện của ai”.
Đinh Hạc nghĩ đoạn, trả lời: “Đó là trang viện của Tiêu Lập!”
Long Phi thập phần ngạc nhiên: “Tam Thương Truy Mệnh Tiêu Lập?”
“Chính ông ta đấy!”
Long Phi vẫn chưa hết ngạc nhiên, hỏi ngay: “Nghe nói thúc thúc và ông ta là bằng hữu rất tốt của nhau”.
Đinh Hạc im lặng.
Đây không phải là bí mật gì to tát. Võ lâm lớp trước rất ít người không
biết “Nhất Kiếm Câu Hồn” và “Tam Thương Truy Mệnh” là bằng hữu thâm
giao. Hai người lúc đơn độc, lúc song hành, tung hoành giang hồ hơn hai
mươi năm không hề có đối thủ. Thế mà giờ đây, nhắc đến Tiêu Lập, Đinh
Hạc lại chừng như không được vui.
Chính Long Phi ba năm trước cũng đã sống ở đây không ít thời gian, thế mà đến bây giờ chàng mới biết điều này.
Đã là bạn tốt như vậy, sao trước đây không hề nghe Đinh Hạc nhắc đến. Phải chăng giữa hai người đã xảy ra xung đột mâu thuẫn gì?
Chàng hỏi thăm dò: “Không biết vị tiền bối Tiêu Lập đó bây giờ sống thế nào?”
Đinh Hạc chậm rãi “Rất tốt!”
Rồi ông ta hỏi dồn lại Long Phi: “Sao bỗng nhiên điệt lại hỏi ta về trang viện ấy vậy?”
Long Phi: “Dạ, không có gì, chẳng qua lúc nãy tiểu điệt đi qua, thấy có vẻ lạ lùng nên mới hỏi thế thôi”.
Đinh Hạc hỏi ngay: “Có gì lạ?”
“Trang viện ấy như đã bỏ hoang nhiều năm rồi thì phải?”
“Bằng vào đâu mà điệt nói như vậy?”
“Cửa không khóa, cỏ dại mọc um tùm, thật nghe thúc thúc nói bây giờ cháu mới biết trong đó còn có người ở”.
Đinh Hạc: “Mấy năm nay ta cũng không biết Tiêu Lập làm gì. Một trang viện vốn dĩ đẹp thế mà nay lại thành như vậy!”
Long Phi: “Thúc thúc và ông ấy đã là bạn thân, ông ấy không nói gì với thúc thúc sao?”
Đinh Hạc lắc đầu: “Ba năm nay ông ấy đóng cửa không tiếp khách rồi!”
Long Phi ồ lên một tiếng.
Đinh Hạc cũng không nói gì thêm, ngồi im, nét mặt rầu rĩ.
Long Phi lại chuyển chủ đề: “Sư thúc, vùng này có ai giỏi về điêu khắc không?”
Đinh Hạc trầm ngâm một lát mới trả lời: “Gần đây có con trai Tiêu Lập
rất giỏi về nghề này. Cho dù là chim muông, côn trùng hay cá tôm dưới
mũi dao hắn ta đều trở thành như sống thật, vì vậy hắn mới có biệt danh
“Ma Thủ”
“Ma Thủ?” - trước mắt Long Phi bỗng hiện lên bức tượng mỹ nhân giống Tử Trúc như tạc ấy.
Lẽ nào nó được khắc ra từ bàn tay của Ngọc Lang?
Đinh Hạc nói tiếp: “Ở gần đây có hai ngôi chùa, nghe nói tượng Phật
trong đó đều do hắn ta điêu khắc, riêng ta chưa đến đấy bao giờ”.
Long Phi cố nén nỗi xúc động, hỏi: “Tử Trúc và huynh ấy có quen nhau không?”
“Có chứ, hồi bé chúng nó còn thân nhau, sau này có ít qua lại hơn, nhưng thỉnh thoảng tiểu tử đó vẫn sang đây”.
“Vậy sao?” - Long Phi nghe dâng lên chút đắng trong lòng.
Đinh Hạc như đã nhận ra điều gì đó, cười cười: “Có phải điệt đã nghe
thấy ai bàn tán gì đó nên vội vàng quay lại đây hỏi cho rõ nguồn cơn
không?”
Long Phi vội lắc đầu: Không, không, hoàn toàn không phải là chuyện đó!”
Đinh Hạc nghiêm nghị: “Đúng chúng nó quen nhau từ nhỏ, thậm chí có thể
nói là thanh mai trúc mã, nhưng điệt cứ yên tâm, đó là chuyện xưa lắm
rồi. Vả lại, ta không thích con người hắn chút nào”.
Im lặng một chút, ông ta bỗng cau mày: “Cũng ba năm rồi hắn không đến
đây, Từ khi Tiêu Lập bế môn tạ khách, hắn hình như cũng không ra ngoài”.
Long Phi trầm ngâm: “Có thể đã xảy ra chuyện gì thật!”
“Có thể!” Đinh Hạc thở dài.
Vừa than thở, vừa nhìn ra ngoài cửa sổ: “Trời cũng không còn sớm nữa. Điệt nên đi nghỉ, có việc gì kêu Đinh Thọ là được rồi”.
Long Phi cúi đầu: “Còn sư thúc...”
Đinh Hạc: “Ta còn muồn ngồi đây chút nữa. Có gì ngày mai sẽ nói sau”.
Long Phi đành phải rời khỏi thư phòng.
* * * * *
Ra khỏi thư phòng, lòng Long Phi càng trở nên nặng trĩu.
Không gặp Đinh Hạc còn đỡ, gặp rồi, những nghi vấn trong đầu chàng lại càng điệp điệp trùng trùng.
Bộ đồ thêu hoa màu xanh, tiếng thét thảm thiết, cánh tay trái bị thương. Có gì trùng hợp với quái nhân xuất hiện đột ngột trong trai phòng bên
kia? Liệu Đinh Hạc có chính là người này?
Lẽ nào cánh tay ông ta bị thương tại nơi ấy? Vết máu trên bức bình phong cũng từ đó mà ra?
Nếu vậy, rốt cuộc thì là vì chuyện gì?
Ông ta đã xuất hiện như thế nào? Thủy Nguyệt Quan Âm là ai? Có quan hệ
gì với Đinh Hạc? Quái nhân với đầy vảy rắn trên mình, mộc mỹ nhân giống
hệt như Tử Trúc, đó tất cả là phép thuật của thần tiên hay là hóa thân
của ma quỷ, hay còn một thứ gì khác nữa?
Nếu như không phải là thần tiên ma quỷ thì có thể vô thanh vô ảnh rời nơi đó bằng cách nào?
Những câu hỏi này, cho dù Đinh Hạc là người áo xanh, tin rằng cũng không giải đáp được hoàn toàn. Cũng rất có thể Đinh Hạc không phải là người
đó, cũng không biết gì về chuyện thần tiên ma quỷ này.
Long Phi đã suy nghĩ đến điên đầu, khó khăn lắm mới kìm được ý định quay lại hỏi tiếp Đinh Hạc. Bởi chàng đã nhận ra, tâm tư ông ta đang xáo
trộn dữ dội, căn bản không phải là lúc có thể nói đến những chuyện như
thế này.
Bức tượng mộc mỹ nhân giống hệt Tử Trúc kia, nếu không phải là tiên
thuật hay yêu pháp hóa ra thì chỉ có khả năng được tạo thành bởi bàn tay một diệu thủ trong nghề điêu khắc.
Đinh Hạc đã sống tại đây rất lâu. Nói về cao thủ trong nghề điêu khắc,
nếu quả thực có hai người thì chắc chắn không thể chỉ nhắc tới mỗi mình
Ngọc Lang. Vậy thì, mộc mỹ nhân phải là kiệt tác của Tiêu Ngọc Lang!
Cho dù Tiêu Ngọc Lang đã được suy tôn “Ma Thủ”, song nếu không có người
thật làm mẫu, chỉ có thể đắc kỳ hình chứ không thể đắc kỳ thần âm.
Bức tượng mộc mỹ nhân ấy, giống Tử Trúc cả về diện mạo lẫn thần sắc biểu cảm. Cho dù là bạn thanh mai trúc mã, giao tình hẳn không thể là đơn
giản, nhưng khỏa thân đứng trước người khác giới lại là điều mà bạn bè
với nhau làm được hay sao?
Nếu vạn nhất sự thực là đúng như vậy?
Trong lòng Long Phi chợt dâng lên một cơn ghen ghê gớm. Nỗi hờn ghen dày vò quặn thắt ruột gan chàng.
Không nhịn được nữa, chàng phá lên cười, lẫn trong tiếng cười, lệ từ hai mắt lại tuôn ra ràn rụa.
Chàng ghen, bởi chàng đã yêu, đang yêu say đắm Tử Trúc.
Không có tình yêu, không có ghen tuông!
---------------
[1] Chú thích: Bài thơ của Lý Thương Ẩn (Tiêu Dao Tử tạm dịch) :