Lữ Tứ Nương lại cười nói: “Nghe nói khi đệ ở nhà Dương Trọng Anh, ban ngày học võ ban đêm luyện văn, đã từng viết một bài từ ‘Bách hoa lệnh’?” Đường Hiểu Lan đỏ mặt, ấp úng nói: “Bài từ này chẳng qua là đùa lúc còn thiếu niên, chẳng hay ho gì cả”. Té ra chàng viết bài từ này là vì nhớ Lữ Tứ Nương, không biết sao nàng đã biết, nghe nàng nhắc tới thì trong lòng lo âu. Lữ Tứ Nương nói: “Ta đã từng đọc bài từ này của đệ tuy cũng có ‘từ vị’ nhưng quá đau thương, người trẻ tuổi không nên như thế. Mấy câu mở đầu của đệ ‘Phiêu bình quyện lữ, toán mang mang nhân hải, bằng hữu tri phủ?’ nghe rất quạnh quẽ đau lòng. Thực ra trong biển người mênh mông, có rất nhiều người tri kỷ, vả lại chỉ cần đệ hành động hợp với nghĩa, cần gì lo không có người tri kỷ?”
Lữ Tứ Nương chỉ lấy từ luận thế, nửa câu chẳng nhắc đến tình nhi nữ. Đường Hiểu Lan cúi đầu không nói, trong lòng suy nghĩ mông lung.
Lữ Tứ Nương mỉm cười, lại nói: “Lúc còn bé ta đã từng làm một bài từ ‘Thủy long ngâm’, trong đó có hai câu: ‘Mạc học tân thanh hậu chủ, khủng từ tiên tiếu y hà khổ?’ ta thấy không bệnh mà ngâm đương nhiên không tốt, có bệnh ngâm cũng chẳng cần. Nếu bậc đại trượng phu gặp nguy nan, cần phải đứng vững như kiềng ba chân, gánh vác trách nhiệm, vượt qua cửa ải khó khăn, nếu học từ thì phải học theo Tô Đông Pha hay Tân Khí Tật, không nên theo đòi kẻ mất nước như Lý Hậu Chủ? Đệ đã từng đọc bài từ ‘Hạ tân lang’ của Tân Khí Tật chưa, ba câu đầu của bài từ này cũng giống như ba câu đầu trong ‘Bách hoa lệnh’ của đệ, nghe như than vắn thở dài, nhưng bài từ của ông ta lại có hào khí, khác hẳn với của đệ. Đệ có nhớ không, hãy thử đọc cho ta nghe”.
Đường Hiểu Lan ngẩng đầu lên, đọc rằng: “Thậm hĩ ngô suy hĩ! Trướng bình sinh giao du linh lạc, chích dương dư kỷ. Bạch phát không thùy tam thiên trượng, nhất tiếu nhân gian vạn sự, vấn hà vật năng lệnh công hỉ? Ngã kiến thanh sơn di ủy mị, liệu thanh sơn kiến ngã ứng như thị. Tình giữ mạo, lược tương tự. Nhất tôn sao đầu đông song lý, tưởng Uyên Minh, đình vân thi tựu, hà thời phong vị. Gian tả trầm cam cầu danh giả, khởi thức trọc lưu diệu lý? Hồi đầu khiếu vân phi phong khởi. Bất hận cổ nhân ngô bất kiến, hận cổ nhân bất kiến ngô cuồng da! Tri ngã giả, nhị tam tử”.
Tân Khí Tật viết bài từ này lúc tuổi đã về chiều nhưng hào khí tiêu thoát, còn hơn cả thiếu niên. Đường Hiểu Lan đọc xong, chợt thấy mình sao quá hẹp hòi, không khỏi tự cười mình, Lữ Tứ Nương không dùng lời an ủi chàng nhưng đã lấy từ để dẫn dắt chàng. Đường Hiểu Lan thấy lòng dần dần thư thái, chợt hỏi: “Tỷ tỷ hãy đọc lài bài ‘Thủy long ngâm’ cho đệ nghe thử”.
“Vô biên phiêu diễu kỳ phong, tăng thụy ngã cựu thời gia xứ. Phất tụ khứ lai, nhuyễn trần sơ đạp, thạch môn tây trú. Đoản trợ tài hoa, trường thi tá tửu, kỹ hồi ngưng trữ. Quán liệt địch suy vân, cao ca tán vụ, chấn y thượng, thiên nham thụ.
Mạc học tân thanh hậu chủ, khổng từ tiên tiếu y hà khổ? Trích đẩu tinh duy, kinh sa lạc nguyệt, tụy khai vân lộ. Phùng đảo cựu du, viên kiều tân cảnh, tùng đầu phi độ. Thả bút tả tây giang, vân phiên bất hải, hoán thần long vũ”.
Bài từ này nghe sao hào tình muôn trượng, chí lớn cao vời, cõi lòng rộng mở. Nếu Lữ Tứ Nương không nói, Đường Hiểu Lan không dám tin rằng đây là một bài từ của một nàng thiếu nữ. Hai người nói chuyện rất hợp nhau, Đường Hiểu Lan thấy nỗi sầu muộn tuy tiêu tan nhưng cũng muốn hỏi đến đạo lập thân của nàng, đang suy nghĩ chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng kêu lớn: “Tứ Nương, Thẩm tiên sinh đang tìm”. Lữ Tứ Nương ngẩng đầu nhìn lên, cười rằng: “Đúng là nói chuyện vui đến nỗi chẳng biết thời khắc, vầng dương đã dời về phía Tây. Chắc đệ cũng đã đói bụng, vào chùa ăn lót dạ trước đã”.
Đường Hiểu Lan theo Lữ Tứ Nương xuống núi, hỏi: “Thẩm tiên sinh là ai?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Chính là người mà ta thường nhắc với đệ, Thẩm Tại Khoan”. Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng, nói: “Chẳng phải y đã bị bắt năm năm trước rồi sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Cam sư huynh không nói với đệ, sau này bọn ta đã cứu chàng”. Đường Hiểu Lan thấy lòng xao xuyến, sau đó mới nghĩ: “Lữ Tứ Nương coi mình như tiểu đệ, đã khiến cho mình ghi tâm khắc cốt, làm sao có thể mong muốn được nhiều hơn?” chính vì nghĩ thế nên cõi lòng đã bình lặng, chàng lầm lũi bước theo Lữ Tứ Nương vào thiền viện.
Thẩm Tại Khoan vừa mới thức dậy, ngẫm nghĩ những lời nói buổi sáng của Lữ Tứ Nương, chỉ cảm thấy ngọt ngào tình tứ, chàng lập lại hai câu: “Kiếm liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên” chàng đọc xong hai câu bất giác cười buồn. Thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương đã yêu thương sâu sắc đến thế, mình còn tự tìm khổ não là vì cớ gì?” rồi chàng lại nghĩ: “Lữ Tứ Nương xinh đẹp tuyệt trần, năm năm qua chịu đựng nỗi cô quạnh, bầu bạn với kẻ tàn phế như mình, vả lại còn muốn suốt đời theo mình, tình ý ấy thật hiếm có”. Lúc này bao nhiêu nỗi ưu phiền cũng tan biến.
Lữ Tứ Nương dắt Đường Hiểu Lan vào thiền viện, hai người đi sánh vai bên nhau, Đường Hiểu Lan cao hơn Lữ Tứ Nương, trước thiền viện có một cái đầm nhỏ, nước trong đầm trong vắt, dưới đầm hắt bóng một chàng thiếu niên anh tuấn, một nàng thiếu nữ xinh đẹp. Lúc nãy nghe Đường Hiểu Lan than thở, Lữ Tứ Nương đang mãi nghĩ cách giải nguy cho chàng, trong lòng chẳng có ý gì khác, chẳng hề để ý đến hai chiếc bóng dưới mặt đầm, khi bước vào thiền viện chợt thấy bài từ của Thẩm Tại Khoan, nàng sợ Thẩm Tại Khoan vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng mình, thấy Đường Hiểu Lan sẽ hiểu nhầm, há chẳng phải khiến chàng bệnh nặng hơn hay sao? Nàng nghĩ đến đấy chân chợt chậm lại. Đường Hiểu Lan tựa như hiểu ra, chàng quay đầu hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đang nghĩ gì thế?” Lữ Tứ Nương ngẩng đầu lên, ánh mặt trời rực rỡ, hoa núi như đang cười, nói rằng: “Không sao cả!” nàng bước tới trước hai bước, dắt Đường Hiểu Lan vào thiền viện, đến trước cửa một căn phòng, kêu lên: “Tại Khoan, có khách đến viếng thăm huynh!”
Giường của Thẩm Tại Khoan kê sát cửa phòng, chàng vươn tay là có thể mở then cài, nhưng chàng bước xuống giường, vịn vách tường ra mở cửa, Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng, nói: “Huynh vừa mới cử động được, không nên quá mệt nhọc”. Thẩm Tại Khoan thấy Đường Hiểu Lan, chỉ ngạc nhiên rồi nói: “Muội phải tiếp đãi khách trước”. Lữ Tứ Nương nói: “Đây là người bằng hữu rất thân của muội”. Rồi nàng liếc Thẩm Tại Khoan, thấy chàng chẳng đổi sắc, đỡ chàng lên giường rồi giới thiệu cho hai người. Thẩm Tại Khoan nói: “Xin mời Đường huynh ngồi xuống, tôi đi đứng không tiện, xin được thất lễ”.
Đường Hiểu Lan thấy thế mới biết năm năm nay Lữ Tứ Nương bầu bạn bên cạnh một người tàn phế, trong lòng rất cảm động, càng cảm thấy Lữ Tứ Nương khắc hẳn người thường!
Lữ Tứ Nương vào nhà bếp lấy cơm chay bưng vào phòng, Đường Hiểu Lan đang nói chuyện với Thẩm Tại Khoan. Cơm nước xong Đường Hiểu Lan nói: “Tôi có một việc muốn thỉnh giáo Thẩm huynh”. Thẩm Tại Khoan nói: “Xin cứ nói”.
Đường Hiểu Lan lại kể mọi chuyện một lượt. Thẩm Tại Khoan nghe xong, chợt ngồi bật dậy, nói: “Nếu Đường huynh không cho tôi là người ngoài, tôi cũng muốn giúp cho Đường huynh. Oanh muội, muội hãy đi theo Đường huynh một chuyến!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Còn huynh?” Thẩm Tại Khoan nói: “Nay huynh bệnh tình đã khá, có Nhất Phiêu đại sư chăm sóc là đủ. Việc của Đường huynh phải nhờ muội. Đường huynh và chúng ta là bằng hữu tri giao, y đang gặp nguy, lẽ chúng ta ngồi yên mà nhìn?” Lữ Tứ Nương không ngờ chàng lại phóng khoáng đến thế, bất giác cảm động đến rơi nước mắt.
Thẩm Tại Khoan lại nói: “Lần này Đường huynh gặp nạn, theo ta thấy, nạn ngoài dễ giải, giặc trong khó trừ”. Đường Hiểu Lan đã xem Thẩm Tại Khoan là ca ca, nói: “Mong được nghe dạy”. Thẩm Tại Khoan nói: “Đường huynh bị lệnh sư hiểu lầm, nếu có Tứ Nương ra giải thích, chắc mọi việc rồi sẽ yên. Chỉ có điều Đường huynh vừa biết thân thế, từ rày về sau sẽ rất khó xử”. Một lời nói trúng đích, Đường Hiểu Lan đang lo vì mình có huyết thống hoàng tộc. Thẩm Tại Khoan lại chậm rãi nói: “Cứ làm điều trăm họ thích, ghét điều trăm họ ghét, đó chính là đạo lập thân ở đời”. Đường Hiểu Lan cúi đầu suy nghĩ một lúc rất lâu, chợt ngẩng đầu lên nói: “Đa tạ Thẩm huynh chỉ giáo”.
Thẩm Tại Khoan nói: “Oanh muội, ngày mai muội hãy theo Đường huynh xuống núi”. Lữ Tứ Nương xao xuyến, chợt nói: “Vài ngày nữa là thắt tịch”. Thẩm Tại Khoan biết nàng vẫn còn lưu luyến mình, cười rằng: “Từ của Thiếu Du có viết rằng: ‘Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số’. Lại nói: ‘Lưỡng tình nhược thị cửu trường thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ’ năm năm qua chúng ta ở bên nhau, còn may mắn hơn cả Ngưu Lang Chức Nữ, đâu cần phải đau lòng vì một lúc tiểu biệt” Lữ Tứ Nương nghe xong, biết chàng đã hoàn toàn tin tưởng mình, chẳng hề có ý hoài nghi, tuy trong lòng có chút quyến luyến nhưng cũng thấy chút ấm áp.
Đang nói, Nhất Phiêu đại sư chợt gõ cửa nói: “Lữ Tứ Nương, không biết hôm nay có ngọn gió gì mà khách lại tới nữa!” Lữ Tứ Nương nói: “Ai thế?” Nhất Phiêu nói: “Chính là Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp chỉ dẫn cho tôi đến dãy Hà Lĩnh, tôi tưởng rằng ông ta không đến”. Lữ Tứ Nương nói: “Cam sư huynh đến đây chắc có việc lớn”. Rồi cùng Đường Hiểu Lan bước ra nghênh tiếp.
Cam Phụng Trì thấy Đường Hiểu Lan cùng Lữ Tứ Nương bước ra, biết những điều chàng nói không phải là giả, thái độ thân mật hơn trước nhiều, nắm tay chàng cười nói: “Ta âm thầm bảo vệ ngươi lên núi, ngươi có biết không?” Đường Hiểu Lan hơi hổ thẹn, nói: “Tiểu đệ chẳng hề hay biết”.
Lữ Tứ Nương hỏi: “Năm năm qua các sư huynh có khỏe không?” Cam Phụng Trì nói: “Một hai năm nay ta ít gặp mặt họ. Không ngờ lúc nãy vô tình nhặt được tín vật của đồng môn”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Vị sư huynh nào nhờ người đến gặp muội?” Cam Phụng Trì lấy ra một bức tranh, đưa cho Lữ Tứ Nương nói: “Muội hãy xem thử bút tích của ai trong bức tranh này?” trong bức tranh là một con chim ưng, trông rất uy võ nhưng bị nhốt trong lồng, mỏ chim ưng thì ra khỏi lồng, hai cánh giang rộng tựa như muốn kêu lên. Bên cạnh cái lồng chim có một nàng thiếu nữ dung mạo tựa như Lý Minh Châu con gái của Tuần phủ Triết Giang. Lữ Tứ Nương nhìn một hồi thì kêu lên: “Chả lẽ Lộ sư huynh bị Triết Giang tuần phủ giam lỏng?”
Lộ Dân Đảm là con em nhà thế gia, võ công tuy không cao nhưng tài vẽ nổi tiếng, nhất là vẽ chim ưng. Trong bức họa này chàng ta đã vẽ chim ưng trong lồng, tựa như lấy chim ưng để nói người, thầm bảo mình bị giam. Lữ Tứ Nương rung giọng hỏi: “Cam sư huynh, làm sao huynh có được bức tranh này?”
Cam Phụng Trì trả lời: “Sau khi huynh đưa Đường huynh lên núi, một mình quay trở về Triết Giang, đi được khoảng ba bốn dặm đường, chợt nghe sau núi có tiếng ngựa hí, lại còn có cả tiếng kêu thê lương”. Lữ Tứ Nương biến sắc, nói: “Chả lẽ triều đình biết muội ẩn cư ở đây?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh cũng lo như thế nên vội vàng chạy ra sau núi xem sao, chỉ thấy trên dịch đạo bụi tung bay mù mịt, mấy thớt ngựa đã phóng đi. Huynh nghĩ đuổi theo không kịp nữa chỉ đành đến xung quanh quan sát kỹ càng, chợt thấy trên tảng đá dưới chân núi có mấy vệt máu, chắc là lúc nãy có người kịch đấu trên dịch đạo, giằng co đến đây thì đã bị bắt”. Đường Hiểu Lan nói: “Theo Cam đại hiệp thấy, bọn chúng có muốn lên núi không?” Cam Phụng Trì đáp: “Ta cũng không rõ. Dấu chân và dấu máu cho thấy tựa như có cuộc đánh nhau từ dịch đạo đến sườn núi, sau đó càng đánh càng kéo xa. Xem tình hình hình như có vài người vây đánh một người, sau đó người này đã bị bắt. Giả sử những người này muốn lên núi, bọn chúng không cần phải quay ra gấp như thế”.
Lữ Tứ Nương hơi lo lắng, nói: “Kẻ bị bắt không biết có phải là Lộ sư huynh hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Ta thấy cũng không phải. Lộ sư đệ không có võ công cao như thế”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Cam đại hiệp không tận mắt chứng kiến, làm sao biết võ công của người ấy giỏi hay giở?” Cam Phụng Trì nói: “Dấu chân rất rõ ràng dưới đất, từ sự phân bố của dấu chân và các dấu vết di chuyển có thể nhiều người vây đánh một người, còn bộ pháp của người bị truy đánh thì không hề bị rối loạn, tiến lui rất có phép tắc. Lộ sư huynh tuy cũng có được võ công như thế nhưng y ít có kinh nghiệm, khi lâm địch không hề binh tĩnh như thế”. Cam Phụng Trì phân tích rất có lý, không những khiến Đường Hiểu Lan phục lăn mà Lữ Tứ Nương cũng cảm thấy chàng ta đúng là một đại hành gia trên giang hồ, dược lực chẳng kém gì mình.
Cam Phụng Trì nói: “Gần đây ta định đi xa, đến bái phỏng các vị sư huynh. Còn nữa, năm ngoái ta nghe nhị sư huynh nói, Quan Đông tứ hiệp rất muốn gặp mặt ta, có lẽ ta sẽ lên kinh sư, rồi từ đó đi sang Liêu Đông”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Vậy thì tốt quá, ngày mai muội và Đường Hiểu Lan sẽ đi xa, vậy chúng ta sẽ đi cùng một đường. Có sư huynh đi cùng, bọn muội cũng yên tâm hơn nhiều”. Cam Phụng Trì nói: “Còn Thẩm tiên sinh thì sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Gần đây chàng đã khá nhiều, hôm nay có thể vịn vách mà đi. Chàng biết chuyện của Hiểu Lan, bảo muội nên giải thích hộ cho giang hồ biết”. Cam Phụng Trì nói: “Thẩm tiên sinh can đảm tương chiếu, tuy là một thư sinh nhưng còn hiệp nghĩa hơn cả chúng ta!” thế rồi bảo Lữ Tứ Nương giới thiệu, đến tịnh thất bái kiến Thẩm Tại Khoan. Thẩm Tại Khoan nghe Cam Phụng Trì sẽ đi cùng họ, chàng càng thêm yên tâm.
Sáng sớm hôm sau, hai người cùng xuống núi rồi đi lên phía Bắc. Để cho tiện, Lữ Tứ Nương cải dạng nam trang, Cam Phụng Trì sửa đổi khuôn mặt cho Đường Hiểu Lan, trên đường quả nhiên không ai nhận ra.
Phía Bắc của dãy Tiên Hà là Triết Giang, ba người đi tới Du Long, Kim Hoa, rẽ sang phía Đông xuống Nghĩa Ô, Thiệu Hưng, đi thẳng đến Tiêu Sơn, định rằng đến nhà Lộ Dân Đảm thăm hỏi trước. Ra khỏi Tiêu Sơn là vùng ven biển Hàng Châu. Lữ Tứ Nương ở lâu trong núi, lúc này thấy biển rộng thì trong lòng thư thả. Hôm nay họ tiếp tục tiến về phía nhà Lộ Dân Đảm, con đường lớn dựa vào núi hướng mặt ra biển, Lữ Tứ Nương nhất thời nổi hứng, cùng hai người Cam, Đường lên núi, phóng mắt nhìn ra biển khơi, chỉ thấy đảo lớn đảo nhỏ nằm xen kẽ vào nhau, những con thuyền đánh cá như những đốm sao trên bầu trời, đang lúc ngắm cảnh, chợt nghe Cam Phụng Trì kêu.
Lữ Tứ Nương quay đầu lại, ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì thế thất sư huynh?” Cam Phụng Trì nói: “Muội xem đây”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương đến phía dưới một mõm đá, phủi bụi trên đá chỉ thấy bên trên là những ký hiệu trông rất kỳ quái, Lữ Tứ Nương cũng không nhận ra, ngạc nhiên nói: “Những ký hiệu này có nghĩa là gì?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh cũng không biết, có lẽ là ám hiệu của các bang hội trong giang hồ”. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta không cần lo chuyện bao đồng”. Cam Phụng Trì nói: “Không sao, muội hãy tới xem thử”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương bước xuống, có đến bảy tám hòn đá vẽ ký hiệu này.
Cam Phụng Trì nói: “Huynh hiểu đại khái hai loại ám hiệu, ý nghĩa là hẹn đến đây tụ hội”. Lữ Tứ Nương nói: “Chả lẽ hòn núi này là nơi hổ ẩn rồng nằm, có hào kiệt trên giang hồ? Nhưng chuyện đó cũng không liên quan tới chúng ta”. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, muội và Lộ sư huynh một người ở Triết Đông, một người ở Triết Tây, huynh cũng thường qua lại hai miền, các nhân vật có tiếng tăm ở miền này huynh cũng đều quen, nhưng chưa từng nghe nói quê Lộ sư huynh cũng có hào khách giang hồ ẩn cư”. Lữ Tứ Nương nói: “Có phải thất ca nghi ngờ chuyện này có liên quan đến Lộ sư huynh?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh không dám chắc, nhưng từ đây đến nhà Lộ sư huynh chỉ còn hơn mười dặm đường, huynh cũng chưa bao giờ nghe Lộ sư huynh nói quê hương của y có người võ công cao cường nên rất lấy làm lạ. Chúng ta tìm hiểu thử xem sao”. Ba người đi một hồi nữa, thấy ở sườn núi đối diện có khói bốc lên từng cuộn, Lữ Tứ Nương nói: “Hình như bên đó có nhà”. Cam Phụng Trì cười rằng: “Chúng ta qua đó xem thử”. Ba người đi xuống một hồi lại thấy có ruộng lúa, Cam Phụng Trì cười nói: “Đâu chỉ là nhà, còn có cả thôn làng!”
Ba người băng ngang qua thung lũng, đến chân núi đối diện, Cam Phụng Trì vừa lên núi vừa đưa mắt thăm dò, lên được nửa chừng phát hiện có ba ám hiệu của các bang hội. Đi một hồi nữa lên đến đỉnh núi, chỉ thấy phía bên núi khói cuộn lên mù mịt, Lữ Tứ Nương cười nói: “Chúng ta đi cả nửa ngày, người dưới chân núi cũng đã nghỉ ngơi, nổi lửa nấu cơm. Chúng ta không ra thì đêm nay phải đành ở lại đây”. Cam Phụng Trì nói: “Xem một lúc nữa”. Đột nhiên ngừng lại, lộ vẻ ngạc nhiên.
Xưa nay Cam Phụng Trì là người trầm lặng. Trong số các đồng môn chàng là người bình tĩnh nhất dù là có chuyện gì xảy ra. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Thất ca, huynh lại thấy gì thế?” Cam Phụng Trì trầm ngâm không nói, một hồi sau mới trả lời: “Chẳng lẽ có sư huynh nào bị vây ở đây, điều này thật khiến ta không hiểu nổi!” Lữ Tứ Nương bước ra khỏi mõm đá, bên cạnh mõm đá có một tảng đá nhọn như mũi kiếm, trơn láng như mặt kính, trên đá có khắc ám hiệu các đồng môn thường dùng, ám hiệu rất rời rạc đơn giản, chỉ có bốn chữ: “Bị vây, cứu viện”. Cam Phụng Trì nói: “Muội nhìn xong, đây có phải là ám hiệu của đồng môn chúng ta không?” Lữ Tứ Nương nói: “Có điều gì đáng nghi?” Cam Phụng Trì nói: “Nếu là ám hiệu của các sư huynh, sao không có các con số?” té ra các đệ tử của Độc tý thần ni khi liên lạc với nhau cũng phải sắp xếp theo thứ tự. Ví dụ khi Cam Phụng Trì để lại dấu hiệu sẽ ký chữ thất, Lữ Tứ Nương sẽ viết thêm chứ bát, Cam Phụng Trì nói: “Muội có thấy điều gì lạ hơn không?”
Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca, những ký hiệu này rất đơn giản, huynh làm sao thấy được nhiều điều? Còn có chuyện gì lạ nữa đâu? Muội chẳng thấy điều gì cả”. Cam Phụng Trì nói: “Những ám hiệu này tuy lấy móng tay thay bút, dùng chỉ lực vạch trên tảng đá. Xem ra công lực của người này hơn Lộ sư huynh nhưng kém Bạch sư huynh, tương đương với Châu sư huynh và Tào sư huynh, nhưng nếu hai người Châu, Tào viết, vết tích tất nhiên sẽ già dặn, nhưng những ký hiệu này xem ra rất non nớt, ta đoán rằng, người để lại ám hiệu không phải là người của bổn môn”. Lữ Tứ Nương thầm phục. Cam Phụng Trì nhìn một hồi rồi lại cười nói: “Lúc này huynh có thể đoán được đại khái ai”. Lữ Tứ Nương chợt cười nói: “Thất ca, huynh khoan nói, để muội đoán thử trước”. Đường Hiểu Lan cũng ngưng thần chăm chú, thế nhưng chẳng phát hiện được điều gì, đang lấy làm buồn bực. “Người để lại ám hiệu là nữ tử, còn trẻ hơn cả muội”. Cam Phụng Trì vỗ tay cười nói: “Đúng thế”.
Đường Hiểu Lan hỏi: “Các người rốt cuộc có nhận ra chưa?” Lữ Tứ Nương nói: “Đệ có nghiên cứu thư pháp không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đệ từ nhỏ đã thất học, sau này theo Dương sư phụ mới học chữ nghĩa, lúc đó chỉ ham đọc thư từ chứ ít cầm bút luyện chữ”. Lữ Tứ Nương nói: “Nét chữ của nữ tử mềm mại hơn nam tử, có lẽ đệ cũng biết điều này. Những ký hiệu này tuy không phải là thứ chữ vuông vức, vả lại dùng chỉ lực vạch vào nhưng vẫn còn mang theo cách khác. Móc, mác giống với loại chữ được viết như bình thường, làm sao không thể nhận ra?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh không nhận ra người này có hiểu biết thư pháp nhưng những ký hiệu trông nắn nót, bởi vậy có thể đoán được do một người phụ nữ dùng ngón tay vạch vào. Bát muội, muội tuy thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng rất thông minh”. Lữ Tứ Nương đỏ mặt: “Có phải ký hiệu của đồng môn để lại hay không muội cũng chẳng biết mà còn bảo thông minh?” Cam Phụng Trì nói: “Điều đó chẳng trách muội, muội vẫn còn chưa gặp mặt vài vị sư huynh, đương nhiên không hiểu rõ công lực của họ bằng huynh”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi rồi lại nói: “Trong sư môn ngoại muội, chẳng còn nữ tử nào khác, nàng làm sao biết ám hiệu của chúng ta, điều này thật kỳ lạ. Đã đi đến đây, chúng ta hãy xuống ngôi làng phía dưới núi dò hỏi thử”.
Ba người leo lên đỉnh núi nhìn xuống, cảnh tưởng ở phía sau núi lại khác hẳn, chỉ thấy những hòn núi nhỏ chập chùng, tựa như núi non trùng điệp, nhưng ở sườn núi lại có con đường nhỏ lượn quanh. Cam Phụng Trì cười nói: “Tình thế ở nơi này cũng rất tốt”. Cả ba người từ trên đường núi đi xuống, đi được lưng chừng núi đã thấy dưới chân núi có hơn mười căn nhà. Lúc này mặt trời đã ngả về Tây, chim bay về tổ hót ríu rít nghe vui tai.
Ba người tiến dần vào thôn, người trong thôn đều đã dùng cơm, chỉ có vài người đang dạo bên ngoài, thấy ba người khách lạ đều rất ngạc nhiên. Trong thôn có một nhà họ Chu là đông nhất, Cam Phụng Trì vốn định hướng nhà người đó, có người bước tới hỏi: “Có phải quý khách tìm Trang chủ hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Đúng thế”. Người đó nói: “Xin đợi một lát”. Rồi chạy đi như bay, Cam Phụng Trì khẽ nói với Lữ Tứ Nương: “Lát nữa chúng ta bước vào, cứ mặc huynh ăn nói, nếu có sự biến gì, hãy nhìn ánh mắt của ngu huynh mà làm theo”. Lữ Tứ Nương gật đầu. Lúc này họ đã đến trước căn nhà, hai cánh cửa sơn son đã mở toang.
Hai đại hán bước ra ngoài cửa, đưa tay chỉ xuống đất, hỏi: “Hai vị là đồng nguyên cùng đạo hay thiên kim nhập thổ?” Đó là tiếng lóng thường dùng trong bang hội, có nghĩa là: “Các người là người của bang phái khác nhưng đồng đạo hay là huynh đệ trong bổn bang đến tìm Long Đầu đại ca?” Cam Phụng Trì dựng ngón tay cái chỉ lên trời, lớn giọng nói: “Nhật nguyệt tinh thần, không về bùn đất”. Hai đại hán mặt biến sắc, vội vàng cung kính nói: “Xin mời ba vị vào, để tiểu nhân bẩm cáo Trang chủ”. Té ra hai câu nói ấy thể hiện thân phận của Cam Phụng Trì, nói rõ chàng không phải là người trong bang hội, không ai quản được chàng. Người nói câu này nếu không phải là đầu lĩnh của một phái thì cũng là nhân vật có danh tiếng.
Hai đại hán dắt ba người vào khách sảnh, ngồi một hồi chỉ thấy một ông già khỏe mạnh tuổi khoảng lục tuần từ hậu được bước ra, chắc đây chính là Thượng trang chủ. Đường Hiểu Lan toan đứng dậy, Cam Phụng Trì đã bật dây trước, bước ra giữa ba bước, sau đó bước ngang sang trái một bước, lại nhảy ngang sang phải một bước, lùi ba bước, rồi mới tỏ ý bảo hai người Lữ, Đường đứng dậy ôm quyền hành lễ. Ông già này chưng hửng, trông rất tức giận.
Té ra Thượng trang chủ này rất có danh tiếng, nghe thủ hạ báo rằng có ba người đến gặp, vội vàng ra nghênh tiếp, vừa nhìn thì rất thất vọng, lão tưởng là nhân vật thành danh nào đó, nào ngờ chẳng quen biết ai. Vả hai người Lữ, Đường trông rất trẻ tuổi, nhất là Lữ Tứ Nương vì học thuật Kiểm tinh nội thị của Dịch Lan Châu nên trông cứ như một thư sinh yếu đuối khoảng hai mươi tuổi; trong ba người thì Cam Phụng Trì lớn tuổi nhất, thái độ tuy già dặn nhưng chẳng qua chỉ mới hơn ba mươi tuổi, vả lại sắc mặt vàng ệt ốm yếu, trông giống như một người bệnh. Thượng trang chủ tưởng rằng bọn họ là những tên lừa đảo. Nhưng Cam Phụng Trì tiến lên rồi lui lại, hành lễ nhưng người bằng vai phải lứa, lúc đầu Thượng trang chủ tức giận, nhưng nghĩ họ đã có thể đến tìm mình, chắc chắn đã biết danh tiếng của mình, đã dám dùng lễ bằng vai phải lứa, chẳng phải là nhân vật tầm thường. Trên giang hồ dị nhân rất nhiều, lão không dám coi thường, thế là cười ha hả, ôm quyền trả lễ, ngầm vận công lực nội gia quét quyền phong về phía Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì chẳng hề nhúc nhích, trả lại một vái, Thượng trang chủ hơi run người, vội vàng kìm người lại, cười rằng: “Lão huynh công phu thật giỏi, hai vị tiểu ca này có phải là môn hạ của huynh không?” Cam Phụng Trì nói: “Đều là bằng vai phải lứa với tôi”. Thượng trang chủ đưa tay ra nói vói Lữ Tứ Nương: “Lão phu lỡ lời, xin thứ tội không biết”. Lữ Tứ Nương đưa tay ra nắm lấy tay y, Thượng trang chủ chợt thấy cổ tay tê rần, công phu của Lữ Tứ Nương còn hơn cả Cam Phụng Trì. Trong ba người thì Đường Hiểu Lan tráng kiện khỏe khoắn nhất, Thượng trang chủ không dám thử nữa, vội vàng mời ba người ngồi vào chỗ.
Cam Phụng Trì nói: “Nghe nói Trang chủ sắp làm lễ mừng thọ, ba huynh đệ chúng tôi đến đây làm phiền”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên thầm nhủ: “Làm sao Cam đại hiệp biết lão già này làm lễ mừng thọ?” chàng nào biết đó chính là tiếng lóng trong bang hội. Cam Phụng Trì đến đây, thấy hơn mười ám hiệu của bang hội, liệu rằng chủ nhân ở đây chính là chủ của một bang hội, có thể gần đây sắp mời người khác bang hội đến gặp gỡ bí mật. Cuộc gặp gỡ này được gọi là làm lễ mừng thọ nên Cam Phụng Trì mới buông lời hỏi dò. Không ngờ Thượng trang chủ cười ha ha: “Ba vị cao hiền nếu đã chịu đến đây, thật là vinh dự cho chúng tôi rất nhiều, chỉ là còn mấy ngày nữa mới đến kỳ hạn, ba vị cao hiền đành phải ở lại chờ!” Cam Phụng Trì nói: “Nếu đã là như thế, chúng tôi chỉ đành quấy rầy”. Thế rồi hỏi họ tên, Cam Phụng Trì đổi tên thành Đường Long, Lữ Tứ Nương đổi tên thành Lý Song Song, Đường Hiểu Lan đổi tên thành Phùng Nghiêu. Thượng trang chủ hỏi: “Ba vị là người ở phương nào?” Cam Phụng Trì nói: “chúng tôi chỉ như nước chảy mây bay, không dừng lại một nơi nào cả”. Thượng chủ lại hỏi: “Danh hiệu của ba vị trên giang hồ là gì?” Cam Phụng Trì lại đáp: “Không có danh hiệu không có môn phái, có hoa cắm hoa, có rượu uống rượu, trong hồ bốn biển đều là bằng hữu”. Hai người dùng ám ngữ trên giang hồ hỏi đáp nhau khiến Đường Hiểu Lan càng thêm thắc mắc. Té ra Thượng trang chủ vẫn còn nghi ngờ, trước tiên hỏi chàng có phải là Trại chủ hay đại ca của một thương đường nào đó hay không, Cam Phụng Trì nói không phải, vì thế lại hỏi có phải là đại đạo cước trên giang hồ không, Cam Phụng Trì lại bảo không phải, lại còn nói họ Niên quan gì đến hai phái hắc bạch nhưng người trên giang hồ đều là bằng hữu. Thân phận như thế thật là không đơn giản, nếu không phải cao nhân tiền bối thì là hiệp khách đã thành danh. Dù Thượng trang chủ hiếu biết rõ ràng cũng không đoán được. Ông ta thầm điểm lại các nhân vật thành danh trên giang hồ mà chẳng thấy ai trẻ tuổi như họ cả. Thượng trang chủ chỉ đành lấy lễ thượng khách tiếp đãi, bảo trang đinh dắt họ đến phòng khách yên nghỉ. Thượng trang chủ thầm nhủ, Hàn lão quái nếu đêm nay không đến chắc sẽ ngày mai. Lão ta nhất định biết lai lịch của ba người này.
Ba người vào phòng khách, Lữ Tứ Nương khẽ hỏi: “Thất ca xưa nay thâm tàn bất lộ, không biết lúc này sao lại tỏ thân phận?” Cam Phụng Trì nói: “Thượng trang chủ chắc hẳn là đầu lĩnh của một bang hội, chúng ta ngang nhiên xông vào đây, nếu không lộ một chút thân phận, y làm sao chịu tiếp đãi. Chúng ta đã không phải là người trong bang hội, chỉ đành mượn danh du hiệp giang hồ”. Thực ra, Cam Phụng Trì là một du hiệp tiếng tăm lừng lẫy nhất trên giang hồ lúc này, chẳng hề “mượn danh” tí nào. Cũng chính vì thế, Thượng trang chủ không dám đoán đây chính là Cam Phụng Trì.
Nghỉ ngơi một hồi, Cam Phụng Trì sai người đưa cơm nước đến, Lữ Tứ Nương hơi ngần ngại, Cam Phụng Trì cười nói: “Y không biết lai lịch của chúng ta, làm sao dám ám toán?” rồi cứ mặc sức ăn, nên vào thu dọn, nói: “Trang chủ thỉnh an ba vị, xin thứ không thể đến tiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Nếu Trang chủ có việc, không cần khách sáo”.
Đêm hôm ấy ba người ngủ cùng phòng, đến nửa đêm, Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, ra ngoài dò thử xem thử Trang chủ này có gì kỳ lạ?” Lữ Tứ Nương bước gần đến cửa, thấy bên ngoài cửa số có bóng người thấp thoáng, khẽ nói: “Thất ca, bên ngoài có người canh giữ”. Cam Phụng Trì nói: “Ta sẽ tìm cách dụ bọn chúng”. Rồi giơ ngón tay cái đâm vào vách tường, chàng tiện tay nhặt một phiến lá tre xuống đất cho vào trong cái lỗ ngoáy một hồi, nói: “Xong rồi”, chàng lại lấy một viên đạn trong túi ra, bắn vào cái lỗ, chỉ nghe soạt một tiếng, viên đạn bay ra ngoài. Tiếp theo là tiếng bước chân chạy rất nhẹ, Lữ Tứ Nương rất thông minh, biết rằng Cam Phụng Trì đang dùng kế dương Đông kích Tây, thế là phóng tọt ra cửa sổ! Bọn lâu la canh bên ngoài nghe thấy tiếng đạn tưởng rằng người dạ hành ném dá dò đường nên chạy về hướng có đạn rơi xuống. Khi quay lại, Lữ Tứ Nương đã vượt qua hai gian nhà, nấp sau hòn non bộ.
Hoa viên trong sơn trang rất rộng, sắp xếp trang nhã, chỉ thấy bốn bên là hòn giả sơn, ở giữa có một tòa lầu cao. Lữ Tứ Nương thầm ngạc nhiên: “Hình như mình đã đến nơi này?” nàng suy nghĩ một hồi chợt vỡ lẽ ra, té ra nơi này được bố trí theo kiểu viên lâm, mô phỏng theo kiến trúc tòa nhà của Ngư Xác ở Vạn Trượng Nham trên đảo Điền Hoành, tuy không hùng vĩ và hiểm trở như tòa nhà của Ngư Xác nhưng cũng rất khả quan. Lữ Tứ Nương nấp sau hòn giả sơn, đưa mắt nhìn xung quanh, đang định nhảy vọt ra chợt nghe tiếng bước chân vang lên, có bốn phụ nữ cầm đèn lồng đi ngang qua. Một thiếu nữ trong số đó nói: “Quận chúa thật ngang ngạnh, nàng ta trông thiên kiều bá mị thế kia, nào biết võ công lại cao cường”. Thiếu nữ khác nói: “Đúng thế, đêm qua nàng không chịu ăn cơm, Mạnh trại chủ khuyên nàng, không biết nói gì mà bị nàng tát cho một bạt tai, Mạnh trại chủ vội vàng lách đi, nàng đã vỗ gãy cái bàn”. Một người khác lại nói: “Sau đó Trang chủ vào nói một hồi nàng mới chịu ăn”. Nàng thiếu nữ thứ tư nói: “Nghe nói Mạnh trại chủ võ công chẳng khác gì Trang chủ chúng ta, đều là nhân vật đã thành danh trên giang hồ, thế mà ông ta vẫn nhịn được”. Thiếu nữ đầu tiên nói: “Nàng là Quận chúa kia mà! Làm sao ông ta không thể nhịn”. Lữ Tứ Nương thấy bốn thiếu nữ dần dần đi xa, tiếng cũng dần dần nhỏ. Nàng rất lấy làm lạ: “Ở đâu ra một Quận chúa? Chả lẽ đầu lĩnh của một bang hội mà dám bắt cóc tiểu thư của một vương gia?” lòng hiếu kỳ nổi lên, nàng lướt ra phóng theo sau lưng bốn thiếu nữ.
Đi một hồi, lại nghe một người nói: “Ngày mốt là đại điển khai bang, không biết đại vương có đến không?” Một người khác nói: “Con gái ông ta ở đây, sao không đến?” rồi nàng nói: “Tôi nghe thiếu chủ nói đại vương rất bận, chưa chắc có thể đích thân tới đây”. Thiếu nữ lúc đầu nói: “Thiếu chủ rất tốt với tỷ, thường nói chuyện với tỷ”. Nàng thiếu nữ ấy hừ một tiếng rồi lại nói nói cười, một hồi sau thiếu nữ đầu tiên nói: “Các người bảo Quận chúa xấu tính, nhưng tôi thấy nàng rất tốt, đêm hôm tôi hầu hạ nàng chải đầu, nàng giữ tôi hỏi ngắn hỏi dài tựa như tỷ muội”. Thiếu nữ lúc đầu nói: “Nghe nói đại vương không chịu cho nàng lấy chồng nên mới trốn đến đây”.
Bốn thiếu nữ vòng qua hòn non bộ, đi đến gốc cây của khu vườn, chỉ thấy một tòa lầu ba tầng, bên trên có treo mười tám ngọn đèn bát giác, tầng thứ ba cửa sổ mở rộng, ánh đèn hắt xuống, hiện rõ bóng dáng một nàng thiếu nữ trông rất quen, Lữ Tứ Nương không nhớ là ai. Nàng đang định phóng lên lầu. Đèn trên lầu vụt tắt, ở nơi góc vườn có hai người xuất hiện. Bốn thiếu nữ xuôi tay đứng yên, Lữ Tứ Nương vội vàng lẩn vào trong bụi cây, nàng đưa mắt nhìn ra, bất đồ thất kinh, hai người đó một người là Thượng trang chủ, một người là Hàn Trọng Sơn sư đệ của Thiên Diệp Tản Nhân. Chỉ nghe Thượng trang chủ nói: “Hôm nay lão huynh muốn đi sao, sao không đợi ngày mai, hôm nay có ba tên tiểu tử kéo tới, khẩu khí rất lớn, tôi muốn nhờ ông tìm hiểu lai lịch của bọn chúng!”
Lữ Tứ Nương càng thất kinh, thầm nhủ Hàn Trọng Sơn võ công cao cường, ám khí lợi hại. Nếu một mình y thì đỡ, chỉ lo bọn Liễu Ân cũng tới đây. Nàng đang suy nghĩ chỉ nghe Hàn Trọng Sơn nói: “Bằng hữu của tôi đang chờ, ngày mốt tôi chắc chắn đến đây. Lát nữa tôi sẽ đến xem ba tên tiểu tử kia, nếu chúng đúng là nhân vật đã thành danh, lẽ nào tôi không biết”. Thượng trang chủ nói: “Hay lắm, tôi lên thăm Quận chúa trước, mấy ngày nay nàng ta rất ngang ngạnh!” Hàn Trọng Sơn hừ một tiếng, nói: “Nha đầu đê tiện!” rồi cùng Thượng trang chủ lên lầu, Lữ Tứ Nương vội vàng chạy ra, thi triển khinh công tuyệt đỉnh trở về phòng.
Hai người Cam, Đường đang nóng lòng chờ đời, Lữ Tứ Nương phóng tọt vào cửa sổ, Cam Phụng Trì nói: “Muội có nghe ngóng được gì không?” Lữ Tứ Nương nói: “Lát nữa lão quái vật Hàn Trọng Sơn sẽ đến thăm chúng ta, chúng ta cứ giả vờ ngủ”. Căn phòng khách rất lớn, ba cái giường xếp kề nhau, Cam Phụng Trì ngủ ở giữa, một hồi sau chợt nghe tiếng gõ cửa, Cam Phụng Trì cố ý để cho bọn chúng đợi một hồi mới giả vờ ngái ngủ bước ra mở cửa, Hàn Trọng Sơn và Thượng trang chủ đứng ở cửa, Thượng trang chủ nói: “Lúc nãy có người dạ hành vào trang, ba vị có kinh hãi không?” Cam Phụng Trì kêu: “Hổ thẹn”. Nói: “Chúng tôi ngủ say quá, chẳng biết trời trăng gì cả”. Thượng trang chủ nói: “Tôi chỉ sợ kinh động đến quý khách, thật là ái ngại”. Rồi kéo Hàn Trọng Sơn giới thiệu cho ba người, Hàn Trọng Sơn nhìn một hồi, tuy Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan đã từng gặp y một lần nhưng giờ đã thay đổi dung mạo, Lữ Tứ Nương lại mặc nam trang. Trong ánh đèn nhập nhoạng, Hàn Trọng Sơn chẳng nhìn ra được gì cả.
Hàn huyên mấy câu, Hàn Trọng Sơn nói: “Đã quấy rầy” rồi cáo từ, Thượng trang chủ bước ra theo, Hàn Trọng Sơn nói: “Hình như ba tên tiểu tử này chẳng phải là nhân vật thành danh gì cả, nhưng xem ra võ công cũng rất khá, có lẽ là đệ tử danh gia, chắc là đến đây muốn gây rối”. Thượng trang chủ chợt nói: “Có phải là môn hạ của Thiên Sơn kiếm khách không?” Hàn Trọng Sơn nói: “Thiên Sơn kiếm chẳng còn truyền nhân, ông cứ ôm hận mãi làm gì?” rồi lại nói: “Trang chủ, xin thứ tôi lỡ lời, thực ra với võ công của ông, lại có Vệ đảo chưởng và Mạnh trại chủ ở đây chả lẽ sợ ba tên tiểu tử này gây rối?” Thượng trang chủ thấy y nôn nóng nên không nói gì nữa. Hàn Trọng Sơn cung tay, lướt ra khỏi trang nhanh như làn khói.
Ngày thứ hai, ngày thứ ba, đầu lĩnh của các bang hội lần lượt kéo tới, Thượng trang chủ bận rộn tối mày tối mặt, nhưng vẫn âm thầm sai người canh giữ bọn Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì rất già dặn kinh nghiệm giang hồ, lời ăn tiếng nói rất cẩn thận. Đến trưa ngày thứ tư, Thượng trang chủ nên đích thân đến mời, cả ba người cùng y bước ra vườn, trong vườn đã bày sẵn mấy bàn tiệc rượu. Lữ Tứ Nương chợt nhớ đến bữa tiệc của Ngư Xác đại vương, xem ra rất giống với hôm nay. Thượng trang chủ mời họ ngồi vào ghế, Lữ Tứ Nương thấy có hai người quen mặt, một người là Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai, một người là Thái Hồ trại chủ Mạnh Võ Công không khỏi thầm kêu lạ trong lòng.