Lữ Tứ Nương và Bành Vân Ấn nhảy bổ vào nhau nhanh như điện chớp, thế đánh cực kỳ hung mãnh, thế mà bị người ta tách ra đều không khỏi kinh ngạc. Lữ Tứ Nương vọt ngang ba bước, thu kiếm lại nhìn thì thấy có một hòa thượng gầy ốm mình mặc tăng bào màu trắng, chân mang giày cỏ, cổ tay đeo một vòng tràng hạc, hai mắt không nộ mà oai, dáng bộ trông vững vàng.
Dịch Lan Châu đánh lùi bọn Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân, chợt thấy có một hòa thượng từ trên cao vọt xuống, một tay kéo Lữ Tứ Nương ra ngoài, bất đồ cả kinh, giơ ngang kiếm định nhảy tới, chợt nghe hòa thượng quát: “Vương Tôn Nhất, ngươi còn chưa ngoan ngoãn theo ta về núi?” Dịch Lan Châu nghe thế chưng hửng, chỉ nghe Vương Tôn Nhất lớn giọng nói: “Sư thúc từ xa tới đây, tiểu điệt không kịp nghênh đón, mong sư thúc ở đây nghỉ ngơi mấy ngày, tiểu điệt đang có việc, tạm thời không thể trở về núi được!” hòa thượng ấy chỉ tay gằng giọng mắng: “Trước mặt ta mà ngươi còn giả vờ giả vịt? Ngươi làm đầy chuyện ác, không theo ta về núi, chả lẽ buộc ta phải xuống tay?” Dịch Lan Châu thấy rất kỳ lạ, bước tới mấy bước, hòa thượng ấy chắp tay làm một lễ, khiêm nhường nói: “Dịch nữ hiệp xin thứ cho tội vô lễ, tiểu tăng là giám tự của Thiếu Lâm Tung Sơn, Thiếu Lâm bất hạnh có đồ đệ hạ tiện, không những đã phiền lụy đến sư môn mà khiến Dịch nữ hiệp mất công ra tay, chùa Thiếu Lâm chúng tôi rất ái ngại! Hôm nay tôi đến đây áp giải hắn về núi, trừng trị theo quy củ, nếu Dịch nữ hiệp và các vị bằng hữu chịu nể mặt, xin mời đến chùa Thiếu Lâm Tung Sơn nghỉ ngơi vài ngày, Thiếu Lâm chúng tôi quyết không bao che cho đồ đệ, nữ hiệp có thể làm chứng!”
Dịch Lan Châu vốn nghi ngờ Vương Tôn Nhất là con em hoàng tộc, Ngư Xác thế thì không khỏi bất ngờ. Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, môn đồ có khắp trong cả nước, thanh thế rất lớn, các phái khác không sao bì kịp. Trụ trì trước đây của chùa Thiếu Lâm, Bản Không đại sư là cao tăng hữu đạo được bốn phương kính ngưỡng, nếu Vương Tôn Nhất là người trong hoàng tộc, chắc chắn y không thể là môn hạ của Thiếu Lâm. Thế rồi bà mới cung tay nói: “Dám hỏi đại sư và Bản Không trụ trì xưng hô thế nào?” hòa thượng ấy đáp: “Bản Không đại sư là sư huynh của bần tăng, năm ngoái người đã không may viên tịch. Tên phản đồ này chính là đệ tử tục gia của người. Trụ trì hiện nay là Tam sư đệ Vô Trú thiền sư”. Dịch Lan Châu nói: “Vậy đại sư chính là Bản Vô?” hòa thượng ấy đáp: “Tôi và Lăng đại hiệp có duyên gặp mặt một mình, tôi đã sớm muốn lên Thiên Sơn gặp gỡ nữ hiệp, chỉ vì đường sá xa xôi, trong chùa có nhiều việc của cần phải giải quyết bởi vậy mới không đi được. Lần này mạo phạm nữ hiệp, thật là hổ thẹn!”
Dịch Lan Châu cũng thầm kêu “hổ thẹn” bởi vì thể nhớ nổi ông ta là ai. Bản Vô thiền sư tinh thông Thiếu Lâm thần quyền, công lực chẳng kém Bản Không. Luận về vai vế, ông ta bằng vai phải lứa với Dịch Lan Châu.
Bọn Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà tung mình thối lui ra sau, bảo vệ cho Vương Tôn Nhất. Bản Vô đại sư chắp tay chào Thiên Diệp Tản Nhân, lên tiếng rằng: “Thiên Diệp đạo huynh, bần tăng đã nghe đại danh từ lâu. Không biết tại sao đạo huynh lại bao che cho phản đồ?” Liễu Ân quát: “Bản Vô đại sư, sao ông không ở Tung Sơn tu hành mà lo chuyện bao đồng thế?” Bản Vô đại sư quét cây phất trần, lớn giọng nói: “Vị này chắc là Liễu Ân đại sư đứng đầu Giang Nam bát hiệp, nghe nói gần đây đại sư xung phong đắc ý, được Tứ bối lạc mời mọc, lại được phong làm Bảo quốc thiền sư. Bần tăng chỉ là kẻ tiểu dân ở chốn sơn dã, không dám qua lại với người cao sang, bần tăng tuy có một chút giao tình với Độc tý thần ni nhưng môn hộ khác nhau, bần tăng chính vì không thèm lo chuyện bao đồng nên tuy là cố hữu của thần ni, nhưng cũng không muốn xen vào chuyện trong môn phái của bà ta, tôi nghĩ chắc sẽ có người ra mặt. Không biết tại sao đại sư lại trách tôi là lắm chuyện?” Bản Vô đại sư chỉ biết Liễu Ân nhận lời mời của Tứ bối lạc chứ không biết Thiên Diệp Tản Nhân cũng cùng một giuộc. Những câu nói vừa rồi là ngầm mỉa mai, rõ ràng biết Liễu Ân vẫn là đại đệ tử của Độc tý thần ni thế mà không nhắc đến, bởi vậy còn lợi hại hơn là mắng thẳng vào mặt Liễu Ân!
Không những Liễu Ân thẹn quá hóa giận, Thiên Diệp Tản Nhân cũng đỏ mặt. Liễu Ân vung cây thiền trượng, nạt lớn: “Lão lừa trọc Bản Vô kia, ta kính lão là bậc trưởng bối nên mới tốt bụng khuyên lão, lão tưởng ta sợ lão đấy hử?” Bản Vô cười lạnh nói: “Bần tăng tuổi già sức yếu, làm sao dám ngang ngược bá đạo như bọn tiểu bối hậu sinh? Tôi đã nghe lời quốc sư không dám nhiều chuyện nữa, nhưng Vương Tôn Nhất là sư điệt của tôi, tôi phải quản giáo y! Tôi cũng khuyên quốc sư không nên xen vào chuyện của phái Thiếu Lâm chúng tôi! Nếu quốc sư nhất định phải làm thế, xin mời quốc sư hẹn anh hùng thiên hạ đến núi Tung Sơn ban dạy!” Liễu Ân gầm một tiếng, đánh cây thiền trượng to như miệng bát ra, Bản Vô đại sư quét cây phất trần, cuộn cây thiền trượng, với một người có thần lực như Liễu Ân mà vẫn bị ông ta chặn lại! Đang bị biến chiêu chợt nghe Vương Tôn Nhất vẫn lạnh lùng nói: “Sư thúc cứ nhắc mãi đến môn quy, không biết điều thứ mười ba trong môn quy Thiếu Lâm là gì?” Bản Vô đại sư chưng hửng, té ra là điều thứ mười ba là nếu môn hạ Thiếu Lâm bị hiểu lầm phạm vào thanh quy đại giới thì được phép biện bạch. Nếu không phục đối với những lời phán xét của giám tự thì có thể mời nhân chứng đến Tung Sơn lý luận. Thời hạn nhiều nhất là một tháng. Chùa Thiếu Lâm đưa ra điều này là sợ có người bị oan khuất, dám tự phán xét sai lầm.
Vương Tôn Nhất vừa nói ra câu ấy, Bản Vô thiền sư buông lỏng tay phải, thu phất trần trở về, trừng mắt nói: “Ta tận mắt thấy đồng đảng của ngươi bắt cóc thiếu nữ dâng lên cho ngươi, ngươi là chủ mưu, chả lẽ ta vu oan cho ngươi?” Vương Tôn Nhất vẫn bình thản mỉm cười!
Bản Vô đại sư thấy y chẳng nói chẳng rằng, mặt biến sắc: “Nếu ngươi muốn biện bạch, ta cho ngươi một tháng để ngươi mới nhân chứng lên Tung Sơn! Ngươi đừng hòng dựa dẫm vào người khác chạy tội!” Vương Tôn Nhất kiêu ngạo nói: “Tại sao tiểu điệt phải chạy? Một tháng sau tiểu điệt sẽ đến Tung Sơn!” Bản Vô đại sư thấy y ung dung như thế, chẳng hề có ý khiếp sợ, trong lòng thấy kỳ lạ! Thầm nhủ nếu chẳng phải ông ta chính mắt thấy, chắc chắn chẳng dám tin y là kẻ chủ mưu vụ án thái hoa này. Bề ngoài y vừa nho nhã vừa uy võ, mặt mày đàng tử tế, ai ngờ y lại làm ra chuyện hạ tiện như thế này.
Thế rồi Bản Vô đại sư lại nói với Dịch Lan Châu: “Đến lúc đó xin mời Dịch nữ hiệp và các vị bằng hữu lên Tung Sơn làm chứng”. Dịch Lan Châu cười nói: “Hai người này là sư đệ và sư muội của Liễu Ân, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương”. Bản Vô đại sư nói: “Vậy thì càng tốt! Chúng ta đi!” lúc này bên ngoài người đông nghìn nghịt, Tuần phủ Sơn Đông Điền Văn Kính đích thân dẫn quân lính bao vây tòa lầu, Vương Tôn Nhất phẫy tay, Cáp Bố Đà chạy ra ngoài một hồi, Vương Tôn Nhất nói: “Sư thúc, xin thứ cho tiểu điệt không thể đưa tiễn!” Bản Vô nhìn ra ngoài, chỉ thấy bọn lính đã rút đi chẳng còn một mống, cười lạnh nói: “Té ra ngươi còn cấu kết với bọn Thát Đát, là quý khách của khâm sai đại nhân!” Vương Tôn Nhất kiêu hãnh nói: “Mong sư thúc cứ ghi nợ cho tiểu điệt, muốn giết muốn mổ đến lúc đó xin mời chủ trì và tiền bối võ lâm phán tội!” Bản Vô đại sư tức đến nghẹn họng, chạy ra bên ngoài. Dịch Lan Châu ngại Vương Tôn Nhất là của phái Thiếu Lâm, vả lại Bản Vô đã ra mặt, đương nhiên bà cũng đành buông tay.
Năm người quay trở lại Huyền Diệu quán, Bản Vô đại sư lại xin lỗi Dịch Lan Châu. Hai ngày sau Bản Vô đại sư quay trở về Tung Sơn, Bạch Thái Quan mời Lữ Tứ Nương đi thăm Cam Phụng Trì, định rằng lên Mang Sơn tảo mộ sư phụ trước rồi mới đến Tung Sơn.
Dịch Lan Châu tính toán lộ trình, Sơn Đông và Tế Nam nằm kề nhau, từ Thanh Đảo đến Tung Sơn, với cước trình của bà và Đường Hiểu Lan trễ nhất nửa tháng sẽ tới. Nên Dịch Lan Châu bảo Đường Hiểu Lan lưu lại trong Huyền Diệu quán, trước tiên truyền thuật thổ nạp nội công cho chàng, Đường Hiểu Lan theo Dương Trọng Anh năm năm, học được nội công chính tông, đã có căn cơ, lại được Dịch Lan Châu chỉ điểm yếu quyết, bởi vậy mới càng học dễ dàng hơn.
Sau nửa tháng, hai người Đường, Dịch từ Thanh Đảo xuống miền Nam, đi ngang qua Lâm Tri rồi lại đến Tây Triết, từ Khúc Phụ xuống Tế Ninh, vào huyện Thương Khâu của tỉnh Hà Nam, đi được mấy ngày đã đến Tung Sơn. Chỉ thấy chùa Thiếu Lâm nguy nga to lớn, quả nhiên không hổ là thánh địa võ học trong võ lâm. Vào cửa chùa đã có người đợi sẵn dắt vào tri khách đường, đi ngang qua Đại Hùng bảo điện tiến vào La Hán đường, Bản Vô đại sư đích thân nghênh đón. Thế rồi Bản Vô dắt Dịch Lan Châu đến gặp trụ trì mới của chùa Thiếu Lâm là Vô Trú thiền sư, Vô Trú thiền sư sắc mặt hiền từ, vừa nhìn đã biết là cao tăng hữu đạo. Vô Trú tuy là sư đệ của Bản Vô nhưng cũng dày công nghiên cứu Phật kinh, võ công tuy không bằng sư huynh nhưng đạo đức tu hành có thể nói thuộc hàng đệ nhất trong chùa nên mới trở thành trụ trì. Nhưng sở trường của Vô Trú thiền sư cũng là sở đoản của ông ta, ông ta cố gắng thanh tu, không hỏi việc đời, tuy không cho phép môn đồ qua lại với quan phủ, nhưng cũng không khích lệ họ đối chọi với quan phủ. Ông ta chỉ cần tiêu giao hóa ngoại, hoàng dương Phật pháp, cho rằng cầu chính quả mới là pháp môn duy nhất.
Lại nói sau khi Đường Hiểu Lan vào chùa Thiếu Lâm, đã có tri khách tăng dắt chàng vào thiền phòng nghỉ ngơi. Căn thiền phòng này nằm bên cạnh La Hán đường, trong đường có ngọn đèn lưu ly lớn, treo trên đỉnh, tim đèn to như miệng bát, phát ra ánh sáng rực rỡ, trên bàn thờ còn có cây đèn cầy to như cánh tay, tim đèn ló lên cao đến hơn nửa thước, Đường Hiểu Lan ngồi trên giường không biết bao lâu, chỉ cảm thấy xung quanh yên ắng. Đường Hiểu Lan thầm nhủ, chùa Thiếu Lâm quả nhiên danh đồn không ngoa, nghe Bạch Thái Quan nói, trong chùa có ba mươi sáu tòa điện, hơn năm trăm nhà sư, nhưng màn đêm buông xuống lại thanh tịnh như thế này, đúng là một ngôi chùa giới luật nghiêm ngặt. Chàng đang suy nghĩ, chợt nghe bên ngoài có âm thanh rất nhỏ, Đường Hiểu Lan khẽ khàng bước xuống giường, đưa mắt nhìn ra khe cửa, chỉ thấy ở đại đường có một đứa trẻ khoảng mười ba mười bốn tuổi đi chân không, tóc buộc bằng vòng vàng, trên hai cánh tay trắng buốt cũng buộc hai vòng vàng, huơ chân múa tay trong tòa đại đường, lúc thì miệng lẩm nhẩm, lúc thì ngửa mặt cười lớn trông rất kỳ quái! Đường Hiểu Lan rất ngạc nhiên, không hiểu sao trong một ngôi chùa trang nghiêm thế này mà xuất hiện một đứa trẻ, mà La Hán đường chỉ quan trọng kém Đại Hùng bảo điện, tại sao các nhà sư trong chùa lại để cho một đứa trẻ nghịch ngợm vào đây?
Một hồi sau vẫn không thấy ai bước ra, Đường Hiểu Lan nhất thời hiếu kỳ, chàng mở then cửa định bước ra ngoài, chợt thấy trước mắt hoa lên, trên mái La Hán đường chợt có một người hạ xuống, đứa trẻ mỉm cười với người ấy, người ấy đưa tay ra, đưa trẻ móc ra một cái bọc ném về phía y, người ấy vươn tay chụp lấy, y quay đầu lại, Đường Hiểu Lan mới nhìn ra đó là Thiên Diệp Tản Nhân. Đường Hiểu Lan đang kéo then cửa vội vàng cài lại. Thiên Diệp Tản Nhân hú lên một tiếng quái dị, đứa trẻ chợt quát: “Có người đến!” Thiên Diệp Tản Nhân vỗ ra một chưởng, cánh cửa thiền phòng tựa như trúng một nhát chùy sắt, đột nhiên bật ra, Đường Hiểu Lan ngã phịch xuống đất!
Đường Hiểu Lan bật người vọt dậy, chỉ thấy xung quanh La Hán đường đã xuất hiện bốn tăng nhân đứng sừng sững, Đường Hiểu Lan nhận ra một người trong số họ chính là Ngộ Hư thiền sư, tri khách tăng đã dắt chàng vào chùa. Ngộ Hư thiền sư lên tiếng hỏi: “Này, ngươi ở đâu tới? La Hán đường trong chùa Thiếu Lâm há để cho ngươi làm càn?” Thiên Diệp Tản Nhân cười ha hả: “Mời trụ trì Vô Trú thiền sư ra đây nói chuyện!” bốn hòa thượng đồng thời nạt lớn: “Trụ trì của bọn ta đâu dễ gặp hạng vô danh như ngươi”. Thiên Diệp Tản Nhân cười rộ lên, lớn giọng nói: “Cả ta mà các ngươi cũng chẳng biết, đúng là mất mặt Thiếu Lâm!” rồi ưỡn ngực ngạo mạn nói: “Các ngươi không kêu trụ trì ra, chả lẽ ta không biết đi tìm y?” bốn nhà sư liền xông tới, bao vây Thiên Diệp Tản Nhân vào ở giữa. Thiên Diệp Tản Nhân lại cười lạnh, ra tay như điện chớp, chỉ thấy hai tay y vung lên, hai nhà sư té soài ra ngoài, hai người kia cũng loạng choạng thối lui mấy bước. Chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân lợi hại lạ thường, may mà bốn nhà sư đều là cao thủ trong lớp đệ tử thứ hai của chùa Thiếu Lâm, chứ nếu không đã chẳng chống nổi. Thiên Diệp Tản Nhân đắc ý dương dương, đang định xông về phía trước, chợt ở phía Đông đại đường có một bóng người lướt tới, Thiên Diệp Tản Nhân định quay trở lại, vai đã bị người ấy vỗ xuống một cái, người ấy trầm giọng nói bên tai: “A di đà Phật!” Thiên Diệp Tản Nhân hoảng hồn nhảy thối lui ba bước.
Thiên Diệp Tản Nhân tay trái hộ trước ngực, mũi chân xoay một cái, quay đầu lại thì thấy có một nhà sư mặt mũi hiền từ, nhà sư chắp tay nói: “A di đà Phật, Thiên Diệp Tản Nhân từ muôn dặm đến đây, không biết có gì chỉ giáo?” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Xin hỏi pháp hiệu của đại sư?” nhà sư đáp rằng: “Lão nạp chính là người Tản nhân muốn tìm!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Vô Trú thiền sư quả nhiên danh đồn không ngoa, đúng là một cao tăng khiêm nhường hữu đạo. Có điều bốn vị tăng nhân vừa rồi thật là vô lễ!” Vô Trú thiền sư cười rằng: “Bọn chúng làm sao biết Tản nhân đến đây, chúng chỉ tưởng là cuồng đồ trên giang hồ! Nếu lão nạp không nhận ra Linh sơn chưởng pháp của Tản nhân, cũng tưởng Tản nhân là hạng đầu trộm đuôi cướp. Mong Tản nhân bớt giận, bần tăng xin chịu tội!” những câu nói vừa rồi có cả cứng lẫn mềm, bề ngoài là xin lỗi nhưng thực sự trách Thiên Diệp Tản Nhân coi thường quy củ của chùa Thiếu Lâm xông vào chốn thiền viện. Phái Linh Sơn của Thiên Diệp Tản Nhân và phái Thiếu Lâm tuy cách xa muôn dặm, chẳng liên quan với nhau nhưng Linh Sơn thượng nhân, sư phụ của Thiên Diệp Tản Nhân đã từng đến nghe sư phụ của Vô Trú giảng kinh vào năm mươi năm trước ở chùa Thiếu Lâm, từng bái lễ “bán sư”, nên nếu luận về vai vế, Thiên Diệp Tản Nhân thấp hơn Vô Trú thiền sư nửa bậc. Bởi vậy Thiên Diệp Tản Nhân xong vào chùa Thiếu Lâm là điều không đúng, thế mà Vô Trú thiền sư vẫn nhún nhường, Thiên Diệp Tản Nhân đành phải thu lại vẻ cuồng ngạo của mình, thế rồi cung tay nói: “Lệnh sư điệt Vương Tôn Nhất đạo đức hay võ công đều lừng lẫy giang hồ. Quý giám tự Bản Vô đại sư không biết điều đó nên gán tội danh cho y, ta nửa đời nhàn rỗi nhưng cũng thấy không vừa mắt. Ngày mai lệnh sư điệt đến Tung Sơn xin tội, ta và vài vị tiền bối võ lâm cũng muốn đến chùa Thiếu Lâm xem thử trái phải!” té ra theo quy củ võ lâm, một phái thanh lý môn hộ, người khác không được can thiệp vào. Nhưng nếu người bị gán tội không phục, thì có thể mời tôn sư của phái khác lên tiếng hộ. Có điều những chuyện như thế này trăm năm khó gặp một lần.
Vô Trú thiền sư kêu ồ một tiếng, vẫn bình tĩnh nói: “Hơn một ngàn năm qua chùa Thiếu Lâm chúng tôi đều giữ giới luật, tuyệt không bao che cho môn đồ, cũng không xử oan cho môn đồ. Nếu Thiên Diệp Tản Nhân và các bậc tiền bối trong võ lâm chịu đến đây, bần tăng thật vinh hạnh!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Đắc tội!” rồi xoay lưng định bỏ đi, chợt ở cửa họng xuất hiện một người, người ấy chắp tay nói: “Thiên Diệp Tản Nhân từ xa đến đây, xin thứ chúng tôi không thể tiễn!” Thiên Diệp Tản Nhân chợt thấy kình phòng quét tới, thế là chắp tay trả lại một vái nhưng chẳng chịu nổi luồng kình phong ấy, bất đồ thối lui ra cửa đường! Thiên Diệp Tản Nhân xưa nay lấy làm kiêu hãnh vì chưởng lực của mình, không ngờ chẳng địch nổi người này, khi định thần nhìn lại, té ra đó là Bản Vô đại sư, y vội vàng lên tiếng: “Đã nhường!” thế rồi chẳng nói chẳng rằng phóng thẳng xuống núi.
Đứa trẻ ban nãy từ đầu đến cuối vẫn lắng nghe Thiên Diệp Tản Nhân và Vô Trú thiền sư đối đáp. Vô Trú thiền sư đuổi Thiên Diệp Tản Nhân, bước tới vuốt tóc nó, âu yếm hỏi: “Con có bị thương không?” Đứa trẻ trả lời: “Không có!” Bản Vô đại sư nói: “Thế thì không sao! Con hãy quay về nghỉ ngơi, hôm nay không cần luyện công, sư phụ đang đợi con đấy”. Đứa trẻ vâng một tiếng, quay vào hậu đường. Đường Hiểu Lan vốn muốn hỏi lai lịch của đứa trẻ, nhưng chàng mới tới, vai vế lại thấp, bởi vậy không tiện hỏi, chỉ đành giữ trong lòng rồi đi ngủ. Chàng nghe văng vẳng bên ngoài có tiếng của Bản Vô thiền sư, ông ta tựa như đang cãi cọ với Vô Trú thiền sư.
Sau khi Thiên Diệp Tản Nhân rút lui, Vô Trú thiền sư và Bản Vô thiền sư cùng vào Sơ tổ am. Sơ tổ am là nơi kỷ niệm Đạt Ma thiền sư. Truyền thuyết kể rằng Đạt Ma thiền sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa vào thời Lương Võ đế, đạp trên một cành trúc mà qua sông, đến đỉnh Thiếu Thất diện bích mười năm, khai lập Thiền Tông nên gọi là Sơ tổ. Khi chùa Thiếu Lâm cử hành đại sự, những người đứng đầu trong chùa vào Sơ tổ am bàn bạc. Vô Trú thiền sư ngồi xuống mỉm cười nói: “Đến nay sư huynh vẫn còn nóng tánh, sao đêm nay cớ gì phải làm khó người ta?” Bản Vô đại sư cười nói: “Ta không muốn thành Phật, đâu học được công phu nín nhịn như sư đệ. Thiên Diệp Tản Nhân biết rõ bổn tự là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm mà vẫn xông vào, không cho y biết lợi hại, y tưởng rằng chùa Thiếu Lâm chúng ta dễ bức hiếp”. Vô Trú thiền sư nói: “Y muốn ra mặt cho Vương Tôn Nhất theo quy củ võ lâm, ngày mai mới đến kỳ hạn, y đến sớm một đêm thông báo cũng không mất lễ nghĩa lắm, bởi vậy không nên trách y!” Bản Vô đại sư nói: “Khi ta bắt Vương Tôn Nhất ở Thanh Đảo, đã biết có nhiều cao thủ võ lâm giúp đỡ cho y, không ngờ Thiên Diệp Tản Nhân cũng trong số đó. Nếu Vương Tôn Nhất đã phóng túng như thế, ngày mai chúng ta phế đi là xong!”
Vô Trú thiền sư cuối đầu suy nghĩ một lúc lâu mới khẽ nói: “Sư huynh, việc này không bình thường!” Bản Vô thiền sư nói: “Không ngờ đồ đệ mà đại sư huynh chúng ta thương yêu nhất lại ra nông nỗi như thế!” sư huynh của Bản Vô là Bản Không vốn là trụ trì tiền nhiệm của chùa Thiếu Lâm, uy vọng trên võ lâm hơn hai vị sư đệ của mình rất nhiều nên người trên giang hồ nhắc đến Thiếu Lâm, chín phần chỉ biết Bản Không chứ không biết Vô Trú. Năm xưa chính Liễu Ân đã giới thiệu Vương Tôn Nhất, lúc đó Bản Vô đã nghi ngờ lai lịch của Vương Tôn Nhất, khuyên sư huynh không nên nhận y. nhưng Bản Không thấy Vương Tôn Nhất tướng mạo phi phàm, thông minh khác thường, chẳng những không nghe lời sư đệ mà còn truyền hết bản lĩnh cho y.
Vô Trú nói: “Đệ bảo chuyện này không bình thường, không phải chỉ vì Vương Tôn Nhất là ái đồ của sư huynh chúng ta, mà bởi vì tại sao nhiều cao thủ võ lâm chống lưng cho y?” Bản Vô thiền sư im lặng không nói, Vô Trú lại lên tiếng: “Dù Vương Tôn Nhất võ công cao cường nhưng y xuất sư được bao nhiêu năm có tài đức gì mà khiến tôn sư của một phái như Thiên Diệp Tản Nhân mà cũng phải khâm phục sát đất. Lại còn có tên hung tăng Liễu Ân, kẻ đứng đầu Giang Nam bát hiệp, xưa nay chẳng coi ai ra gì mà chịu làm bảo tiêu cho y?” Bản Vô thiền sư trầm ngâm một lúc, chợt kéo dài giọng nói: “Chả lẽ y...” Vô Trú thiền sư mặt trắng bệt, cắt lời: “Chúng ta đừng tùy tiện suy đoán, để rồi xem! Có điều đệ có một lời khuyên, sư huynh tính tình nóng nảy, nói không chừng ngày mai có liên quan đến kiếp số của Thiếu Lâm, sư huynh phải ráng nín nhịn”. Bản Vô thiền sư nổi cáu nói: “Sư đệ, đệ là trụ trì của bổn tự, đệ nói gì huynh sẽ nghe nấy”. Vô Trú thiền sư mỉm cười đứng dậy, nói: “Huynh đệ chúng ta sao lại còn nói đến lời đó? Sư huynh, huynh đừng đa tâm!” rồi hai sư huynh đệ dắt nhau ra khỏi am đường, nhìn ba mươi sáu tòa điện tắm mình trong ánh trăng, Vô Trú thiền sư chợt thở dài nói: “Cầu xin Phật tổ từ bi phù hộ, cơ nghiệp này không thể hủy trong tay của đệ!”
Sáng sớm hôm sau, Đại Hùng bảo điện trong chùa Thiếu Lâm khói hương nghi ngút, tượng Đạt Ma sư tổ đặt ở giữa, đợi cử hành một nghi thức không bình thường.
Đường Hiểu Lan với thân phận là người làm chứng cũng được mời đến, có điều chàng là kẻ vẫn bối, không được những cao tăng tiếp đãi như Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan, chỗ ngồi cũng khác hẳn. Người tiếp đãi chàng chính là tri khách tăng Ngộ Hư, Đường Hiểu Lan đã thức dậy từ sớm, Ngộ Hư mời chàng đi tắm rửa chờ đợi, xong xuôi Ngộ Hư dắt chàng ra khỏi thiền phòng, chỉ thấy hai hàng tăng nhân đứng thẳng tắp, ai nấy mặc tăng y mới tinh, rồi họ bước vào Đại Hùng bảo điện, năm trăm tăng nhân đã đứng vào vị trí, Đại Hùng bảo điện trang nghiêm lạ thường, hầu như có thể nghe cả tiếng thở. Hai hàng tăng nhân tư lễ tay gõ văn bản, âm thanh du dương vọng xuống. Đường Hiểu Lan ngồi ở ghế khách thứ mười ba mé Tây, khoảng nguội một chén trà, chợt chuông trống vang rền, ở nơi nguyệt môn khói hương bốc lên nghi ngút, trong làn khói có ba người bước vào, đó chính là chủ trì Vô Trú thiền sư, giám tự Bản Vô thiền sư và quý khách của chùa Thiếu Lâm Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương đi theo sau, Vô Trú thiền sư đến trước tượng Lạt ma sư tổ, ngồi xếp bằng trên tấm nệm màu vàng, Bản Vô thiền sư ngồi trên chiếc bồ đoàn bên phải, ba người Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan, Lữ Tứ Nương ngồi ở ghế bên phải. Các cao tăng của Lạt ma đường, La Hán đường, Chưởng kinh đường đều mặc cà sa, cung kính chắp tay thi lễ với Vô Trú thiền sư. Vô Trú thiền sư mặt nghiêm nghị, sau khi hành lễ trước tượng Lạt ma sư tổ, cất giọng nói: “Chùa Thiếu Lâm Tung Sơn đã có hơn một ngàn ba trăm năm, giới luật nghiêm ngặt nổi tiếng thiên hạ. Lão nạp vô đức, mới tiếp nhiệm Chưởng môn, không may có môn nhân của bổn tự là Vương Tôn Nhất vi phạm thanh quy, đi ngược đại giới, có hành vi thái hoa ở Thanh Đảo, bị Bản Vô đại sư phát hiện, lẽ ra lập tức bắt về núi trừng trị nhưng Vương Tôn Nhất không phục, yêu cầu phải đối chất với giám tự, đồng thời mời trưởng lão của phái khác cùng lý luận. Việc này liên quan đến vinh nhục của Thiếu Lâm, lát nữa sẽ tra rõ ngọn ngành. Các tăng nhân trong chùa phải lấy đây làm điều tự răn”. Rất nhiều nhà sư chưa biết chuyện này, bởi vậy trong nhất thời xì xồ bàn tán, chùa Thiếu Lâm có thái hoa tặc quả là chuyện chưa bao giờ có.
Bản Vô đại sư nói: “Chưởng môn Phương trượng, nếu sau khi tra rõ ngọn ngành, Vương Tôn Nhất quả nhiên có tội, nhưng trưởng lão của phái khác ra mặt bao che thì thế nào?” Vô Trú thiền sư nói: “Nếu có việc này chúng ta chỉ đành khuyên họ rồi trừng trị phản đồ”. Bản Vô đại sư nói: “Nếu họ không chịu thì thế nào?” Vô Trú thiền sư nổi cáu nói: “Không thể vô lý như thế!” Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường nói: “Hành vi thái hoa tội không thể tha, nếu có kẻ bên ngoài cậy mạnh bao che, toàn bộ tăng nhân trong chùa đều có trách nhiệm hộ phách!” chủ trì Chưởng kinh đường là người chấp chưởng truyền kinh giới luật của các đời, Bản Vô đại sư chính là muốn ép ông ta nói ra điều này. Vô Trú thiền sư nhíu mày, sắc mặt nặng nề.
Vừa đến giờ ngọ, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Sao Vương Tôn Nhất vẫn chưa xuất hiện, chả lẽ y không dám tới?” chợt bên ngoài có tiếng khánh vang lên, ở nơi cửa chùa, Vương Tôn Nhất cùng một đám người nghênh ngang bước vào Đại Hùng bảo điện. Những kẻ ấy chính là Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão, ngoài ra còn có hai người, Đường Hiểu Lan không nhận ra, khẽ hỏi Ngộ Tính thì mới biết một người chính là cự khấu nổi tiếng miền Tây bắc tên gọi Cam Thiên Long, còn một người là trưởng lão của phái Hình Ý tên gọi Đổng Cự Xuyên, cũng là một nhân vật có tiếng tăm trên giang hồ.
Vương Tôn Nhất vừa bước vào đại điện, đã hành lễ với Vô Trú thiền sư, Vô Trú thiền sư nói: “Ngươi muốn ngồi ở chỗ đợi tội hay ở ghế thân biện, tùy ngươi chọn lựa!” số là theo quy củ võ lâm, khi xảy ra chuyện không tầm thường, môn đồ bị hạch tội nếu ngồi trên ghế đợi tội sẽ cho thấy mình từ đầu đến cuối vẫn theo bổn phái, chấp nhận tội danh, cầu mong đồng môn tha thứ. Nếu ngồi ở ghế thân biện, có nghĩa là tự mình tách rời khỏi môn phái, biện luận bằng vai phải lứa với Chưởng môn của bổn phái. Nếu làm thế dù kết quả thế nào cũng đã thoát ly khỏi môn phái. Vương Tôn Nhất ngẩng đầu lên nhìn, ghế thân biện và ghế của khách khứa đặt sát nhau, y không chần chừ mà bước thẳng tới ngồi xuống ghế thân biện. Bọn Liễu Ân, Thiên Diệp Tản Nhân cũng tuần tự ngồi xuống ở các ghế bên trái.
Mọi người ngồi xong, Vô Trú thiền sư nói lại một lượt giới luật của Thiếu Lâm, rồi cao giọng nói: “Bản Vô sư huynh, huynh là nguyên cáo, mời huynh thuật lại những hành vi của Vương Tôn Nhất cho mọi người cùng nghe”. Bản Vô đại sư đứng dậy nói: “Tháng trước ta phụng lệnh của Phương trượng đến Sơn Đông xem xét các môn đồ Thiếu Lâm, trong thời gian ở lại Thanh Đảo, nhiều vụ án thái hoa đã xảy ra, liên tiếp có mười hai thiếu nữ bị thái hoa tặc bắt cóc, sau khi ta tra xét, đã chứng thực là hành vi của Vương Tôn Nhất!” Vương Tôn Nhất cười lạnh nói: “Nếu ông thấy tôi thái hoa, tại sao không bắt ngay tại trận?” Bản Vô đại sư nói: “Không phải ngươi đích thân thái hoa nhưng chính là chủ mưu”. Ông ta hơi ngừng lại một chốc rồi nói: “Vương Tôn Nhất không chỉ phạm đại tôi thái hoa mà còn a dua theo quan lại triều đình. Y ở trong phủ khâm sai, nửa đêm sai người bắt cóc thiếu nữ, dùng phủ khâm sai làm sào huyệt thái hoa!” Vương Tôn Nhất lại cười lạnh: “Ở trong phủ khâm sai cũng có tội sao?” Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường đứng dậy nói: “Chùa Thiếu Lâm chúng ta nhiều đời đã truyền, chỉ giữ thanh quy không màng đến triều chính. Ở trong phủ khâm sai không tính là có tội nhưng bắt cóc thiếu nữ chính là đại tội. Xin các vị đừng nói lan man sang chuyện khác, chỉ nói rốt cuộc Vương Tôn Nhất có sai khiến đồng đảng bắt cóc thiếu nữ cho y hay không mà thôi”. Hoằng Pháp nói như thế khiến Bản Vô cũng thấy hơi lúng túng. Số là nhiều đời phái Thiếu Lâm tương truyền, tuy không màng đến triều chính, nhưng từ sau khi nhà Minh sụp đổ, dị tộc xâm lăng, các nhà sư đều không xu phụ người Mãn, và mặc nhiên giúp đỡ các chí sĩ của triều Minh, Bản Vô cũng từng đề nghị đưa việc phản Minh phục Thanh vào tự quy nhưng Vô Trú thiền sư thấy việc này quan hệ quá lớn nên không chấp nhận. Trong lòng Bản Vô đại sư, xu phụ người Mãn còn đáng phỉ nhổ hơn cả tội thái hoa nên trong nhất thời mới trách cứ phản đồ, không nhớ rằng trong tự quy không có điều này.
Vương Tôn Nhất cãi rằng: “Ông nói tôi chủ mưu thái hoa, có gì làm bằng chứng?” Dịch Lan Châu đứng phắt dậy: “Ta làm chứng!” rồi chỉ Cáp Bố Đà và Cam Thiên Long: “Ta thấy hai người này bắt cóc thiếu nữ dâng cho Vương Tôn Nhất”. Rồi kể lại tình hình đêm ấy. Các nhà sư đều kinh hãi!
Vô Trú thiền sư nghiêm mặt nói: “Dịch nữ hiệp là truyền nhân duy nhất của Thiên Sơn kiếm, vai vế cao nhất trong chốn võ lâm, bà ta tuyệt không vu oan cho bọn tiểu bối, không biết nhà ngươi còn có thể nói gì nữa?”
Vương Tôn Nhất đứng dậy nói: “Có phải lúc nãy Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường bảo rằng bổn tự từ xưa đến nay không màng đến chuyện triều đình không?” Vô Trú thiền sư nói: “Việc thái hoa có liên quan gì đến triều đình? Ta chỉ hỏi ngươi, Dịch nữ hiệp nói đúng hay sai?” Vương Tôn Nhất hiên ngang nói: “Đúng thế!” lập tức trong chùa xôn xao, Hoằng Pháp đại sư cao giọng nói: “Theo giới điều của tổ sư, kẻ phạm tội thái hoa phải bị thiêu sống!”
Vô Trú thiền sư dập đầu ba cái trước tượng Lạt ma tổ sư, từ từ đứng dậy, trầm giọng quát: “Nghịch đồ Thiếu Lâm Vương Tôn Nhất sai khiến thái hoa, bắt cóc thiếu nữ, tội chứng đã rõ rành rành, sau khi được trụ trì Chưởng kinh đường tra xét giới điều rõ ràng, thấy rằng tội đáng xử tử, hôm nay lập tức chấp hành!” rồi phất tay một cái, bốn tăng nhân của Đạt Ma viện rời chỗ ngồi bước ra. Dịch Lan Châu và Bản Vô đưa mắt nhìn Liễu Ân hòa thượng và Thiên Diệp Tản Nhân, sợ rằng y giúp Vương Tôn Nhất. Nào ngờ bảy tên cao thủ đi cùng Vương Tôn Nhất vẫn ngồi yên chẳng hề nhúc nhích.
Bốn tăng nhân chưởng hình chậm rãi bước tới, Đại Hùng bảo điện chợt im ắng lạ thường, năm trăm tăng nhân nín thở chờ đợi, Vương Tôn Nhất đứng phắt dậy, cười lạnh quát: “Ai dám bắt ta?” rồi y cởi áo ngoài, trên ngực áo trong có thêu hình con rồng vàng năm móng, bốn bên có ngọc mắt mèo sáng chói, bốn tăng nhân chưởng hình bất đồ đứng lại, chỉ nghe Cáp Bố Đà quát: “Đây là Tứ bối lạc, các ngươi sao không quỳ xuống?”
Té ra Vương Tôn Nhất chính là tên giả của Dận Trinh, y lập tâm cướp đoạt ngôi vua nên vi phục xuất cung kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, còn mình cũng vào trong phái Thiếu Lâm học võ công trong vòng ba năm.
Năm ngoái Dận Trinh trở về Bắc Kinh, vâng lệnh phụ hoàng thành hôn cùng Nữu Cô Lộc thị, Nữu Cô Lộc thị dung mạo tầm thường, không được Dận Trinh thương yêu. Khi Dận Trinh xuất trinh mới chợt nghĩ rằng, trong cung tuy cứ mỗi vài ba năm chọn tú nữ một lần, nhưng nhà giàu có vì hạnh phúc suốt đời của con cái thường bỏ tiền bạc mua chuộc người trong phủ nội vụ, gạch tên con cái của họ, dù thiếu nữ nhà nghèo vừa nghe đến đợt chọn tú nữ cũng vội vàng lấy chồng hoặc trốn tránh, nên mỗi lần chọn tú nữ tuy có hơn ngàn người nhưng người xinh đẹp cực ít, Khang Hy có nhiều con trai, khi phân đi các vương phủ càng không hợp ý. Dận Trinh thầm nhủ: “Trong tay mình có nhiều người tài, sao không bảo bọn chúng tìm thiếu nữ xinh đẹp cho mình để khỏi chọn lựa phiền phức bởi vậy mới gây ra những vụ án thái hoa ở Thanh Đảo”.
Không ai ngờ đến chuyện này, Vương Tôn Nhất là bối lạc đã đủ lạ, mà bối lạc lại làm chuyện thái hoa lại càng không thể tưởng tượng nổi. Trong khoảng sát na, Đại Hùng bảo điện rộn lên tiếng bàn tán ồn ào, Bản Vô đại sư mặt nổi gân xanh, chợt quát lớn: “Bối lạc phạm pháp cũng trị tội như thứ dân!” Dận Trinh lớn giọng nói: “Tất cả mọi thứ trong gầm trời này đều là của nhà ta. Ta muốn bắt vài thiếu nữ dân gian để khỏi phiền phức lựa chọn thiếu nữ, đó cũng là việc công, làm sao nói ta phạm pháp? Dù ta phạm pháp cũng có phủ tông nhân, chùa Thiếu Lâm chẳng có quyền gì quản ta!”
Dận Trinh miệng lưỡi lanh lẹ, chỉ mấy câu đã khiến Bản Vô đại sư cứng họng. Các tăng nhân trong chùa đều phẫn nộ. Hoằng Pháp đại sư chợt lớn giọng nói: “Ta chỉ biết ngươi là Vương Tôn Nhất môn đồ của phái Thiếu Lâm chứ không biết Tứ bối lạc gì cả. Ở đây không có phủ tông nhân, chỉ có môn quy của phái Thiếu Lâm!” Bản Vô đại sư được ông ta nhắc nhở, lạnh lùng nói: “Triều đình có quốc pháp, Thiếu Lâm cũng có môn quy, ngươi là môn đồ của Thiếu Lâm, dù cho ngươi là đương kim Hoàng đế cũng phải trừng trị theo quy củ giang hồ!” Liễu Ân quát lớn: “Phản rồi! Phản rồi!”
Thiên Diệp Tản Nhân đứng dậy nói: “Tuy nói các phái trong võ lâm đều có môn quy, nhưng việc này không phải tầm thường, phải xử lý quyền nghi. Tứ bối lạc chọn thiếu nữ trong dân gian làm sao có thể tính là thái hoa! Tự quy của Thiếu Lâm tuy nghiêm ngặt nhưng cũng phải tuân theo quốc pháp!” Vô Trú thiền sư im lặng không nói, Bản Vô đại sư trợn tròn mắt, quát lớn: “Nếu chùa Thiếu Lâm e sợ kẻ quyền quý, từ rày về sau làm sao có thể lãnh tụ võ lâm? Chuyện hôm nay chính là khảo nghiệm cho phái Thiếu Lâm chúng ta! Chùa Thiếu Lâm có môn đồ như thế chính là nỗi nhục, Chưởng hình tăng nhân, hãy bắt Vương Tôn Nhất!” Thiên Diệp Tản Nhân nhảy ra khỏi chỗ, lạnh lùng nói: “Chùa Thiếu Lâm có quy mô như thế thật không dễ dàng. Bản Vô đại sư không chịu nghe lời tốt chỉ muốn làm theo ý mình, chẳng lẽ không màng đến tâm huyết của tổ sư các đời, muốn hủy cơ nghiệp trăm năm trong một ngày sao?” y nói ra câu ấy, Vô Trú thiền sư và trưởng lão Lạt ma việc đều không khỏi chần chừ, có một số tăng nhân trẻ tuổi càng phẫn nộ hơn, năm trăm tăng nhân bàn tán ồn ào, vô hình trung đã chia thành hai phái, một phái tuy tức giận nhưng vì muốn giữ vững cơ nghiệp của chùa Thiếu Lâm, nên chủ trưởng xử lý khoan dung, không hỏi tội danh. Còn một phái kia thì cứng rắn thà hủy chùa vong thân cũng phải giữ danh dự cho chùa Thiếu Lâm.
Vô Trú thiền sư niệm một tiếng Phật hiệu, lớn giọng nói: “Các vị võ lâm tiền bối và mọi người hãy tạm thời im lặng. Chuyện hôm nay chẳng phải tầm thường, lão nạp cũng không dám tự tiện làm chủ. Xin mời chủ trì ba đường và trưởng lão Đạt Ma viện theo lão nạp đến Sơ tổ am bẩm cáo tổ sư, bàn bạc rồi sẽ tuyên bố. Xin mời các vị khách đợi một lát”. Rồi cùng mười hai nhà sư bước vào trong bàn bạc. Năm trăm tăng đồ cũng giới bị nghiêm ngặt. Dù Dận Trinh gan lớn bằng trời cũng phải hơi run sợ.
Bọn Vô Trú thiền sư lui ra một lúc khá lâu mà vẫn không thấy quay lại, Đường Hiểu Lan đưa mắt nhìn, chợt thấy một bóng người dợm chân bước vào nhưng lại quay ra, Thần Ma song lão chợt đứng dậy thò đầu nhìn ra ngoài, bóng người ấy chợt biến mất, nhưng trông rất quan mắt. Các nhà sư thấy Thần Ma song lão đứng dậy cũng chạy tới bao vây, Thần Ma song lão tiu nghỉu ngồi xuống. Trong lúc hỗn loạn, có một đứa trẻ bước vào nội điện, đó chính là đứa trẻ kỳ mà Đường Hiểu Lan đã gặp. Đường Hiểu Lan bất đồ bước gần tới vài bước, nghe một tăng nhân cười nói: “Canh Nghiêu, ngươi cũng muốn ra xem náo nhiệt ư? Sư phụ của ngươi sao không đến?” Đường Hiểu Lan giật mình, thầm nhủ: “Hình như mình đã nghe cái tên Canh Nghiêu này ở đâu đó!” đứa trẻ mỉm cười, nói: “Làm sao ta biết?” Đường Hiểu Lan định bước tới gần, Vô Trú thiền sư đã cùng mười hai cao tăng bước ra trở lại.
Vô Trú thiền sư rất cẩn thận già dặn, vốn không muốn gây phiền phức, bàn bạc một hồi mới nói: “Thiên Diệp Tản Nhân tuy có ý uy hiếp, nhưng nếu cơ nghiệp của Thiếu Lâm sụp đổ trong lúc này, chúng ta làm sao có thể ăn nói với tổ sư các đời?” Hoằng Pháp đại sư chợt nói: “Trụ trì, xin hỏi từ ngày Thiếu Lâm dựng nghiệp đã trải qua bao nhiêu năm?” Vô Trú thiền sư ngạc nhiên nói: “Sao huynh lại hỏi tôi? Thiếu Lâm Tung Sơn đã trải qua hơn một ngàn ba trăm năm, tăng nhân trong chùa ai mà không biết?” Hoằng Pháp đại sư nói: “Đúng thế! Thử hỏi một ngàn ba trăm năm qua, bao nhiêu triều đại đã thay đổi? Cái uy của bậc đế vương chỉ được nhất thời chứ không thể đến trăm đời. Triều đại có thể đổi nhưng tự quy của Thiếu Lâm chúng ta không thể thay, chả lẽ danh dự ngàn năm của chùa Thiếu Lâm chúng ta không thể so với một bối lạc hay sao?” Bản Vô đại sư cũng nói: “Hoằng Pháp nói có lý, nếu hôm nay chúng ta không chấp hành giới quy của tổ sư, dù chùa Thiếu Lâm có còn tồn tại nhưng danh dự đã tiêu tan, chẳng qua chỉ có danh còn mà thực sự đã mất. Nếu chúng ta kiên quyết trừng trị, giữ vững tôn nghiêm của chùa Thiếu Lâm, chùa Thiếu Lâm tuy danh mắt mà thực còn, mãi mãi là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, chúng ta phải có cái nhìn lâu dài. Sư đệ, đệ là chủ trì, cần phải kiên quyết mạnh dạn, dựng nghiệp tuy khó khăn, nhưng chùa bị hủy có thể xây dựng lại, người mất nhưng tuyệt kỹ có thể truyền lại. Với tiếng tăm và tinh thần đã vun bồi hàng ngàn năm qua, một khi hư hỏng sẽ không thể khôi phục được nữa”. Vô Trú thiền sư nhắm mắt trầm tư một lúc rất lâu mới thở dài đứng phắt dậy, cùng mọi người bước ra khỏi Sơ tổ am đi thẳng vào Đại Hùng bảo điện. Mọi người thấy ông ta sắc mặt nặng nề, không biết ông ta quyết định như thế nào, chẳng ai dám lên tiếng hỏi.
Vô Trú thiền sư bước vào điện, tăng nhân chấp sự lập tức khua chiêng gõ trống, tất cả mọi người đều im lặng, Hoằng Pháp đại sư chắp tay hỏi: “Vương Tôn Nhất có tội hay không?” Vô Trú thiền sư trầm giọng đáp: “Có tội!” bọn người đi theo Dận Trinh đều biến sắc. Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Mong được nghe lý lẽ của chủ trì!” Vô Trú thiền sư nói: “Vương Tôn Nhất tuy là hoàng tộc nhưng khi y vào chùa Thiếu Lâm lại lấy thân phận của người bình thường. Bản Không đại sư là sư phụ của y, không phải là giáo đầu trong cung của y. Thiếu Lâm là một phái trong võ lâm, môn đồ phạm vào đại giới thái hoa, cần phải xử phạt theo giới luật!”
Bốn nhà sư chưởng hình nói: “Lãnh chỉ!” rồi thong thả bước tới, Liễu Ân và Cáp Bố Đà đứng hai bên Dận Trinh, các tăng nhân chưởng hình tựa như chẳng hề nhìn thấy, vẻ mặt vẫn rất nghiêm nghị, tiếp tục tiến về phía trước. Dận Trinh chợt quát: “Hãy thong thả!” Vô Trú thiền sư nói: “Ngươi có gì muốn nói?” Dận Trinh lấy ra một tờ giấy, lớn giọng nói: “Sau khi ta nhập môn đã từng nói rõ thân phận với Bản Không sư phụ, ngày ta ra khỏi chùa, ông ta đã viết giấy nói rõ ràng, Chưởng môn Phương trượng, hãy xem rồi sẽ rõ”. Cáp Bố Đà cầm lấy tờ giấy đưa cho Vô Trú thiền sư. Vô Trú thiền sư đọc xong sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc, cúi đầu không nói. Bản Vô và Hoằng Pháp vội vàng ghé đầu qua xem, xem xong Bản Vô nổi cáu: “Bản Không sư huynh của ta tuyệt không phải là người như thế. Tờ giấy này chỉ là giả”. Té ra trên tờ giấy viết rằng: “Bản Không chủ môn Phương trượng đời thứ bốn mươi sáu của chùa Thiếu Lâm, báo cho Phương trượng đời sau biết, đệ tử đời thứ bốn mươi tám Vương Tôn Nhất là bối lạc Dận Trinh, mến danh của chùa Thiếu Lâm ta, không nề gian khổ vào chùa học võ công để sau này ra sức cho triều đình, hoàng dương võ nghệ của chùa Thiếu Lâm ta, mong làm hộ pháp, giữ vững trang nghiêm. Thiếu Lâm may mắn nên mới được bối lạc ghé đến, theo nghĩa quân thần, theo quy củ võ lâm, Dận Trinh là đệ tử của Thiếu Lâm, nhưng bỏ đi danh sư đồ, Dận Trinh vào chùa, cho phép miễn lễ quỳ bái đối với trưởng bối, không chịu ức thúc bởi giới luật của Thiếu Lâm. Giấy này do Dận Trinh cất giữ, sau khi ta viên tịch sẽ truyền cho Phương trượng đời tiếp theo. Bản Không dự”.
Bản Vô nhủ: “Bản Không sư huynh là người ngày thẳng, tuy thanh tu nhưng trong lòng vẫn mong nhớ Hán thất, nếu biết y là hòang tử chắc chắn đã chẳng chịu thu nhận là học trò. Dù thu nhận y là học trò, khi viên tịch cũng phải nói với chúng ta. Mảnh giấy này tuyệt đối là giả!” Vô Trú thiền sư lại nghĩ: “Sư huynh vì giữ cơ nghiệp, chắc là cũng vì bất đắc dĩ nên mới thu nhận Dận Trinh. Chuyện này là đại cơ mật, nên ông ta mới không nói cho chúng ta biết”. Hai người suy nghĩ khác nhau, Bản Vô trong lòng bồn chồn, Vô Trú lại im lặng không nói.
Dận Trinh cười lạnh: “Giám tự bảo tờ giấy này là giả, xin hỏi chủ trì, có phải đây là bút tích của Bản Không đại sư hay không?” Bản Vô cướp lời: “Bút tích không đủ làm bằng, ngươi có người làm chứng hay không?”
Nói chưa dứt lời, chợt giọng nói trẻ con vang lên: “Ta đến đây làm chứng!” đứa trẻ ấy chợt nhảy ra, Hoằng Pháp quát: “Niên Canh Nghiêu, ngươi còn nhỏ biết gì, không được nói càn”. Đường Hiểu Lan chợt nhớ ra, bằng hữu của có thể là Chung Vạn Đường đã từng nói, ông ta thâu nhận được một đứa trẻ nghịch ngợm nhất trên đời làm học trò, họ tên là Niên Canh Nghiêu, chả lẽ là đứa trẻ này? Tại sao đột nhiên nó lại xuất hiện ở chùa Thiếu Lâm, mà lại không thấy Chung Vạn Đường? Đường Hiểu Lan không biết rằng, Chung Vạn Đường vốn cũng ở trong chùa, té ra Chung Vạn Đường là đồ tôn của Phó Thanh Chủ, Phó Thanh Chủ và sư phụ của Bản Không, tức là Phương trượng đời thứ bốn mươi sáu của chùa Thiếu Lâm Thống Thiền thượng nhân giao tình rất tốt, nên hậu bối của họ cũng quen biết nhau, cứ mỗi một hai năm Chung Vạn Đường đều đến chùa Thiếu Lâm ở mấy tháng. Niên Canh Nghiêu ở huyện Trần Lưu tỉnh Hà Nam, cách Tung Sơn không xa, Chung Vạn Đường rất yêu thương Niên Canh Nghiêu nên cũng dắt nó lên núi du ngoạn. Thiếu Lâm tam lão Bản Không, Bản Vô, Vô Trú thấy Niên Canh Nghiêu thông minh tuyệt đỉnh, nghe một hiểu mười, bởi vậy cũng rất yêu thương nó, nhất là Bản Không phương trượng càng coi nó như bảo bối, thường giữ nó trong phòng truyền dạy võ công. Đêm qua Đường Hiểu Lan huơ chân múa tay trong La Hán đường chính là lúc nó đang luyện La Hán Phục Hổ quyền. Sau khi Bản Không chết đi, Niên Canh Nghiêu vẫn thường lên núi, lần này nó và Chung Vạn Đường đã được hơn một tháng.
Chung Vạn Đường không phải là người làm chứng nên Vô Trú thiền sư không mời ông ta. Sau đó Đại Hùng bảo điện ồn ào, Niên Canh Nghiêu không kìm được, đòi Chung Vạn Đường dắt tới, đứng bên ngoài điện quan sát, không ngờ Chung Vạn Đường vừa nhìn vào đã thấy Thần Ma song lão. Mười năm này, Chung Vạn Đường mai danh ẩn tích, trốn chạy khắp nơi, chính là vị sợ Thần Ma song lão, vì thế ông ta mới vội vàng tránh mặt, còn Niên Canh Nghiêu thì đã lẩn vào trong chùa.
Niên Canh Nghiêu nghe Hoằng Pháp quát như thế, cười hì hì nói: “Làm sao tôi không biết? Tôi biết Vương Tôn Nhất chính là Tứ bối lạc, Bản Không đại sư đã từng nói với tôi, khi người viết thư, tôi cũng ngồi bên cạnh! Người căn dặn tôi đừng nói ra, tôi mới kìm nén mấy năm nay. Lúc đó tôi vì hiếu kỳ, đứng một bên xem nên vẫn còn nhớ mảnh giấy viết gì!” Bản Vô và Vô Trú biết nó có bản lĩnh vừa nhìn đã nhớ ngay. Thế rồi Vô Trú nói: “Trẻ con không được nói càn, ngươi hãy đọc lại cho ta nghe”. Niên Canh Nghiêu đọc lớn một lần, quả nhiên chẳng sai một chữ, Bản Vô nghe thế chẳng nói gì, Niên Canh Nghiêu đọc xong rồi lại nói: “Hai ngày trước khi Bản Không đại sư qua đời, còn viết thư để lại cho tôi, bảo rằng nếu có việc gì lớn hãy đi tìm vị sư huynh bối lạc này. Trụ trì, mời ông hãy xem”. Rồi lấy ra một phong thư, Bản Vô ghé đầu qua xem, thấy nét chữ trên bì thư quả nhiên là của Bản Không. Bản Vô thở dài: “Thôi đi! Thôi đi!” rồi tiu nghỉu ngồi xuống, các nhà sư trong chùa chạy tới, Vương Tôn Nhất hiên ngang đứng dậy, chào Vô Trú thiền sư rồi xông ra ngoài. Bản Vô chợt quát lớn: “Ngươi còn muốn chạy?”