Từ sau hôm Trương Tùng Khê
tới thăm, mỗi lần gặp Ân Lê Đình nàng đều bất giác nhớ tới vướng mắc
giữa chàng và Kỷ Hiểu Phù trong bản thảo. Nàng nhắc đi nhắc lại mình
rằng chuyện Ân Lê Đình không giống Trương Thúy Sơn. Chuyện của người sau liên lụy tới toàn phái Võ Đang, hơn nữa, kết cục trong nguyên tác quá
thảm khốc, khiến nàng thật sự không nhịn được nhúng tay vào. Nhưng Ân Lê Đình, dù sao sau này còn có Dương Bất Hối, kết cục có thể nói là có lối thoát [18], như thế mình không nên chen vào. Song mỗi lần nhìn thấy
chàng dịu dàng nhỏ nhẹ cười nói với mình, ánh mắt trong sáng tinh khiết
như lưu ly, nhớ đến trong sách có nói nỗi đau của chàng đằng đẵng hơn
mười năm liền cảm thấy lòng thắt lại thật mạnh, có chút sứt đầu mẻ trán
không biết nên làm thế nào mới phải.
Càng gần cuối năm, không khí tết càng rộn ràng. Quét dọn phòng ốc, sắm sửa đồ tết, may quần áo mới,
phái Võ Đang người nào người nấy bận tối mắt tối mũi. Những năm trước Lộ Dao đón tết ở Thu Linh trang, những chuyện đó chẳng cần nàng bận tâm,
có người cơm bưng nước rót hầu hạ tận nơi. Nếu có lần nào tâm huyết dâng trào nàng định giúp đỡ là y như rằng nhóm quản gia, sai vặt của Thu
Linh trang đều tống nàng về viện của nàng như tiễn ôn thần, năn nỉ nàng
không cần phá đám. Mỗi lần như thế, Lộ Dao đều sờ mũi, chạy ra đường dạo chơi, vừa dạo vừa nhớ lại cái tết hồi xưa, ít nhất nàng còn có tác dụng không ít, bụng nghĩ đúng là nhân quả xoay vần. Ngày hôm đó Ân Lê Đình
đến chỗ Lộ Dao, nàng vừa nhìn thấy lập tức ném hạt đào đang chọc A Nhiên trong tay đi, quan sát Ân Lê Đình từ trên xuống dưới. Ân Lê Đình bị
nhìn cho ngượng ngùng bởi vì, ngày thường chàng toàn mặc áo dài bằng vải thô hoặc là đồ luyện công, hôm nay lại mặc trường bào màu tím sẫm. Bộ
trường bào này may thêu tinh xảo, vừa người, không tầng tầng lớp lớp như kiểu văn nhân mặc mà rất đơn giản sạch sẽ, mặc vào lộ ra không khí vui
mừng. Ân Lê Đình thấy vẻ mặt Lộ Dao tò mò bèn giải thích: “Sắp qua năm
mới, đại tẩu may cho sư phụ và sư huynh đệ chúng ta mỗi người một bộ.”
Ân Lê Đình nhắc, Lộ Dao mới nhớ tới thê tử của Tống Viễn Kiều, Phạm thị. Ở trên núi nửa năm, số lần Lộ Dao gặp bà có thể đếm trên đầu ngón tay,
trong ấn tượng là một nữ tử đứng tuổi rất yên lặng, không tính là xinh
đẹp nhưng rất ưa nhìn. Tuy trượng phu đứng đầu Võ Đang thất hiệp, danh
chấn giang hồ nhưng bà không biết võ công, chẳng những thế là hiền thê
lương mẫu điển hình, ngày thường gần như không ra khỏi cửa. Ngược lại
thường hay nghe Tống Thanh Thư nhắc với Hàn Hề mẹ ta thế này, thế kia.
Ân Lê Đình có nói với nàng Phạm thị là thê tử chỉ phúc vi hôn của đại sư huynh.
Trái lại Lộ Dao cảm thấy chức đại tẩu Tống gia này không dễ làm, vừa chăm sóc con mình còn phải trông nom nhiều sư đệ như thế.
Lúc này lại thấy Ân Lê Đình đưa một xấp gì đó, Lộ Dao nhìn thử, thì ra là
mấy cái hà bao[19] lớn nhỏ, màu sắc khác nhau. Chất gấm Tứ Xuyên, mặt
trên thêu nào là hoa cỏ cây trúc, nào là chim trời cá nước, đủ chủng
loại cực kỳ đẹp đẽ tinh xảo, màu sắc quá nửa là tươi sáng rực rỡ.
Ân Lê Đình cười nói “Đại tẩu bảo quần áo đồ dùng của muội đa phần do Thu
Linh trang đặt mua, chỉ sợ quần áo tẩu ấy may muội không thích nên thêu
mấy cái hà bao này tặng muội, nói để muội dùng đựng mấy thứ nho nhỏ như
lọ thuốc, kim châm cũng rất tiện.”
Lộ Dao phấn khởi nhận lấy hà
bao, yêu thích không buông tay “Hà bao thêu đẹp thế này, đựng mấy cái đó tiếc lắm. Đại tẩu huynh tốt thật, còn chuẩn bị phần của ta nữa!”
Ân Lê Đình thấy Lộ Dao thích, nói “Bút than gì đó muội hay dùng cũng có
thể bỏ vào đây, đỡ mắc công lần nào cũng phải kiếm nửa ngày. Có lần ta
nói với đại tẩu muội hay ném mất bút than của mình, đại tẩu ghi nhớ, còn cố tình may cho muội một cái túi riêng để đựng.” Nói rồi lấy một cái
túi nhỏ màu xanh nhạt trong xấp đồ thêu, mặt trên có thêu mấy cành trúc
biếc, phía dưới khâu bằng chỉ mảnh đan xen hai màu xanh trắng, có tua
rua, miệng túi có một sợi dây rút, có thể đeo nơi eo.
Lúc này Lộ
Dao đã sùng bái thê tử Tống Viễn Kiều hết mức, liền nói “Không được, ta
phải đích thân đi cám ơn tẩu ấy mới được. Huynh có thời gian không? Đi
cùng ta nhé?”
Hai mắt Ân Lê Đình hơi sáng lên, mặt ửng đỏ đáp “Được.”
Lộ Dao không chú ý đến nét mặt chàng lắm bởi vì bỗng dưng nàng sực nhớ ra
một chuyện “Ta cũng nên chuẩn bị món gì đáp lễ mới phải…” Nói rồi nhíu
mày nghĩ ngợi nửa ngày “Huynh nói ta nên chuẩn bị gì đây?”
“Hả? Gì cơ…” Ân Lê Đình nhất thời thất thần, không nghe Lộ Dao hỏi chàng cái gì.
“Ta hỏi phải chuẩn bị quà gì đáp lễ cho đại tẩu huynh, nên chọn món gì đây?”
Ân Lê Đình thấy Lộ Dao chớp đôi mắt sáng rỡ nhìn mình, ngắc ngứ “… ơ… à… hà bao đi.”
“Hà bao?!” Lộ Dao trợn mắt.
“Hơ, nữ nhân… không phải đều thích thêu hà bao… tặng cho người ta à?” Ân Lê
Đình nói, nhìn mắt Lộ Dao một cái, vội vàng cúi đầu che giấu thần sắc
mình.
Lộ Dao bày ra vẻ mặt muốn chết, đau khổ day trán “Vấn đề là, ta không biết thêu…”
Lần này đổi lại Ân Lê Đình sửng sốt “Ta thấy thủ pháp muội cầm kim may… thứ đó rất giỏi.” Chàng nhớ lại thủ pháp lúc Lộ Dao chữa bệnh cho Hàn Hề và tam ca Du Đại Nham, nói chính xác phải là chỉ lướt như bay.
Lộ Dao rầu rĩ “Khâu da người với khâu vải căn bản là hai chuyện khác nhau!”
Trong lúc Ân Lê Đình không biết đang nghĩ gì, Lộ Dao thì nghĩ không ra, người Phó Thu Nhiên phái lên Võ Đang đã giúp giải quyết. Người đến vẫn là
Tống Tấn Văn, đem theo bốn cái rương và một phong thư như cũ, cũng vội
vàng tới rồi đi như thế.
Trong rương đủ loại quần áo mùa đông,
trừ quả khô kẹo mứt điểm tâm ra có không ít đồ có thể làm quà tết. Lộ
Dao lọc ra chọn, lấy một bộ tranh thêu bốn bức cực kỳ tinh xảo, nền
trắng thêu chỉ xanh, tranh thêu là tứ quân tử mai lan trúc cúc, hết sức
thanh nhã hợp lòng người. Ân Lê Đình cũng khen đẹp, vì thế bị Lộ Dao kéo đi tới viện của vợ chồng Tống Viễn Kiều.
Trên núi, mọi người bận túi bụi, thân là đại đệ tử lớn nhất Võ Đang kiêm quản gia, chắc chắn
Tống Viễn Kiều không nhàn rỗi, đương nhiên không có trong phòng. Phạm
thị thấy Ân Lê Đình và Lộ Dao cùng tới, rất vui vẻ, vội vàng mời hai
người vào phòng. Phòng ốc sạch sẽ gọn gàng, cơ hồ không dính một hạt
bụi, đồ đạc sắp xếp ngăn nắp trật tự đâu ra đấy. Nghĩ lại phòng mình,
chỗ này vất quần áo, chỗ kia quăng quyển sách, Lộ Dao xấu hổ toát mồ
hôi.
Lộ Dao bày tỏ ý định đến thăm, cám ơn mấy cái hà bao của
Phạm thị, kế đó đưa tặng tranh thêu cho bà. Khuê danh Phạm thị có một
chữ Thường, quê quán Giang Nam, thấy sản phẩm thêu của quê nhà hết sức
mừng rỡ. Giữa nữ nhân với nhau rất dễ làm quen, Phạm Thường quanh năm ở
trên núi, không có nữ tử nói chuyện chung. Trượng phu bận rộn chủ trì đủ loại sự vụ rườm rà của phái Võ Đang, lúc rảnh liền luyện công, giữa hai vợ chồng thật ra chẳng có mấy thời gian tán gẫu việc nhà. Với lại Lộ
Dao cảm thấy với hình tượng của Tống Viễn Kiều, tham khảo võ công với sư đệ còn bình thường, chứ tán gẫu chuyện nhà với thê tử khó mà hình dung
nổi. Phạm Thường vốn không phải người nhiều lời, nhưng gặp Lộ Dao vẫn
hết sức cao hứng, nhất thời cũng nói nhiều hơn. Lộ Dao cảm thấy hơi áy
náy với Ân Lê Đình ngồi bên, nghĩ giữa nữ nhân với nhau, đề tài nói
chuyện cũng chỉ có quần áo trang sức này nọ, Võ Đang Ân lục hiệp ngồi
nghe tất nhiên nhàm chán tẻ ngắt. Khẽ ngoẹo đầu nhìn chàng vừa đúng lúc
thấy chàng cũng nhìn qua, bất lực mỉm cười. Ai ngờ Ân Lê Đình thấy nàng
cười lập tức ngoảnh đi, làm Lộ Dao lấy làm khó hiểu.
Phạm Thường
nhìn nét mặt cử chỉ của hai người đối diện, trong bụng buồn cười, nhớ
tới chuyện trượng phu căn dặn, bắt đầu từ từ đi vào chủ đề. Thế là, nửa
khắc tiếp đó, Lộ Dao triệt để ngộ ra, không chỉ cao nhân tiếng tăm như
Trương Tam Phong mới có tư duy nhảy cóc, nữ nhân đã thành hôn như Phạm
Thường cũng có tư duy nhảy cóc y chang. Đầu tiên Phạm Thường cực kỳ hứng thú với Phó Thu Nhiên, từ bối cảnh xuất thân đến sở thích, từ công việc đến thành hôn hay chưa, vấn đề nào cũng hỏi tỉ mỉ. Lộ Dao đáp Phó Thu
Nhiên và muội cùng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, là đồng môn học y, hắn ưa nhất
là ăn ngủ, ghét nhất là làm việc suốt đêm, trước mắt là thương nhân, một tên lưu manh cả ngày không có chuyện gì làm lêu lổng khắp nơi. Tiếp đó
hứng thú của Phạm Thường lại dời qua người Lộ Dao. Xuân xanh, quê quán,
sở thích, thói quen, học y ở nơi nào, học võ ở đâu, có sư phụ, sư mẫu,
sư thúc tổ hay không, càng hỏi Lộ Dao càng không biết đáp sao, mãi đến
lúc Phạm Thường hỏi ‘Lộ Dao, Muội Vừa Tròn Mười Chín, Phó Trang Chủ Thân Là Huynh Trưởng Có Chọn Nhà Chồng Cho Muội Chưa?’ Rốt cuộc Lộ Dao sặc
nước trà, suýt nữa nghẹn chết, ho sặc sụa nửa ngày mới thở lại được,
nhận lấy khăn tay Ân Lê Đình đưa lau miệng, tưởng tượng có một ngày Thu
Nhiên sẽ túm lấy mình bắt đính thân với người khác; nhìn tách trà uống
cạn, Lộ Dao lập tức hối hận vừa rồi thà bị nước trà sặc chết cho rồi,
sặc nước miếng cũng được. Nhe răng nhếch miệng nửa ngày mới hơi tỉnh
hồn, vội vàng nói huynh trưởng tiểu muội bận ăn bận ngủ, bận đi lang
thang với bận kiếm tiền, nhất thời không để ý đến chuyện này. Phạm
Thường lại nói trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng, huynh trưởng muội sao
lại như thế? Lộ Dao ngẫm nghĩ cảm thấy đừng hủy danh dự Thu Nhiên thì
hơn, lật đật nói thật ra là mình không chịu yên ổn, không hiểu tam tòng
tứ đức, công dung ngôn hạnh một chút cũng không hợp cách, lại thêm thích chạy đông chạy tây, giỏi nhất là may da người, nên đến giờ chuyện này
còn chưa được nhắc tới trong lịch trình. Nói vừa xong, chỉ thấy Phạm thị cười có phần kỳ lạ, Lộ Dao cảm giác áp lực đổ xuống đỉnh đầu, cuống
quít túm lấy Ân Lê Đình, kiếm cớ cáo từ rồi chạy trốn như bay.
Ra ngoài rồi, Lộ Dao níu tay áo Ân Lê Đình hỏi, Ân lục ca, từ nhỏ tới lớn
huynh sợ ai nhất? Ân Lê Đình nghiêng đầu suy nghĩ nửa ngày đáp: nhị ca,
sau đó bổ sung thêm một câu: sau khi mình làm sai chuyện, sắc mặt nhị ca nghiêm túc nhìn mình không nói một câu. Lộ Dao ôm ngực nói: hiện giờ ta sợ nhất là đại tẩu huynh, sau đó cũng thêm một câu, vào phòng châm trà
xong, đại tẩu huynh cười hỏi ta tuổi tác, quê quán, có hôn ước hay chưa. Ngẩng đầu lên lại thấy Ân Lê Đình đang nhìn mình, cũng không rõ do trời lạnh giá hay vừa rồi mới chạy, hai má hồng nhạt, dưới ánh mặt trời ấm
áp ngày đông càng đặc biệt đẹp mắt. Tim Lộ Dao khẽ thịch một cái, chỉ
cảm thấy đôi mắt như lưu ly kia cực kỳ lóa mắt.
[18] nguyên gốc
là 柳暗花明 (liễu ám hoa minh) Bốn chữ này xuất phát từ câu thơ của Lục Du
山重水复疑无路,柳暗花明又一村 (Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn – sơn cùng thủy tận ngờ hết lối, liễu rủ hoa cười lại gặp làng)