Địa Đồ Di Cốt

Chương 1

Tháng Ba, 1162

Binh lính của ngài tổng giám mục đã tản ra nấp trong thung lũng phía dưới. Phía sau, trên con đường mòn là tiếng ngựa hí, tiếng cung nỏ rin rít. Những gã lính hò hét ầm ĩ, gào lạc cả giọng. Tiếng va chạm loảng xoảng của sắt thép nghe rõ mồn một như những hồi chuông nhà thờ.

Nhưng đây không phải những kiệt tác của Chúa đang được tái tạo.

Tốp lính phía sau được giao chốt trận địa.

Friar Joachim nắm chặt dây cương khi con ngựa của gã tụt xuống ngọn đồi thoai thoải. Cỗ xe kéo chất nặng đã xuống tới chân dốc an toàn, nhưng để đi thoát được vẫn còn phải đi qua một chặng đường nữa.

Nếu như họ có thể đến được nơi đó...

Tay nắm chặt dây cương, Joachim thúc con ngựa cái tập tễnh xuống dưới thung lũng. Gã lao qua một con suối nhỏ đóng băng rồi ngoái lại phía sau.

Dù mùa xuân đã đến rồi nhưng đây đó dấu vết của mùa đông vẫn còn rất rõ nét. Những vòm cây như tỏa ánh sáng lấp lánh dưới nắng chiều. Tuyết trắng hắt trở lại ánh sáng trời khi trên kia những mỏm núi trọc lốc, sương mù vẫn bao phủ. Còn dưới này trong vòm cây, tuyết tan đã biến cả bìa rừng thành một bãi lầy nhớp nhúa. Những con ngựa mỗi bước đi làm bùn bắn tứ tung, dường như muốn khuỵu chân xuống vì mệt nhọc. Ngay trước cỗ xe kéo lại tiếp đến một bãi lầy lõng bõng.

Joachim thúc ngựa cố đuổi kịp đám lính ở cỗ xe.

Một lũ ngựa khác bị sa lầy trong bùn. Tụi lính đang cố thúc chúng từ phía sau. Họ cố đến bằng được con đường mòn trải dài phía trước.

"Ey-ya!" - Gã đánh xe ngựa hét lên, quật roi vun vút.

Con ngựa đi đầu ngoái lại rồi gò lưng kéo cái ách. Chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Những dây xích lại căng lên, đám ngựa thở phì phò phả vào không khí, đám lính văng ra đủ những câu tục tĩu.

Rồi thì cũng chầm chậm... thật quá chậm, cỗ xe được kéo ra khỏi vũng bùn với tiếng ì oạp như một vết thương lồng ngực mở toang hoác. Cuối cùng nó vẫn được đẩy lên phía trước. Mọi sự chậm trễ đều phải trả giá bằng máu. Những tên lính ngắc ngoải chờ chết trên mỏm đèo phía sau vẫn tiếp tục rên rỉ.

Tốp lính chặn hậu phải cố trụ thêm một thời gian nữa.

Chiếc xe vẫn nhích dần lên từng bước về phía trước. Người ta có thể thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá được cột với nhau bằng dây chão đặt trong lòng cỗ xe.

Chỉ cần một trong ba cái quan tài đá vỡ ra thôi...

Friar Joachim tiến tới cỗ xe.

Người em của y, Franz, áp con ngựa sát vào, nói nhỏ: "Đã trinh sát rồi, đường mòn phía trước an toàn."

"Di vật này không thể nào bị lấy lại về Italy. Chúng ta phải đến biên giới"

Franz gật đầu, tỏ vẻ như hiểu. Di vật không còn an toàn trên đất Italy nữa, chừng nào vị giáo hoàng thực sự đang còn phải tá túc ở nước Pháp, và kẻ đội lốt giáo hoàng còn đang trị vì ở Roma.

Cỗ xe được kéo lên nhanh hơn mỗi bước đi càng chắc hơn. Tuy vậy tốc độ của nó vẫn không thể nhanh hơn so với người đi bộ. Joachim tiếp tục dõi nhìn về mỏm đồi phía xa.

Âm thanh của trận chiến nay đã thu gọn lại ở những tiếng rên rỉ, khóc lóc đau đớn vọng qua thung lũng. Tiếng lách cách của những lưỡi gươm khua đã ngưng hẳn cho thấy tốp lính chặn hậu đã bị đánh bại hẳn.

Joachim căng mắt nhìn vào khoảng tối đã bao trùm mỏm đồi phía trước. Bóng đen sẫm đã bao phủ tất cả những ngọn cây thông.

Đột nhiên Joachim phát hiện một ánh lóe bạc.

Một bóng hình đơn độc xuất hiện tập tễnh trên con đường độc đạo, giáo áo sáng lấp lánh.

Joachim chả cần nhìn hình hiệu con rồng đỏ gắn trên ngực gã cũng biết ngay gã là cận vệ của vị giáo hoàng da đen. Gã là một người khổng lồ, cao hơn đám lính hẳn một cái đầu. Gã Sacaren bẩn thỉu đã lấy tên Thiên chúa Fierabras đặt cho mình giống như một trong những người tùy tùng của Đại đế Saclơmanh. Bàn tay của gã nhuốm máu của những người Thiên chúa giáo nhiều hơn bất kỳ kẻ nào khác. Vậy mà gã cũng được tấn phong từ năm ngoái, giờ thì Sacaren đang đứng cạnh Hồng y Octavius, vị Giáo hoàng da đen dưới danh hiệu Victor IV.

Fierabras vẫn đứng trên con đường ngập bóng nắng, không có vẻ gì như muốn đuổi theo.

Tên Saracen này biết rằng y đã chậm mất rồi.

Cỗ xe đã chạm đỉnh đèo rồi tiến vào con đường mòn khô ráo phía trước. Giờ thì họ có thể lao đi với tốc độ tối đa. Ngay phía trước đã là đất Đức. Trận phục kích của Saracen đã thất bại.

Tuy nhiên, một hành động của gã làm Joachim chú ý.

Fierabras lấy ra chiếc cung lớn từ một bên vai, đen như bóng đêm. Gã chậm rãi lắp một mũi tên vào, từ từ kéo cong cánh cung rồi nhả ra.

Joachim chau mày. Liệu gã hy vọng sẽ giành lại chiến thắng bằng ngón đòn này chăng?

Mũi tên lao đi vọt qua thung lũng dường như nhợt nhòa dưới ánh mặt trời trên đỉnh núi. Joachim ngước mắt lên bầu trời, căng thẳng. Rồi thật lặng lẽ giống như một con diều hâu lao xuống, mũi tên cắm thẳng vào chính giữa thùng cỗ xe.

Thật không thể tin nổi, nắp của chiếc quan tài bằng đá bỗng bật tung ra cùng với một tiếng nổ nghe như tiếng chớp. Dây chão bị đứt làm cho cả ba khối đá nặng nề trôi trượt về phía sau của cỗ xe.

Những tên lính chạy vội lên, cố giữ cho cái quan tài đá khỏi lao xuống đất. Những bàn tay chới với. Cỗ xe dừng lại hẳn. Tuy vậy, một trong ba khối đá đã bị nghiêng lệch hẳn đi. Nó lăn xuống, va vào một tên lính đứng ở phía dưới tiện phăng luôn chiếc giò của y. Tiếng kêu thét của kẻ khốn khổ chói cả tai.

Franz hấp tấp nhảy xuống ngựa. Hắn xúm vào cùng đám lính cố nâng cái quan tài đá khỏi vai họ để đẩy nó trở lại vào cỗ xe.

Cái quan tài đá đã được nhấc lên, nhưng lại quá nặng để có thể đưa lên ngang tầm với cỗ xe.

“Dây chão đâu?” Franz hét lên: “Chúng ta cần có dây chão”.

Một trong những tên lính bị trượt chân. Cái quan tài bằng đá lại rớt xuống lần nữa, lật nghiêng về một phía. Cái nắp bằng đá bật tung ra.

Những tiếng ngựa kêu nghe thấy rõ mồn một phía sau họ. Trên con đường mòn. Đang tiến đến rất nhanh. Joachim quay lại, biết ngay được điều gì sẽ xảy ra. Những con ngựa đẫm mồ hôi, sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời đang chồm lên người họ. Lại có thêm nhiều binh lính từ chỗ gã Saracen.

Cuộc phục kích thứ hai.

Joachim ngồi yên vị trên lưng ngựa. Không còn đường lui nữa rồi.

Franz há hốc mồm, không phải vì tình trạng tuyệt vọng của mình mà vì những thứ bên trong quan tài đá văng ra ngoài. Hay đúng hơn là chả có gì cả.

“Trời, rỗng không!”. Hắn kinh ngạc thốt lên: “Rỗng tuếch”.

Nỗi kinh ngạc làm hắn đứng bật dậy. Hắn lăn qua một bên thùng xe rồi nhìn chằm chằm vài khối đá bị mũi tên của gã Saracen làm bật tung.

“Lại rỗng không nữa rồi”. Franz nói, như khuỵu hẳn xuống. “Thế di vật được cất ở đâu? Cái quái quỷ gì đây?". Hắn nhìn thẳng vào đôi mắt của Joachim rồi nhận ra y chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên.

“Ngài biết rồi ư?”

Joachim nhìn chằm chằm vào những con ngựa đang lao tới. Cỗ xe của họ chỉ là một màn kịch, một trò hề để đánh lừa những tên lính của vị Giáo hoàng da đen. Món đồ thực sự đã được một tốp lừa chở đi từ ngày hôm trước. Di vật thật được bọc bằng vải dầu thô giấu trong một đống rơm. Joachim quay lại nhìn Fierabras. Gã Saracen có thể có được một ngày tha hồ tắm máu, nhưng vị Giáo hoàng da đen sẽ chẳng bao giờ có được món di vật đó.

Không bao giờ!

Ngày 22-7, lúc 11h 46 phút

Cologne, Đức

Sắp tới 12h đêm, Jason chuyển chiếc máy nghe ipod của mình cho Mandy.

“Mandy, nghe thử xem này. Tác phẩm mới ra lò của Godsmack đấy. Ngay ở Mỹ băng này cũng chưa phát hành… nghe mùi đấy chứ?”

Phản ứng của cô gái lại không như cậu mong đợi. Mandy nhún vai, vẻ mặt vô cảm, nhưng cô vẫn cầm lấy tai nghe. Cô lấy tay vén mái tóc nhuộm màu đỏ của mình rồi đeo cặp tai nghe vào. Động tác của cô làm bung chiếc áo khoác để lộ ra bộ ngực đầy đặn trong chiếc T-shirt màu đen.

Jason nhìn chằm chằm vào cô gái.

“Mình chả nghe thấy gì cả”. Mandy nói giọng mỏi mệt, đôi lông mày nhíu lại

“Ồ!” Jason quay xuống nhìn chiếc ipod một lần nữa rồi ấn nút play.

Cậu hơi ngả người tựa đầu vào hai cánh tay. Cả hai đang ngồi trên một thảm cỏ ở quảng trường Domvorplatz dành cho người đi bộ. Quảng trường được bao bọc bởi nhà thờ Kolner Dom có kiểu kiến trúc gô-tích rất hoành tráng. Nằm trên ngọn đồi Cathedral nó có thể nhìn bao quát cả thành phố.

Jason ngước mắt nhìn lên ngọn tháp đôi, được trang trí bằng những bức tượng đá, khắc thành từng dãy trên nền đá cẩm thạch mô tả từ tôn giáo đến nghi thức bí ẩn. Giờ đây, khi được chiếu sáng vào ban đêm, ngọn tháp đem lại một cảm giác thật huyền bí như một cái gì đó thật cổ kính hiện lên từ lòng đất sâu thẳm không thuộc về thế giới này.

Nghe những âm thanh lọt ra từ chiếc ipod, Jason chăm chú nhìn Mandy. Cả hai đều theo học ở trường đại học Boston, đeo balô đi du lịch ngày hè qua nước Đức và Áo. Họ đi cùng với hai người bạn nữa là Brenda và Karl, nhưng hai người kia xem ra lại thích thú các quán rượu địa phương hơn là đi dự lễ thánh vào lúc nửa đêm. Mandy lớn lên từ một gia đình theo đạo Thiên chúa chính thống.

Các buổi lễ thánh về đêm tại nhà thờ này thường chỉ giới hạn vào một số ngày lễ, đều do ngài Tổng giám mục Cologne chủ trì, giống như buổi lễ đêm nay có tên Bữa ăn tối của Ba Vua. Mandy không muốn vắng mặt ở buổi lễ này.

Dù Jason theo đạo Tin lành, nhưng cậu vẫn đồng ý đi với Mandy.

Trong lúc họ vẫn đang ngồi chờ cho đến nửa đêm, đầu của Mandy vẫn đều gật lên gật xuống theo tiếng nhạc. Jason rất thích cung cách này của cô bạn gái cũng như cách cô hay trễ môi dưới khi nghe nhạc. Bỗng nhiên, Jason thấy như có ai chạm vào tay mình. Mandy đã ngồi xích gần lại rồi đặt tay lên cánh tay cậu. Dù vậy, đôi mắt của cô vẫn gắn chặt vào nhà thờ.

Jason cảm thấy như ngừng thở.

Mười ngày qua, cả hai đã luôn tìm cách gần gũi nhau, mỗi ngày một nhiều hơn. Trước chuyến đi, họ chỉ là chỗ quen biết thông thường. Mandy là bạn thân của Brenda từ hồi trung học, và Karl là bạn cùng phòng với Jason. Hai người bạn của họ, những kẻ mới yêu nhau không muốn đi du lịch một mình vì sợ biết đâu mối tình của họ có khi lại tồi tệ đi trong chặng hành trình.

Điều đó đã không xảy ra.

Vì vậy, Jason và Mandy vẫn thường phải đi dạo chơi với nhau.

Thực ra thì Jason cũng chả quan tâm đến chuyện này. Cậu đang theo học môn lịch sử nghệ thuật ở đại học, còn Mandy thì học môn nghiên cứu về châu Âu. Tại đây, những bài học khô khan của họ đã có dịp được minh họa bằng xương bằng thịt, mang thêm linh hồn và thực chất. Chia sẻ nỗi say mê khám phá, cả hai đều tìm thấy ở nhau một người bạn đồng hành dễ chịu.

Jason tránh không nhìn vào cánh tay của Mandy, nhưng cậu cũng cố dịch gần đến cô, gần hơn đôi chút. Liệu bóng đêm có làm cho tình hình sáng sủa hơn không?

Không may, bản nhạc đã kết thúc nhanh quá. Mandy ngồi thẳng dậy, bỏ cánh tay ra để gỡ tai nghe, “Chúng ta phải vào trong nhà thờ”. Cô thầm thì, gật đầu về phía dòng người đang xếp hàng trước cánh cửa nhà thờ đang mở rộng. Cô đứng dậy, với tay cài khuy áo khoác, một cái măngtô dạ màu đen kiểu rất bảo thủ choàng bên ngoài chiếc T-shirt nền nã.

Jason bước theo Mandy trong khi cô gái cố vuốt vuốt lại chiếc váy dài đến mắt cá chân rồi dùng tay túm mái tóc màu đỏ của mình gọn ghẽ sau vành tai. Chốc lát, từ một thiếu nữ sành điệu, cô đã trở thành một nữ sinh ngoan đạo.

Jason há hốc mồm trước sự thay đổi nhanh chóng này. Mặc chiếc quần gin màu đen và áo khoác mỏng, cậu thấy mình ăn mặc thật không chỉnh chu để dự buổi lễ tôn giáo.

“Ồ, trông cậu cũng ổn đấy”. Mandy nói vẻ như đọc được ý nghĩ của bạn.

“Cảm ơn”. Cậu lẩm bẩm

Họ thu gọn các thứ lại, ném mấy vỏ lon coca vào thùng rác gần đấy rồi đi ngang qua quảng trường lát đá.

“Chào buổi tối!”. Người gác cửa mặc y phục màu đen gật đầu chào họ.

“Cảm ơn”. Mandy lầm bầm khi họ trèo lên bậc thang nhà thờ.

Phía trước họ, ánh nến lập lòa hắt ra qua cánh cửa mở rộng, chiếu xuống các bậc lên xuống bằng đá. Nó làm tăng thêm cảm giác vừa già cỗi vừa cổ kính. Ngay từ lúc đi tham quan nhà thờ lúc ban ngày, Jason đã biết rằng viên đá đầu tiên của nhà thờ này đã được đặt từ thế kỷ thứ XIII. Thật khó có thể hình dung nhà thờ đã trải qua một thời gian dài như vậy.

Trong ánh nến kỳ ảo, Jason bước tới những cánh cửa lớn được chạm trổ khổng lồ rồi bước theo Mandy vào sảnh ngoài. Cô nhúng tay vào chậu nước thánh rồi làm dấu. Jason bỗng lúng túng, thấy một cách rất rõ ràng đây đâu phải là tín ngưỡng của mình. Mình là một kẻ ngoại đạo, một kẻ xâm nhập. Cậu sợ mình lỡ bước nên quay ngay về phía Mandy.

“Hãy đi theo mình”. Mandy nói. “Mình muốn tìm một chỗ ngồi tốt, đừng quá gần”.

Jason bước theo cô. Khi bước qua khuôn viên bên trong nhà thờ, ngay lập tức cậu đã thấy có một cảm giác thật không thoải mái. Mặc dù cậu đã vào trong nhà thờ và dù đã học rất nhiều về lịch sử và nghệ thuật của cấu trúc này nhưng vẫn thấy ngạc nhiên trước không gian hoành tráng nhưng cũng rất giản dị của nhà thờ. Gian giữa của giáo đường dài tới bốn trăm feet phía trước mặt cậu, bị ngăn cách bởi một cái khung dài hơn ba trăm feet tạo thành một chữ thập với bàn thờ nằm chính giữa.

Nhưng thật ra không phải chiều dài và chiều rộng của nhà thờ thu hút sự chú ý của Jason, mà chính là chiều cao không thể tưởng tượng được của nó. Cặp mắt của cậu cứ ngước mãi lên cao tới vòm nhà thờ với đường cong nhọn hoắt và hình chóp. Một nghìn ngọn nến chiếu lung linh tỏa ra những làn khói mỏng vươn lên trời, hắt bóng lập lòe trên tường.

Mandy dẫn cậu về phía bàn thờ. Phía trước khoang giữa hai dãy bên đã bị hai hàng dây ngăn cách nhưng vẫn có nhiều ghế trống ở ngay gian giữa.

“Ngồi đây được không?”. Cô hỏi, dừng lại ngay giữa lối đi. Cô khẽ nở một nụ cười nửa như cảm ơn nửa như ngượng nghịu.

Cậu gật đầu, choáng ngợp trước vẻ đẹp thánh thiện của cô, một Madona mặc áo choàng đen.

Mandy kéo tay cậu đi về cuối dãy ghế sát bức tường. Cậu ngồi xuống ghế, thật mừng thấy họ tìm được chút ít riêng tư.

Mandy vẫn nắm tay cậu. Jason cảm nhận được bàn tay nóng hổi của cô.

Bóng đêm chắc sẽ sáng dần.

Rồi một tiếng chuông vang lên, dàn đồng ca cất tiếng hát. Lễ thánh bắt đầu. Jason tách khỏi Mandy khi thấy cô đứng dậy rồi vội quỳ xuống, trong một vũ điệu thật rối rắm của đức tin. Cậu chả muốn làm theo cô, cảm thấy thật mệt mỏi và lạc lõng trong sự phô bày đẹp mắt này: những linh mục mặc áo choàng đung đưa trong làn khói hương, đám rước tháp tùng nhập với vị tổng giám mục đội chiếc mũ thánh cao, mặc bộ quần áo dát vàng, những bài hát đồng ca được những người dự lễ hòa nhịp cùng với những cây nến được thắp trong đêm lễ.

Khắp nơi đây, nghệ thuật đã trở thành như một phần của buổi lễ cũng như người tham dự. Một bức tượng thánh Mary bồng chúa Jesu hài đồng bằng gỗ có tên là Madona của Milan lấp lánh năm tháng và sự duyên dáng. Ngay bên kia là một bức tượng thánh St.Christopher bằng thạch cao đang bế một đứa trẻ nhỏ trên tay với nụ cười thánh thiện. Từ trên cao nhìn xuống tất cả là những cánh cửa sổ to tướng vùng Bavaria giờ tuy hoen ố, xám xịt nhưng vẫn lung linh dưới ánh nến chiếu vào tạo ra muôn màu ánh sáng kỳ ảo.

Nhưng không có tác phẩm nghệ thuật nào hoành tráng hơn một chiếc quan tài bằng vàng phía sau bàn thờ, được khóa kỹ trong lồng bằng thủy tinh và sắt thép. Tuy có kích cỡ chỉ bằng một chiếc rương lớn có hình dáng như một cái nhà thờ thu nhỏ, cái hòm đựng thánh tích này trở thành điểm nhấn của nhà thờ, nguyên cớ cho việc một giáo đường khổng lồ đến như vậy đã được xây cất. Làm bằng vàng ròng, chiếc hòm đựng thánh tích đã được chế trước khi nhà thờ này đặt móng. Do Nicolas của Verdun thiết kế từ thế kỷ XIII, quan tài được suy tôn như chuẩn mực của tác phẩm bằng vàng thời trung cổ còn sót lại.

Trong khi Jason vẫn tiếp tục ngẫm nghĩ, buổi lễ dần dần trôi vào giai đoạn kết, được đánh dấu bằng những hồi chuông và lời cầu nguyện. Cuối cùng là lễ ban bánh thánh. Những người hành lễ chầm chậm rời các dãy ghế của mình xếp hàng thứ tự theo dọc theo hành lang lên nhận lộc thánh.

Khi đến lượt mình, Mandy vội đứng dậy với những người khác cùng dãy ghế. Cô rút cánh tay mình khỏi Jason: “Mình sẽ quay lại ngay thôi”. Cô khe khẽ nói.

Jason ngắm nhìn hàng ghế trống không của mình và đám đông đang chậm chạp tiến lên phía bàn thờ. Sốt ruột chờ Mandy quay trở lại, cậu đứng dậy duỗi chân. Lúc này cậu mới có dịp để ngắm nghía bức tượng đứng cạnh phòng xưng tội. Vào trong này rồi cậu mới thấy tiếc vì đã uống hết lon coca thứ ba mang theo. Cậu cố nhìn ngoái ra sảnh ngoài của nhà thờ, ở đó có một toalét công cộng bên ngoài gian giữa.

Ngoái lại một lần nữa, Jason là người đầu tiên phát hiện một nhóm linh mục đi hàng một tiến vào từ tất cả các cửa hậu của nhà thờ. Mặc dù họ mặc quần áo linh mục màu đen dài lụng thụng, choàng thắt lưng nhưng dường như có điều gì đó làm cậu thấy lạ. Họ đi quá nhanh với dáng vẻ dứt khoát của nhà binh, tuồn vào bên trong nhà thờ như những chiếc bóng.

Liệu đây có phải là một phần của buổi lễ không?

Nhìn thoáng qua nhà thờ thấy đã có những bóng khoác áo choàng đen khác nữa ở các cửa ra vào, thậm chí đứng ngay cả trên bục cạnh bàn thờ. Dù cho họ cúi đầu xuống với vẻ ngoan đạo nhưng hình như tất cả đang đứng gác thì phải.

Điều gì đang diễn ra vậy?

Cậu thấy Mandy đứng gần bàn thờ. Cô vừa nhận xong bánh thánh, vẫn còn một đám người đứng phía sau cô. Bánh thánh, Jason có thể đọc thấy từ đó trên đôi môi mấp máy của họ.

“Lạy Chúa!”. Cậu tự trả lời mình.

Buổi lễ thánh kết thúc. Người đi lễ cuối cùng đã quay về chỗ ngồi của mình, kể cả Mandy. Jason vẫy vẫy cô vào hàng ghế rồi ngồi xuống bên cạnh.

“Tất cả những linh mục kia làm gì vậy?” Cậu hỏi, nhoài người ra phía trước.

Cô đã quỳ rồi gục đầu xuống. Trả lời duy nhất của cô là một tiếng suỵt khẽ. Cậu ngồi lui lại. Hầu hết những người dự lễ đều đã quỳ lạy, đầu cúi xuống. Chỉ còn một ít người giống như Jason không nhận bánh thánh vẫn ngồi. Ở phía trước, vị linh mục đã kết thúc công việc thu dọn trong khi ngài tổng giám mục già cả vẫn ngồi thẳng đuỗn trên ghế, đầu cúi gập xuống sát ngực nửa như ngủ gật.

Nét huyền bí và sự phô bày gần như đã mất hẳn trong tâm trí của Jason. Có chăng chỉ là áp lực của cái bàng quang, tất cả những gì cậu muốn chỉ là nhanh chóng rời khỏi đây. Jason thậm chí còn khẽ chạm vào khuỷu tay Mandy giục cô đứng dậy.

Bỗng nhiên hành động phía trước làm cậu dừng lại. Những linh mục ở hai bên bàn thờ rút vũ khí ra từ dưới các lớp áo choàng. Ánh thép của nòng súng loang loáng vết dầu qua ánh sáng từ các ngọn nến, những khẩu Uzis, được gắn nòng giảm thanh đen sì.

Một phát súng nổ, tiếng không to hơn tiếng ho của một người nghiện nhổ toẹt thuốc ngang qua bàn thờ. Những cái đầu ngẩng lên từ các hàng ghế. Sau bàn thờ, người linh mục mặt trắng bệch luống cuống. Dường như đau nhói vì bị thương, ông ta ngã vật xuống bàn thờ, nôn ộc ra rượu vang trộn lẫn máu của chính mình.

Tiếp đó là một phút im lặng đến ghê người. Tiếng gào thét từ đám người đi lễ, Mọi người đứng phắt dậy. Ngài tổng giám mục già cả run rẩy, rê rê đôi chân khiếp sợ. Tiếng động bất thần đã làm rớt chiếc mũ thánh của ngài xuống nền nhà.

Những linh mục lướt đi dọc theo lối đi, từ phía sau và hai bên cánh gà. Mệnh lệnh được phát ra từ các thứ tiếng Đức có, Pháp có, Anh có.

“Im, không được động đậy!”.

Giọng nói như bị chặn lại, các khuôn mặt giấu trong những chiếc mũ choàng, bị che khuất thêm nữa bởi thứ giống như mặt nạ bằng lụa đen. Chỉ có những khẩu súng đang giơ lên ngắt quãng mệnh lệnh của họ.

“Ngồi yên hay muốn chết!”

Mandy ngồi xuống cạnh Jason. Bàn tay cô nắm lấy tay cậu. Jason nắm chặt những ngón tay của cô gái, nhìn xung quanh không chớp mắt. Tất cả các cánh cửa đều bị đóng, canh gác chặt.

Điều gì đang xảy ra vậy?

Từ trong đám linh mục mang súng gần cửa ra vào chính, một bóng người xuất hiện, ăn mặc giống hệt như những người khác, chỉ có điều cao hơn, hay nói chính xác cao vọt hơn. Áo choàng của gã trông giống như cái choàng trùm đầu hơn. Rõ ràng đây là một kẻ cầm đầu nào đó. Gã không mang theo vũ khí, bước đi đầy tự tin dọc lối giữa giáo đường.

Y gặp ngài tổng giám mục ở bàn thờ. Một cuộc tranh cãi gay gắt diễn ra. Phải mất mấy phút, Jason mới nhận ra rằng hai người đang trao đổi với nhau bằng tiếng Latinh. Đột nhiên, ngài tổng giám mục ngã vật ra sau, hoảng hốt.

Kẻ cầm đầu lùi sang một bên. Hai tên tiến lên phía trước. Lại có tiếng súng nổ. Nhưng lần này mục đích không phải là giết chóc. Chúng bắn vào nắp trên của cái rương bên ngoài chiếc quan tài bằng vàng. Lớp thủy tinh bên ngoài dường như chùn lại nhưng vẫn có vẻ chịu được sức công phá của những viên đạn. Rõ ràng nó có khả năng chống đạn xuyên thủng.

“Đồ kẻ cướp…” Jason lẩm bẩm. Đây là một vụ cướp lên kế hoạch hoàn hảo đến từng chi tiết.

Ngài tổng giám mục có vẻ như đã hồi tỉnh lại sau khi thấy cái nắp thủy tinh chịu được những phát đạn. Gã cầm đầu nhóm linh mục giả danh huơ huơ tay, nói bằng tiếng Latinh. Ngài tổng giám mục lắc đầu.

Gã lại quay sang nói bằng tiếng Đức: “Ngài phải chịu trách nhiệm về sinh mạng của những bề tôi của ngài”.

Y vẫy thêm hai linh mục giả danh lên phía trước. Chúng đứng cạnh cái rương bị bọc kín, nhấc những chiếc đĩa lớn bằng kim loại sang hai bên quan tài. Việc đó có hiệu quả ngay lập tức.

Mặt thủy tinh vốn chống được đạn bắn xuyên, phải hứng một loạt đạn lúc nãy, đã bị biến dạng yếu đi nhưng bỗng phát tiếng nổ bung ra ngoài như thể bị đẩy mạnh vì một cơn gió vô hình nào đó. Trong ánh nến nhợt nhòa, cái quan tài chao đi chao lại, lắc rất mạnh. Jason cảm thấy như có một áp lực bất ngờ, tai bỗng ù đi như thể các bức tường của nhà thờ bị đẩy mạnh xô vào bên trong. Áp lực làm tai cậu điếc hẳn, góc nhìn dường như bị vặn xoắn lại.

Cậu quay lại phía Mandy.

Cô vẫn nắm chặt tay cậu, nhưng cổ của cô gái như bị lật ngược về phía sau, mồm há hốc.

“Mandy…”

Từ khóe mắt, Jason cũng thấy những người đi lễ khác cũng ở vào tư thế bất thường tương tự. Bàn tay của Mandy bỗng run bần bật trong tay cậu. Những giọt nước mắt lăn trên mặt cô, dần biến thành máu khi cậu nhìn vào. Cô không thở được nữa. Cô bỗng giãy lên vài cái rồi cứng đờ, giật tung khỏi cánh tay của Jason. Ngay lúc ấy, cậu cũng cảm thấy như bị điện giật truyền qua từ ngón tay của cô.

Cậu đứng phắt dậy, quá sợ để ngồi yên.

Một vệt khói mỏng bốc lên từ cái miệng há hốc của Mandy.

Đôi mắt của cô chuyển từ màu đen sang trắng bợt. Rồi từ đôi mắt đã thấy có ánh đen.

Chết!

Jason, câm lặng vì sợ hãi tìm kiếm vô vọng trong nhà thờ. Tất cả diễn ra đúng như thế, ở khắp nơi. Chỉ có vài ba người thoát: một vài đứa trẻ bám chặt vào cha mẹ, khóc lóc rền rĩ. Jason nhận ra ngay ai là người không bị. Đó là những người không tham gia vào vụ ăn bánh thánh.

Giống như cậu.

Cậu ngồi thụt vào bóng tối của bức tường. Hành động của cậu lúc này chẳng ai để ý. Lưng cậu chạm vào một cánh cửa, không bị các linh mục canh giữ. Thực ra đó không phải là một cái cửa.

Jason đẩy mạnh để có thể trườn vào bên trong phòng xưng tội. Cậu ngã khuỵu xuống, khom khom người rồi lấy hai tay ôm chặt.

Từ đôi môi cậu mấp máy lời cầu nguyện.

Bỗng nhiên tất cả chấm dứt, Jason cảm thấy như có cái gì đó ở trong đầu. Một bản nhạc pop. Giảm áp lực. Những bức tường của nhà thờ chao đảo.

Cậu đang khóc, những giọt nước mắt lạnh lẽo lăn trên gò má.

Jason đánh liều ngó nhìn qua một cái lỗ ở cánh cửa phòng xưng tội.

Jason không tin nổi vào mắt mình nữa, cậu đã nhìn thấy rõ gian giữa của giáo đường và bàn thờ. Không gian khét lẹt mùi tóc cháy. Những tiếng kêu gào, rên rỉ vẫn văng vẳng đâu đó, nhưng chỉ nghe thấy ư ử từ cổ họng một vài nạn nhân. Đó là những người vẫn còn sống. Một bóng người với bộ quần áo rách tả tơi, đúng ông ta là một kẻ vô gia cư, tập tễnh bước ra khỏi dãy ghế cầu nguyện đi dọc theo hành lang cạnh. Vừa kịp đi được mươi bước, đã bị bắn từ sau gáy. Một phát súng, thân hình ông ta đổ vật xuống.

“Ôi lạy Chúa…”

Gắng kìm nén khỏi òa lên khóc, Jason cố nhìn vào phía bàn thờ.

Bốn linh mục nhấc cái quan tài bằng vàng ra khỏi cái rương lớn đã bị vỡ toang. Xác chết của vị linh mục vừa bị hạ sát, bị gạt ra khỏi bàn thờ, thế vào chỗ đó là chiếc hòm đựng di thánh. Gã cầm đầu gỡ miếng vải đen lớn quàng quanh chiếc áo choàng của y. Các linh mục mở nắp quan tài đựng di thánh rồi trút những thứ bên trong vào một chiếc túi. Trống rỗng, cái quan tài giờ đây chẳng còn giá trị gì nữa bị quẳng xuống nền nhà thờ, chẳng ai để tâm đến nữa.

Gã chỉ huy khoác chiếc túi lên vai rồi quay đầu hướng ra phía cửa, giữ chặt những di vật vừa đánh cắp.

Ngài tổng giám mục gọi y. Lại bằng tiếng Latinh, nghe như một câu chửi.

Câu trả lời duy nhất của gã là một cái vẫy tay.

Một linh mục khác bước tới phía sau ngài tổng giám mục, gí khẩu súng lục vào gáy ngài.

Jason khuỵu xuống, chả muốn nhìn thấy cảnh này nữa. Cậu nhắm mắt lại.

Lại nghe thấy những phát súng khác ở khắp nơi trong nhà thờ. Lẻ tẻ, rời rạc. Những tiếng kêu bỗng tắt hẳn. Cái chết đang bao phủ nhà thờ khi những linh mục tàn sát nốt vài người ít ỏi sống sót.

Jason nhắm mắt lại và cầu nguyện.

Một chút trước đó, cậu thoáng thấy cái gù vai phía bên trong áo khoác của gã cầm đầu. Cái áo khoác đen phanh ra khi gã nhấc tay lên để lộ một phù hiệu bên trong: một con rồng cuộn tròn đuôi quấn xung quanh cổ. Hình hiệu này thật xa lạ với Jason, nhưng nó cho người ta một cảm giác giật gân, có vẻ như Ba Tư nhiều hơn là châu Âu.

Phía bên ngoài cánh cửa phòng xưng tội, nhà thờ bỗng trở nên im lặng.

Những bước chân đi ủng tiến gần lại chỗ cậu đang nấp.

Jason nhắm mắt thật chặt cố vượt qua nỗi sợ hãi, một điều khó có thể có được.

Tất cả chỉ vì một túi xương.

Dù cho nhà thờ đã được xây dựng quanh những nắm xương khô đó, có biết bao nhiêu vị đế vương đã cúi mình trước chúng, và ngay cả chính lễ hội này, để tôn vinh những người đã từ lâu đi vào cõi vĩnh hằng - Bữa tiệc của Ba Vua.

Một câu hỏi bỗng hiển hiện thật rõ ràng trong đầu cậu: “Tại sao??”.

Hình ảnh Ba vị Vua có thể được tìm thấy trong khắp nhà thờ, cái thì được làm bằng đá, cái thì bằng thủy tinh, cái thì bằng vàng. Trên một bức tường, những nhà thông thái đã dẫn đàn lạc đà đi qua sa mạc, nhờ được ngôi sao của Bethelehem dẫn đường. Trên một bức khác mô tả lễ tôn vinh chúa Jesus hài đồng, cho thấy những bóng người đang quỳ xuống dâng lên những món quà bằng vàng và trầm hương.

Nhưng Jason đã khép lại trong tâm trí mình tất cả những thứ đó. Những gì cậu có thể hình dung ra bây giờ là nụ cười cuối cùng của Mandy, và bàn tay cô chạm vào thật mềm mại.

Tất cả đã mất đi rồi.

Bước chân dừng lại ở cánh cửa chỗ cậu ngồi.

Cậu lầm lũi khóc, cố tìm ra câu trả lời cho vụ tắm máu này.

Tại sao vậy?

Tại sao lại lấy cắp hài cốt của ba vị Tiên tri?

Đằng sau quả cầu thứ Tám

Ngày 24 tháng 7, 4 giờ 34 phút

Federick, Marryland

Kẻ phá hoại đã tới.

Grayson Pierce áp chiếc xe mô tô của mình lọt vào giữa các tòa nhà màu xám xịt vốn là trung tâm của căn cứ Ford Detrick. Anh vẫn để cho chiếc xe nổ máy. Tiếng động cơ của nó không lớn hơn một chiếc tủ lạnh là bao. Anh đeo đôi găng tay màu đen giống hệt màu sơn của chiếc xe, vốn là một loại sơn đen tổng hợp có tên là NPL. Màu sơn này giúp hấp thụ ánh sáng mắt thường có thể nhìn thấy, làm cho những vật thông thường màu đen như sáng hơn. Bộ quần áo anh đang mặc trên người và cái mũ bảo hiểm đang đội cũng màu sắc tương tự.

Vẫn ngồi chồm hỗm trên chiếc mô tô, anh đã tiến gần đến cuối đường rẽ. Một cái sân nhỏ hiện ra trước mặt, bị chắn bởi những tòa nhà được xây bằng gạch vữa là Viện Nghiên cứu ung thư Quốc gia, một bộ phận trực thuộc của Viện Nghiên cứu y học quân đội về các bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ, có tên tắt là USAMRIID. Từ nơi đây, cuộc chiến tranh của nước Mỹ chống nạn khủng bố sinh học đã được phát động thông qua một loạt phòng thí nghiệm xây cất trên diện tích sáu mươi nghìn feet vuông.

Gray tắt máy nhưng vẫn ngồi trên xe. Đùi gối trái của anh tỳ lên trên cái túi đựng bảy mươi nghìn đôla. Anh vẫn ở bên trong đoạn đường hẻm, tránh không đi vào cái sân trống. Anh thích bóng tối hơn. Trăng đã lặn từ lâu nhưng mặt trời chắc cũng chưa kịp mọc ít nhất trong vòng 20 phút nữa. Ngay cả các ngôi sao vẫn đang bị các đám mây còn rơi rớt lại sau trận mưa mùa hè đêm qua che khuất.

Liệu mẹo của anh có trụ được không?

Anh nói khẽ vào chiếc micro đeo dưới cằm: “Lừa gọi chim ưng. Tôi đã tới chỗ hẹn. Sẽ đi bộ tiếp”.

“Roger, chúng tôi thấy anh từ vệ tinh rồi”.

Gray cố cưỡng lại ý định ngước nhìn lên và vẫy tay. Anh ghét không muốn bị người khác quan sát và dò xét, nhưng việc lần này lại quá lớn. Anh đành phải nhân nhượng: thực hiện cuộc gặp đơn độc. Đối tác của anh vốn là kẻ đồng bóng hay thay đổi. Phải mất sáu tháng mới kiếm được mối này thông qua trung gian từ các quan hệ ở Liby và Sudan. Chẳng dễ dàng chút nào cả. Tiền bạc không đem lại sự tin cậy, đặc biệt trong phi vụ này.

Anh cúi xuống cầm lấy chiếc túi rồi khoác lên vai. Chán chường, anh tạt xe vào một ban công trong bóng tối, gạt chân chống rồi bước ra khỏi chiếc xe.

Anh vượt qua con hẻm. Lúc này vẫn còn vài ba cặp thức giấc, hầu hết chỉ là mắt điện tử. Tất cả nhận dạng của anh đã được kiểm tra ở cửa Old Farm, canh gác lối ra vào của căn cứ.

Anh nhìn ánh dạ quang lấp lánh trên chiếc kim giây của chiếc đồng hồ thợ lặn đang đeo trên tay mác Breitling. 4h45 phút. Còn 15 phút nữa mới tới cuộc gặp. Tất cả phụ thuộc rất nhiều vào thành công của anh ở đây.

Gray đã đến tới điểm hẹn. Tòa nhà số 470. Vào giờ này, tòa nhà hoàn toàn trống toang vì tháng tới đã có kế hoạch phá dỡ nó rồi. Chả ai quan tâm, tòa nhà trở thành một điểm hẹn lý tưởng, dù cho việc chọn nơi này cũng có phần hài hước. Vào những năm 60 người ta đã dùng địa điểm này làm nơi chế biến tác nhân gây ra bệnh than rồi đựng chúng vào những thùng phuy lớn. Việc sản xuất loại virut gây chết người tiếp tục mãi cho đến khi người ta chấm dứt sản xuất chất độc hóa học và năm 1971. Từ đó đến nay, tòa nhà bị bỏ không, trở thành một nhà kho chứa hàng khổng lồ của Viện nghiên cứu ung thư quốc gia.

Nhưng một lần nữa câu chuyện liên quan đến virut bệnh than lại được tiến hành trong ngôi nhà này. Anh ngước nhìn lên, tất cả các cửa sổ đều có một màu tối sẫm.

Anh sẽ phải gặp gỡ kẻ bán trên tầng bốn.

Bước tới cửa ngách, anh dùng thẻ từ để mở khóa vốn được đối tác từ căn cứ cung cấp. Anh đeo trên vai một nửa số tiền để trả cho người đàn ông. Một nửa kia đã được chuyển qua ngân hàng nửa tháng trước đây. Gray cũng mang theo một con dao nhựa dài một feet (khoảng 30cm) giấu kỹ dưới khuỷu tay áo.

Thứ vũ khí duy nhất của anh.

Anh chả dại gì đem thêm thứ gì khác nữa qua cửa an ninh.

Gray khép cửa lại rồi bước tới khu vực cầu thang được hắt ra từ biển chữ EXIT màu đỏ. Anh vớ lấy chiếc mũ xe máy và đeo kính nhìn ban đêm. Mọi vật trở nên sáng bừng với màu xanh lá cây và màu bạc. Anh leo lên cầu thang và nhanh chóng trèo lên tầng bốn.

Lên đến nơi, anh đẩy mạnh cánh cửa ở hành lang.

Anh cũng không biết mình sẽ gặp đối tác ở điểm nào. Anh chỉ có thể chờ tín hiệu của kẻ đó. Anh dừng lại ở ngưỡng cửa để thở rồi quan sát phía trước. Anh chả thích chuyện này tý nào.

Khu vực cầu thang nằm ở góc tòa nhà. Một hành lang chạy dài ở phía trước, còn hành lang kia chạy về bên trái

Những cánh cửa văn phòng lắp kính mờ nằm dọc theo tường trong, còn cửa sổ quay ra hướng đối diện. Anh chậm rãi bước thẳng lên phía trước, căng mắt xem có dấu hiệu gì bất thường.

Một luồng ánh sáng rọi qua một cửa sổ, chiếu thẳng vào người Gray. Bị lóa mắt vì đeo kính nhìn đêm, anh lăn vội vào một góc tường, tựa lưng vào bóng tối. Liệu mình đã bị phát hiện rồi chăng? Ánh đèn lại quét sang chiếc cửa sổ khác, chiếu ngang qua gian phòng phía trước anh.

Nhoài người ra, anh nhòm qua một trong những chiếc cửa sổ. Chỗ này nhìn ra cái sân rộng ngay trước tòa nhà. Bên kia đường một chiếc xe tuần tra chậm chạp lăn trên đường phố. Ngọn đèn pha phía trước chiếc xe chiếu sáng cả cái sân.

Lính tuần tra.

Liệu chuyện này có làm đối tác chột dạ không?

Khẽ văng tục, Gray chờ đến khi chiếc xe quay đầu lại. Tốp tuần tra biến mất trong chốc lát, đi ngang qua một vật như thể lù lù nhô lên ở giữa sân phía dưới. Trông giống như một con tàu vũ trụ cũ nát nhưng thực ra nó là một bồn bằng thép có thể chứa được tới một triệu lít dung dịch lỏng, cao ba tầng dựa trên hàng chục cái chân đế. Xung quanh giờ đây ngổn ngang thang và giàn giáo, người ta đang cố gắng khôi phục cho nó trở lại thời hoàng kim trước kia khi còn là một thiết bị nghiên cứu thời Chiến tranh lạnh. Ngay cả lối đi bộ hẹp trước đây vốn chạy vòng quanh chính giữa quả cầu khổng lồ này cũng đã bị thay thế.

Gray biết người ta đã đặt tên cho quả cầu khổng lồ này tại căn cứ.

Quả cầu thứ Tám.

Một nụ cười miễn cưỡng trên vành môi khi anh nhận ra vị trí chẳng lấy gì làm may mắn của mình lúc này.

Bị vây bọc phía sau Quả cầu thứ Tám.

Cuối cùng đám tuần tra cũng xuất hiện trở lại phía trước, chậm rãi đi qua trước sân rồi đi khuất.

Hài lòng, Gray đi tiếp đến cuối hành lang. Một bộ cửa đẩy hai lớp đã chặn lối hành lang lại, nhưng những chiếc cửa sổ hẹp trên đó đã cho thấy một căn phòng rộng hơn phía trước. Anh thấy những chiếc hộp đựng mảnh mai, bằng thủy tinh và kim loại. Một trong số những phòng thí nghiệm cũ. Không có cửa sổ, tối om.

Việc anh đến đây chắc đã bị phát hiện.

Một luồng ánh sáng mới chói lòa bên trong, sáng đến mức buộc Gray phải tránh không nhìn vào kính nhìn ban đêm. Ánh đèn flash. Nhấp nháy ba lần.

Một tín hiệu.

Anh bước đến cửa ra vào, dùng một ngón chân để đẩy cánh cửa mở toang ra. Anh khẽ lách vào qua một khe hẹp.

“Hãy tới đây” Một giọng nói vang lên điềm tĩnh.

Lần đầu tiên Gray nghe thấy giọng của đối tác của mình. Cho đến tận thời điểm này, mọi thứ vẫn luôn là sự im lặng đến thật khó chịu.

Đó là giọng của một phụ nữ. Điều này làm cho anh chán chường. Anh chả hề muốn có sự ngạc nhiên nào hết.

Gray men theo một đống bàn được xếp ghế lên trên. Cô gái ngồi trên một trong số những chiếc bàn. Những chiếc ghế còn lại vẫn được xếp lên trên. Trừ một cái. Đối diện với cái bàn. Chiếc bàn động đậy khi cô đá chân vào một chân ghế.

“Ngồi xuống.”

Gray những tưởng sẽ gặp một nhà khoa học đang run rẩy, một người nào đó tìm cách có được một ngân khoản thêm. Phản bội để được thuê mướn ngày càng trở nên phổ biến trong các cơ sở nghiên cứu hàng đầu.

USAMRIID cũng không phải là trường hợp ngoại lệ… chỉ có điều là hàng ngàn lần nguy hiểm chết người hơn. Mỗi ly ống nghiệm đem bán nếu như được sử dụng phun vào không gian ở ga xe điện ngầm hoặc trạm xe buýt có thể giết chết hàng nghìn sinh mạng.

Và cô ta đang bán mười lăm cái ly như vậy.

Anh ngồi xuống ghế, đặt túi tiền lên trên bàn.

Đó là một phụ nữ châu Á… Ồ không phải, lai châu Á. Đôi mắt cô ta mở to, nước da ngăm ngăm, xạm nắng như đồng hun. Cô mặc một bộ áo liền quần cổ khoét tròn trông chả khác bộ quần áo y đang mặc, ôm lấy thân hình thon thả, duyên dáng. Một chiếc dây chuyền bằng bạc đeo trên cổ lấp lánh có hình một con rồng nhỏ đang cuộn tròn lại. Gray nhìn kỹ cô gái. Trông cô ta có nét của Long nương, cũng có vẻ hiếu chiến như mình, thật chán.

Tất nhiên, khẩu Sig Sauer 9 ly có gắn thiết bị giảm thanh chĩa vào ngực anh có thể làm cô ta tự tin. Nhưng câu nói tiếp của cô gái mới làm anh ớn lạnh.

“Chào buổi tối, chỉ huy Pierce.”

Gray giật mình khi nghe thấy tên mình.

Nếu như cô ta đã có thể biết được điều đó..

Anh né người…nhưng đã quá muộn..

Viên đạn được bắn ở cự ly gần nhất.

Phát súng làm anh bật ngửa người ra phía sau kéo theo cả chiếc ghế. Anh ngồi phệt tựa lưng hẳn vào ghế. Ngực đau nhói làm anh không thở nổi. Gray cảm thấy trong miệng mình như có máu.

Bị lừa rồi…

Cô gái bước vòng quanh chiếc bàn, gần như nằm lên trên thân hình nằm bệt của anh, súng vẫn chĩa vào người không để anh một cơ may nào chống cự. Cái dây chuyền bạc vẫn tòng teng và sáng lấp lánh. “Tôi đoán là ông đang ghi âm tất cả câu chuyện này qua chiếc mũ xe máy của mình phải không, Chỉ huy Pierce? Thậm chí truyền về tận Washington… đến Sigma. Chỉ huy không phiền nếu tôi mượn sóng một lúc được không?”

Anh chẳng có cách để phản kháng.

Cô gái xích lại gần chút nữa. “Chỉ mươi phút nữa thôi, Hiệp hội sẽ đóng cửa toàn bộ căn cứ Fort Detrick. Rải virus bệnh Than xuống toàn bộ căn cứ. Trả món nợ cho việc Sigma đã can thiệp vào hoạt động của chúng tôi ở Oman. Nhưng tôi còn thiếu ngài giám đốc của chỉ huy, Painter Crowe, một thứ nữa. Một thứ rất riêng tư. Việc này liên quan đến chị tôi cũng hoạt động trong nghề, Cassandra Sanchez”.

Nòng súng chĩa thẳng vào mặt anh.

“Máu trả máu”

Cô bóp cò.

***

5 giờ 2 phút

Washington D.C.

Cách đó bốn mươi hai dặm, đường liên lạc với vệ tinh bị tắt ngóm.

“Thế người trợ thủ cho anh ta ở đâu?” Painter Crowe cố ghìm không văng tục, vẫn giữ giọng bình tĩnh. Sợ hãi không giải quyết được gì cả.

“Vẫn còn mười phút nữa”

“Liệu cậu có tái lập lại đường link không?”

Người nhân viên kỹ thuật lắc đầu. “Chúng ta mất đường link chính với máy quay gắn ở mũ của anh ta rồi. Nhưng chúng ta vẫn quan sát được từ vệ tinh NRO xuống căn cứ”. Anh ta chỉ vào một màn hình khác. “Có thể thấy hình ảnh đen trắng của Fort Detrick, tiêu điểm là cái sân nằm giữa các tòa nhà”.

“Thưa ngài?” Câu hỏi xuất phát từ nhân vật số 2, Logan Gregory.

Painter hiểu lý do vì sao người phó của mình Logan Gregory do dự. Chỉ có một nhóm vài ba người nắm quyền lực tối cao biết về Sigma và các nhân viên thuộc quyền: đó là Tổng thống, Chủ tịch Hội đồng Liên quân, Tổng tham mưu trưởng và các sếp trực tiếp của ông ta tại DAPRA. Sau vụ thay đổi nhân sự đối với những nhân vật chủ chốt năm ngoái, tổ chức này bị đặt dưới sự kiểm tra gắt gao.

Bất cứ thiếu sót nào đều không được phép xảy ra.

“Tôi không thể mạo hiểm tính mạng của một nhân viên được.” Painter nói. “Gọi họ vào cuộc”.

“Vâng, thưa ngài.” Logan bước tới chỗ máy điện thoại. Trông anh ta có vẻ giống kẻ đi tắm nắng ở California hơn là một nhà chiến lược hàng đầu: tóc vàng, da xạm nắng, rắn chắc nhưng bụng có vẻ hơi xệ một chút. Painter thì ngược lại, nửa gốc Mỹ, tóc đen, mắt xanh. Ông không hề xạm nắng. Ông không nhớ lần cuối cùng đi tắm nắng là lúc nào.

Painter đã muốn ngồi xuống, vùi đầu vào hai đầu gối. Ông mới nhận công việc điều hành tổ chức này được tám tháng trước đây. Hầu hết thời gian đó được dành để sắp xếp lại bộ máy, củng cố tình hình an ninh sau khi bị một tổ chức gián điệp nước ngoài có tên là Hiệp hội xâm nhập. Người ta chưa biết đã có những thông tin nào bị rò rỉ, bán hoặc lưu truyền vào lúc này vì vậy mọi thứ đều đã bị xóa sạch và làm lại từ đầu. Ngay cả ban chỉ huy trung tâm cũng bị đưa ra khỏi Arlington di dời tới một cứ điểm ngầm tại đây, ở Washington.

Thực ra, hôm nay Painter đã đến đây từ sớm để tháo dỡ và sắp xếp các hộp tài liệu vào văn phòng mới của mình khi nhận được cú điện thoại khẩn cấp từ vệ tinh trinh sát.

Ông đã nghiên cứu màn hình truyền từ vệ tinh NRO.

Một cái bẫy.

Ông đã biết Hiệp hội đang làm gì. Bốn tuần trước đây, Painter đã bắt đầu tung các điệp viên vào hành động tiếp tục, lần đầu tiên trong một năm nay. Đó cũng giống như một sự thử thách. Hai đội. Một ở Los Almos điều tra việc một cơ sở dữ liệu hạt nhân bị mất tích…và một vụ khác ở ngay sân nhà ông tại căn cứ Fort Detrick, chỉ cách Washington chưa đầy một giờ ô tô.

Vụ tấn công của Hiệp hội đã được toan tính làm chuyển tổ chức Sigma và những người lãnh đạo của nó. Để chứng tỏ rằng Hiệp hội vẫn còn đủ hiểu biết và kiến thức để phá hoại Sigma. Đó là một cú hat- trick để buộc Sigma phải co cụm, tập hợp lại hay thậm chí tan rã. Chừng nào nhóm của Painter bị loại ra khỏi vòng chiến, Hiệp hội sẽ rảnh tay để trắng trợn hành động.

Điều này không thể xảy ra được.

Painter đã ngưng không đi đi lại lại nữa rồi quay về phía nhân vật số 2, câu hỏi đã hiện lên trên khuôn mặt của ông.

“Tôi sẽ cắt nó đi.” Logan nói rồi gật đầu sau khi nghe qua tai nghe. “Liên lạc đã bị mất liên tục ở khắp cả căn cứ”.

Chắc rằng đây lại là một tác phẩm nữa của Hiệp hội.

Thất vọng, Painter tựa vào bàn nhìn chăm chú vào tập hồ sơ của phi vụ. In ngay trên bìa ngoài của tập hồ sơ là một chữ Hy Lạp đơn độc.

Sigma

Trong môn toán học, từ sigma bao gồm một tổng của tất cả các phần, sự hợp nhất các phần tử riêng rẽ thành một. Đó cũng là biểu tượng của tổ chức do Painter chỉ huy: Lực lượng Sigma.

Hoạt động dưới sự bảo trợ của DAPRA- Nhánh Nghiên cứu và phát triển của Bộ Quốc phòng- Sigma phục vụ cho nhánh công khai của Bộ Quốc phòng trên thế giới, được cử đi để bảo vệ, thu nhập và vô hiệu hóa các công nghệ thiết yếu đối với an ninh của nước Mỹ. Những thành viên của nó là một đội ngũ cán bộ tuyệt mật gồm những cựu binh sĩ của lực lượng đặc biệt- những người đã được tuyển mộ và đưa vào những chương trình đào tạo bác học nhanh chóng trong một loạt các môn khoa học, tạo ra một đội ngũ quân sự hóa những nhân viên được huấn luyện về kỹ thuật.

Hoặc nói đơn giản hơn: Các nhà khoa học giết người.

Painter mở tập hồ sơ trước mặt. Hồ sơ của viên chỉ huy nhóm công tác ngay trên cùng.

Tiến sĩ - Chỉ huy Grayson Pierce.

Tấm ảnh của anh ta như nhìn chằm chằm vào ông dán ngay góc trên cùng bên phải. Bức ảnh này được chụp trong thời gian anh bị tù một năm ở Leavenworth. Tóc đen cạo trọc lởm chởm, đôi mắt vẫn đầy vẻ hận thù. Cạo trọc đến tận đỉnh đầu, nét di truyền từ gốc Welsh vẫn lồ lộ với đôi gò má cao, mắt to và cái cằm bạnh. Nhưng nước da đỏ au lại mang dáng vẻ Texas, xạm đen vì nắng của vùng đồi núi hạt Browns.

Painter chả buồn liếc tập hồ sơ dày tới một inch này nữa. Ông đã thuộc lòng từng chi tiết. Gray Pierce gia nhập quân đội từ năm mười tám tuổi, vào biệt kích năm hai mươi mốt tuổi, vài ba lần được tặng thưởng trong khi tại ngũ. Vào tuổi hai mươi ba anh ta bị tòa án binh kết án do đánh một sĩ quan thượng cấp. Painter thuộc hết các chi tiết và câu chuyện xảy ra hồi đó đối với hai người ra sao lúc ở Bosnia. Nếu ở trong hoàn cảnh đó, Painter nghĩ, rất có thể mình cũng hành động như vậy. Dù sao thì trong lực lượng vũ trang quy chế vẫn như vậy. Người lính đầy huân chương này mất một năm trong tù ở Leavenworth.

Dù sao thì Gray Pierce vẫn quá có giá trị để bị vứt ra ngoài.

Quá trình đào tạo và tài năng của anh ta không thể bị phí phạm.

Sigma đã tuyển dụng anh ta ba năm trước đây, ngay sau khi mãn hạn tù.

Giờ thì Gray trở thành một con tốt trong ván cờ giữa Hiệp hội và Sigma.

Một con tốt sẽ phải thí.

“Tôi đã liên lạc được với an ninh ở căn cứ!” Logan cho biết với giọng nhẹ nhõm.

“Hãy liên lạc với họ.”

“Thưa ngài!” Viên kỹ thuật đứng phắt dậy, dây tai nghe vẫn dính lằng nhằng vào ván trộn. Anh ta liếc nhìn Painter. “Giám đốc Crowe, tôi bắt được dấu vết giọng âm thanh phản hồi.”

“Cái gì cơ?” Painter tiến sát đến nhân viên kỹ thuật. Ông giơ một bàn tay ngăn Logan lại.

Viên kỹ thuật đã vặn to cái loa vừa thu được lên.

Họ nghe được một giọng rất khẽ mặc dù đường truyền video bị trục trặc.

Một câu chửi thề “Mẹ kiếp…”

***

5 giờ 07 phút

Federick, Maryland

Gray vung một gót chân lên, đạp vào bụng cô gái. Anh nghe như có tiếng bịch đập vào thịt nhưng chỉ thế thôi không còn gì nữa. Tai anh ong lên sau cú đập của viên đạn vào cái mũ bảo hiểm Kevlar anh đang đội. Phát đạn đã làm rạn mặt nạ che mặt. Tai bên trái bỏng rát…

Anh bất chấp tất cả.

Co chân lại, anh khẽ rút con dao ngắn dấu trong cổ tay áo rồi chúi xuống dãy bàn bên cạnh. Một phát súng nữa, nghe như một tiếng ho lớn, như khoan vào vành tai. Gỗ bắn tung tóe từ mép bàn.

Anh nhìn ra rồi ngồi thụp xuống trong tư thế sẵn sàng, căng mắt tìm kiếm khắp căn phòng. Cú đá của anh đã làm cô gái đánh rơi chiếc đèn pin, lăn lông lốc trên sàn, vung ánh sáng khắp nơi. Anh xoa bóp ngón tay trên ngực. Phát súng đầu của kẻ sát nhân làm người anh vẫn nóng bỏng, đau rát. Nhưng không thấy vết máu.

Người đàn bà gọi Gray từ trong bóng tối: “Áo giáp tránh đạn bằng tinh thể lỏng.”

Gray cúi thấp xuống hơn nữa cố tìm ra vị trí của ả. Do cúi xuống duới gầm bàn nên màn hình bên trong cái mũ bị mờ tịt. Những hình ảnh ba chiều nhảy múa lộn xộn phía bên trong chiếc mũ ngăn cản tầm nhìn nhưng anh không dám tháo bỏ chiếc mũ vì nó đã trở thành vật phòng bị tốt nhất với thứ vũ khí mà người đàn bà kia đang cầm trong tay.

Vật đó và bộ quần áo tránh đạn.

Kẻ sát nhân đã nói đúng. Áo giáp tránh đạn bằng tinh thể lỏng được phòng thí nghiệm nghiên cứu quân đội Mỹ sản xuất năm 2003. Những sợi dệt áo tránh đạn được nhúng vào một chất lỏng cô đặc gồm các phân tử silic tan trong dung dịch polyetilen glycol. Khi vận động bình thường nó giống như một thứ chất lỏng nhưng khi một viên đạn bắn vào, vật liệu này rắn đanh lại thành một áo giáp ngăn không cho viên đạn xâm nhập vào. Chính cái áo tránh đạn này đã cứu tính mạng của y.

Ít nhất là lúc này.

Người đàn bà lại nói tiếp, bình tĩnh một cách lạnh lùng khi ả chầm chậm đi vòng tới cửa ra vào. “Ta đã gài chất nổ C4 và TNT vào tòa nhà này rồi. Việc đó chẳng khó khăn gì vì người ta dự kiến phá hủy căn cứ này rồi. Quân đội thật đáng khen khi đã bố trí cài đặt dây dẫn vào đây từ trước. Chỉ cần điều chỉnh một lượng thuốc nổ nhỏ thôi cũng có thể thay đổi phương thức làm nổ tung từ bên trong tòa nhà.”

Gray đã hình dung ra một cột khói và đám gạch vụn nổ tung, bốc cao lên trên bầu trời sớm mai. “Những chiếc ly đựng virut bệnh than…” Anh khẽ lẩm bẩm nhưng cũng đủ để người khác nghe được.

“Có vẻ như chuyện đó phù hợp với việc dùng chính kế hoạch phá hủy tòa nhà này để biến nó thành một hệ thống vận chuyển chất độc thì phải”

Lạy Chúa, con điếm này đã biến cả tòa nhà thành một quả bom sinh học rồi.

Chỉ cần những cơn gió mạnh, không chỉ là cái căn cứ này hiểm nguy mà toàn bộ thành phố Frederick kề bên bị đe dọa nữa.

Gray vận động. Phải tìm cách chặn nó lại. Nhưng ả đang ở đâu nhỉ?

Anh nhích về phía cửa ra vào, hiểu rất rõ ả đang cầm súng nhưng không thể vì điều đó mà dừng lại. Chuyện này quá mạo hiểm. Anh cố gắng chỉnh sáng lại để nhìn được trong đêm, nhưng tất cả những gì nhận được lại là một cú đập nữa tóe lửa bên tai. Màn hình phía trên mũ vẫn tiếp tục những hình ảnh nhảy múa hỗn loạn làm rối cả mắt.

Mẹ kiếp!

Anh tháo chiếc khóa cài rồi giật chiếc mũ vứt đi.

Một luồng gió mát lành thật dễ chịu như được khử trùng cùng một lúc. Gray nằm sấp xuống, một tay cầm chiếc mũ tay kia cầm con dao. Anh quay trở lại bờ tường sau rồi vội vã ra cửa. Gray đã nhìn thấy rõ ràng là chiếc cửa xoay chưa hề được đụng đến. Kẻ sát nhân vẫn còn ở trong phòng.

Nhưng ở đâu?

Mình có thể làm gì để ngăn cản ả lại? Anh nắm chặt cán dao. Súng đối với dao. Không phải là chuyện hay.

Tháo mũ ra rồi anh phát hiện bóng đen lướt nhẹ gần cửa ra vào. Anh dừng phắt lại, rồi bước đi yên lặng. Cô ả đang ngồi đó chỉ cách cánh cửa chưa đầy một mét được một cái bàn che chắn.

Ánh sáng ấm ướt át tràn vào lối vào sảnh, chiếu qua các của sổ của chiếc cửa xoay. Rạng đông gần tới, làm sáng bừng hành lang phía trước. Kẻ sát nhân nhất định phải lộ mình trước khi thoát ra được. Vào lúc này, ả bám chặt bóng tối của cái phòng thí nghiệm không có cửa sổ, cũng không biết là đối thủ của mình có vũ khí hay không.

Gray nghĩ phải chấm dứt trò chơi ú tim với ả này thôi.

Quay ngoắt một vòng, anh vung chiếc mũ ném về phía đối diện phòng thí nghiệm. Nó rơi đánh bộp một cái, đập vô một trong những lọ thủy tinh cũ ở đó.

Gray chạy đến chỗ ả ngồi. Anh chỉ có vài giây thôi.

Ả đã thoát khỏi chỗ ẩn nấp, xoay người để nhả đạn vào hướng phát ra tiếng động. Đồng thời ả lao vội về phía cửa ra vào, dường như sử dụng sức bật từ khẩu súng để lấy đà.

Gray không thể không cảm phục nhưng cũng không vì thế mà chậm bước.

Với cánh tay đã khoanh lại, anh vung mạnh con dao qua không khí. Đủ nặng và cân bằng đến độ hoàn hảo, con dao lao với tốc độ chính xác phi thường.

Con dao dâm trúng giữa họng cô ả.

Gray lao tiếp về phía trước.

Chỉ lúc đó anh mới nhận ra sơ suất của mình.

Con dao đâm xoẹt vô hại rồi rơi đánh xoảng xuống sàn nhà.

Lại là thứ áo giáp chết tiệt đó rồi.

Không còn nghi ngờ gì nữa ả biết về chiếc áo giáp chống đạn bằng chất lỏng anh đang mặc và ả cũng mặc một chiếc áo như vậy.

Vụ tấn công dù sao cũng làm ả loạng choạng. Ả nhào người xuống, quỳ xuống gối. Là một kẻ giết người đầy kinh nghiệm, ả không bao giờ rời mắt khỏi mục tiêu của mình.

Chỉ cách đó một bước, ả nhắm thẳng nòng súng khẩu Sig Saucer vào mặt Gray.

Và lúc này, anh lại không đội mũ bảo hiểm.

***

5 giờ 09 phút

Washington D.C

“Chúng ta lại mất liên lạc rồi” Viên kỹ thuật làu bàu.

Painter đã nghe được tiếng xoẹt từ lúc nãy rồi tất cả bỗng trở nên im lặng trên màn thu vệ tinh.

“Tôi vẫn liên lạc được với an ninh tại căn cứ.” Nhân vật số 2 nói.

Painter cố tập họp các mẩu đối thoại vừa nghe trên mạng lại.

“Y ném chiếc mũ bảo hiểm đi rồi”

Hai người kia nhìn chằm chặp vào ông.

Painter đã nghiên cứu tập hồ sơ trước mặt. Grayson Pierce không phải là một anh chàng đần. Bên cạnh khả năng tuyệt vời về quân sự, anh ta đã giành được sự quan tâm của Sigma do khả năng bẩm sinh và những cuộc thử thông minh. Anh ta chắc chắn vượt trên mức bình thường, hơn hẳn, nhưng cũng có những người lính thậm chí còn đạt điểm cao hơn nhiều. Điều trở thành yếu tố cuối cùng để anh ta được tuyển mộ chính là những hành động kỳ cục của anh ta thời gian bị giam ở Leavenworth. Mặc dù phải lao động khổ sai trong tù, Grayson vẫn tạo cho mình một chế độ học tập nghiêm ngặt: Sự khác biệt trong việc lựa chọn các môn học này đã làm Painter và viên giám đốc trước kia của Sigma trở nên bất đồng với nhau.

Trong nhiều lúc, anh ta tự chứng minh mình là một mớ mâu thuẫn: một người gốc Welsh sống ở bang Texas, một tín đồ của đạo Lão nhưng vẫn mang theo tràng hạt, một người lính lại nghiên cứu hóa học trong tù. Chính sự độc đáo về tâm tưởng đó đã đưa anh đến địa vị là thành viên của Sigma.

Nhưng chính sự nổi trội đó cũng đem lại cái giá phải trả.

Gray Pierce không phải là người dễ hòa đồng với người khác. Anh ta rất khó chịu khi phải hành động trong một nhóm.

Giống như bây giờ. Đi một mình. Ngược với thông lệ.

“Thưa ngài?” Nhân vật số 2 nài nỉ.

Painter thở mạnh “Vẫn còn hai phút nữa”

5 giờ 10 phút

Federick, Marryland

Gray thật may mắn. Kẻ giết người đã bắn quá nhanh trước khi chỉnh mục tiêu cẩn thận. Gray vẫn đang vận động, chỉ cố chúi xuống khỏi chỗ ban nãy. Một phát đạn trúng vào đầu đâu phải dễ dàng như xem trên phim.

Gray tiến sát cô ả, cố gạt mũi súng vào khoảng giữa hai người. Và cho dù cô ả cứ bắn thì anh vẫn còn cơ may sống sót.

Chỉ có điều sẽ bị thương nặng.

Cô ả bắn, đúng như vậy.

Viên đạn trúng vào đùi trái. Phát súng giống như một nhát rìu, làm đau buốt tận xương. Gray hét lên. Và tại sao lại không nhỉ? Đau kinh khủng. Nhưng anh không thể để ả thoát. Anh trút căm hận bằng cách giáng mạnh cùi trỏ vào họng ả. Nhưng chiếc áo giáp của ả đã cứng lại, giúp ả thoát.

Mẹ kiếp.

Ả lại bóp cò. Anh nặng hơn, khỏe hơn ả rất nhiều, nhưng ả đâu có cần đến sức mạnh của nắm đấm và đầu gối. Cô ả đã có sức mạnh của khẩu pháo hiện đại trong tay. Phát đạn đập mạnh vào bụng Gray. Đập xuyên đến tận xương sống, anh cảm thấy như ngưng thở. Chậm rãi, cô ả lại giơ khẩu súng ra phía trước.

Khẩu Sig Sauer có băng đạn mười lăm viên. Cô ả đã bắn bao nhiêu viên rồi? Chắc chắn vẫn còn đủ để biến Gray thành một đống thịt bầy nhầy.

Anh cần phải chấm dứt chuyến đi này.

Gray ngẩng đầu lên rồi dùng trán đập thật mạnh vào mặt cô ả. Nhưng ả đâu có phải là kẻ lần đầu tiên vào những vụ đánh lộn như vậy. Ả liền quay mặt tránh cú đòn sang một bên đầu. Dù sao anh cũng có đủ thời gian để giật một sợi dây thòng xuống từ chiếc bàn kề bên. Chiếc đèn đọc sách nối với sợi dây rơi xoảng xuống nền làm vỡ tung cái chao đèn bằng thủy tinh màu xanh.

Ôm thật chặt, anh đẩy ả lăn người lên trên cái đèn. Thật khó mà hy vọng những mẩu thủy tinh vỡ sẽ xuyên qua cái áo giáp. Nhưng đó đâu phải là ý đồ của anh.

Gray nghe thấy tiếng bóng đèn nổ bụp dưới sức nặng của hai người. Được rồi.

Co chân lại, anh nhảy ra ngoài. Đó là một trò chơi. Gray lao như bay đến chỗ công tắc đèn cạnh cái cửa đẩy.

Một tiếng súng cùng với cú đập vào phía dưới lưng của Gray.

Cổ anh như khựng lại. Người anh đập mạnh vào tường. Khi ngã xuống, bàn tay anh đã kịp với được bảng điện để bật công tắc. Ánh điện sáng bừng phòng thí nghiệm, lập lòe, dây điện tồi.

Gray lui lại về phía kẻ sát nhân.

Anh không hy vọng có thể dùng điện giật chết kẻ thù của mình. Điều đó chỉ có thể xảy ra trong phim ảnh mà thôi. Đó không phải là ý định của anh. Dù vậy, anh vẫn nuôi hy vọng ai đó sử dụng lần cuối cái đèn bàn đó vẫn chưa tắt điện.

Khẽ nhổm dậy, anh vòng lại.

Cô ả vẫn ngồi lên trên chiếc đèn vỡ, cánh tay dang ra về phía Gray, nòng súng chĩa thẳng. Ả bóp cò nhưng trượt. Một cánh cửa sổ của cái cửa xoay bị vỡ tan.

Gray bước vòng sang một bên lui ra xa khỏi tầm bắn. Ả ta không thể nhào theo anh được nữa. Ả như bị đông cứng tại chỗ không thể di chuyển được.

“Áo chống đạn tinh thể lỏng.” Gray nhắc lại lời của ả lúc nãy. “Chất lỏng làm chiếc áo giáp cơ động được nhưng cũng có nhược điểm”. Gray tiến đến phía ả, giật lấy khẩu súng.”Chất propylene glycol là một loại cồn. Một chất dẫn tuyệt vời đối với dòng điện, ngay cả một dòng điện nhỏ từ một chiếc bóng đèn vỡ ra cũng có thể dẫn điện ra khắp cả chiếc áo trong vài giây. Giống như bất cứ đòn tấn công nào, chiếc áo phải hứng chịu”.

Anh đá vào ống quyển chân cô ả. Chiếc áo giáp cứng như đá.

“Thật cứng đối với mày phải không?”

Chiếc áo giáp đã biến ả thành tù nhân.

Gray nhanh chóng lục soát khi thấy ả bắt đầu cựa quậy. Cố gắng lắm thì ả có thể vận động chậm chạp nhưng thật vô vọng. Ả đành buông xuôi. Mặt đỏ lự vì căng thẳng. “Mày sẽ không tìm thấy kíp nổ đâu. Tất cả đã được hẹn giờ, vào lúc…” Đôi mắt của ả nhìn xuống chiếc đồng hồ đang đeo trên tay. ”Chỉ hai phút nữa thôi. Mày sao có đủ thời gian để phá chỗ thuốc nổ”.

Gray để ý đồng hồ trên tay ả đã chạy dưới vạch 02.00.

Tính mạng của ả cũng gắn với con số đó. Anh nhìn thấy ánh mắt sợ hãi trong đôi mắt của ả - dù là kẻ giết người đi chăng nữa ả cũng là con người, sợ chính cái chết của mình - những phần còn lại khuôn mặt của ả lại cứng lên giống như chiếc áo tránh đạn cứng quèo đang mặc.

“Vậy mày giấu những chiếc ly đó ở đâu?”

Gray biết ả sẽ không nói cho mình biết. Nhưng anh nhìn chòng chọc vào đôi mắt của ả. Vào lúc này đôi tròng mắt ngước lên cao rồi hạ xuống nhìn vào Gray.

Mái nhà.

Có lý. Anh không cần sự khẳng định nào khác. Loại vi khuẩn bệnh than rất nhạy cảm với độ nóng. Nếu ả muốn loại hóa chất này nhanh chóng phát tán sau vụ nổ, thì những chiếc ly phải đặt ở trên cao, tác động bởi những chấn động đầu tiên của vụ nổ sẽ bắng tung lên cao. Ả không thể mạo hiểm để cho độ nóng của vụ nổ cháy rụi thứ vi khuẩn đã trở thành vũ khí được.

Trước khi Gray bước đi, ả nhổ vào anh, đánh vào má.

Anh cũng chẳng buồn lấy tay gạt đi nữa.

Anh không còn thời gian.

01.48

Gray đứng thẳng dậy lao vụt ra cửa.

“Mày không thể nào kịp được!” Cô ả gọi với. Tuy nhiên ả cũng hiểu anh đang lao rất nhanh đến chỗ quả bom vi trùng, chứ không phải chạy thoát thân. Giống như việc ả đã hiểu Gray quá rõ để nghi giả thuyết đó.

Gray chạy xuống hành lang bên ngoài rồi rẽ vào khu cầu thang. Anh bước vội xuống hai bậc thang để có thể với tay tới cửa trên mái nhà. Một cái then đã chốt chiếc cửa được sử dụng sơ tán khi xảy ra hỏa hoạn.

Nỗi sợ hãi quyết định giây phút này đây.

Gray lấy tay gạt cái then, đánh cạch một cái rồi lao vào khoảng không gian mờ mờ trước rạng đông bên ngoài. Có biết bao nhiêu chỗ có thể dấu được những chiếc ly: lỗ thông hơi, ống thoát, chảo vệ tinh…?

Ở đâu vậy?

Thời gian không còn nhiều.

***

5 giờ 13 phút

Washington D.C.

“Anh ta đang ở trên mái nhà kìa.” Người nhân viên kỹ thuật chỉ tay vào màn hình vệ tinh NRO.

Painter nhìn gần vào màn hình hơn để thấy một hình người bé tí hiện ra. Grayson đang làm gì trên mái nhà vậy? Painter cố nhìn sang khu vực chung quanh: “Liệu có thấy dấu hiệu gì của việc truy đuổi không?”

“Thưa ngài, tôi chẳng thấy gì cả.” Nhân viên kỹ thuật đáp lại.

Logan nói tay cầm điện thoại: “An ninh trong căn cứ báo cho biết có tín hiệu báo cháy xuất hiện ở tòa nhà 470.”

“Rất có thể người ta đã bỏ tín hiệu thôi báo cháy rồi.” Nhân viên kỹ thuật đốp lại.

“Liệu có thể cho nhìn gần thêm nữa không?” Painter hỏi.

Nhân viên kỹ thuật gật đầu rồi chỉnh một cái nút. Hình ảnh Grayson Pierce to dần lên. Cái mũ bảo hiểm của anh ta đã biến mất rồi. Tai trái anh ta trông như có vết máu sẫm. Anh ta tiếp tục đứng ngay phía cửa.

“Anh ta đang làm gì vậy?” Nhân viên kỹ thuật hỏi.

“An ninh căn cứ đang trả lời”, Logan báo cáo.

Painter lắc đầu nhưng một ý nghĩ thoáng qua làm ông lạnh cả người. “Hãy bảo an ninh căn cứ tránh xa ra. Liệu họ đã sơ tán bất kỳ người nào ở gần tòa nhà đó không nhỉ?”

“Thưa ngài?’

“Hãy làm như vậy đi.”

***

5 giờ 14 phút

Federick, Marryland

Gray nhìn kỹ mái nhà một lượt nữa. Còi cấp cứu tiếp tục vang lên. Anh phớt lờ tiếp tục nhìn ra ngoài. Anh vẫn ngẫm nghĩ về tình trạng bế tắc của mình.

Gray ngồi thụp xuống. Đã có trận mưa đêm qua. Anh hình dung cô ả chắc vừa mới kịp đặt những chiếc ly, sau trận mưa rào, rồi nhìn kỹ một lượt nữa và chú ý xem chỗ nào trên nền cát mỏng mịn màng sau trận mưa bị xới tung. Thật chẳng khó khăn gì vì anh biết ả nhất định phải đi qua cửa này. Đây là cánh cửa duy nhất.

Anh lần theo các vết chân của ả.

Chúng dẫn đến lỗ thông hơi bị bịt kín trên nóc.

Tất nhiên.

Lỗ thông hơi này sẽ được dùng như một thứ ống khói tuyệt vời để phát tán khí độc khi phần dưới của tòa nhà bị nổ tung, tạo ra một quả bom khí độc.

Quỳ xuống, Gray phát hiện ra chỗ ả loay hoay với cái nắp đậy rũ tung lớp bụi phía ngoài. Anh chẳng còn thời gian kiểm tra xem có cạm bẫy gì không. Anh giật mạnh làm tung cái lỗ thông hơi ra.

Quả bom nằm ngay bên trong cái ống. Mười lăm cái ly thủy tinh được sắp xếp theo hình ngôi sao chung quanh một thỏi chất nổ C4 nằm chính giữa đủ sức để làm tung chiếc hộp.

Gray nhìn chăm chú vào chất bột mầu trắng được nén đầy trong mỗi cái ống nhỏ. Bặm môi thật chặt Gray thò tay vào, thận trọng bưng quả bom ra ngoài ống. Một chiếc đồng hồ đo thời gian đang đếm ngược

00.54

00.53

00.52

Không còn gì vướng víu nữa, Gray đứng thẳng dậy. Anh kiểm tra thật nhanh quả bom. Nó được cài chống phá. Anh chẳng còn thời gian để giải mã các thứ dây và thiết bị điện tử. Quả bom sẽ nổ tung trong giây lát. Anh phải đưa nó ra xa tòa nhà này, khỏi khu vực phát nổ, tốt nhất là xa bản thân mình.

0.41

Chỉ còn một cơ hội.

Gray gói quả bom vào một cái túi nylon bẩn khoác lên vai rồi tiến ra phía trước tòa nhà. Những ngọn đèn pha soi rọi tòa nhà sau khi còi báo động rú lên. An ninh của căn cứ không thể nào tới đây lúc này được.

Gray không còn sự lựa chọn nào khác.

Anh phải dọn sạch…dù cho tính mạng mình ra sao.

Lui vài bước khỏi lan can nóc nhà, Gray hít một hơi thật dài rồi quay ngoắt về phiá trước tòa nhà. Đến chỗ hàng lan can nóc nhà bằng gạch, anh lấy đà rồi nhảy qua.

Gray nhảy xuống từ tầng thứ Sáu.

***

5 giờ 15 phút

Washington, D.C.

“Lạy Chúa!’ Logan thốt lên khi thấy Grayson nhảy từ mái nhà xuống.

“Thằng cha này chắc điên quá.” Viên kỹ thuật thốt lên, đứng bật dậy.

Painter chỉ chăm chú quan sát cú nhảy tự sát của người đàn ông. “Anh ta đang làm việc cần phải làm”.

***

5 giờ 15 phút

Federick, Marryland

Gray gập chân lại, hai cánh tay mở rộng để lấy thế thăng bằng. Anh đang lao xuống đất. Anh cầu mong quy luật của vật lý, sự phân tích của vận tốc, đường đạn và tốc độ đừng phản bội mình.

Gray đã sẵn sàng cho mọi hậu quả.

Hai tầng phía dưới và hai mươi yard nữa, cái mái có hình cầu của Quả cầu thứ Tám vươn lên để đón nhận. Cái quả cầu tròn chứa được một triệu lít chất lỏng này sáng long lanh sương sớm.

Anh vặn người giữa không trung, cố giữ cho đôi chân lao xuống trước.

Thời gian trôi nhanh. Hay anh đang làm như vậy.

Đôi chân đi giày của anh đập vào bên ngoài quả cầu. Chiếc áo giáp thân nhiệt bao bọc quanh mắt cá chân bảo vệ khỏi va đập. Rồi anh đập mặt xuống người xoài ra. Nhưng anh không tới được chính giữa của đỉnh quả cầu mà chỉ là đoạn cong chìa ra gần sát tòa nhà số 470.

Ngón tay đánh cục nhưng không gãy.

Thân hình anh trôi tuột theo vỏ ngoài bằng thép của quả cầu khổng lồ đẫm sương. Gray dang rộng đôi chân kéo lê ngón chân tránh bị va đập. Khi y đã quá ngưỡng không thể quay trở lại rồi thì rơi đánh bịch xuống bên quả cầu.

Khi má chạm vào quả cầu thép, Gray đã không thể nhìn thấy lối đi bộ hẹp cho đến khi lao vào đó. Chân trái bị va đập mạnh rồi cả thân hình đổ theo. Gray ngã xuống bằng hai chân và hai tay trên giàn giáo bằng kim loại được người ta dựng xung quanh phía giữa của quả cầu thép. Anh nhỏm dậy chân tê dại vì cú va đập và nỗi sợ hãi.

Bản thân anh cũng không tin được mình vẫn còn sống.

Gray cố kiếm chỗ cong của quả cầu trong khi kéo quả bom ra khỏi cái túi ngắn. Bề mặt của khối thép khổng lồ này bị lỗ chỗ những lỗ thủng có thời đã được các nhà khoa học sử dụng để quan sát các thí nghiệm bên trong. Trong tất cả những năm được sử dụng liên tục không có một loại vi khuẩn gây hại nào có thể thoát ra ngoài.

Gray cầu mong mọi việc vẫn sẽ được như vậy sáng hôm nay.

Anh liếc nhìn quả bom đang cầm trong tay.

0.18

Không còn thời gian để văng tục nữa, Gray chạy quanh lối hẹp để đi bộ, hy vọng tìm kiếm được một khe để nhét vào. Anh đã tìm thấy nó ngay phía bên kia quả cầu thép. Một cái cửa thép có lỗ nhỏ. Gray dừng lại, nắm lấy cái cần gạt và lắc.

Cái cần gạt ì ra không nhúc nhích.

Đã bị khóa.

***

5 giờ 15 phút

Washington, D.C.

Painter quan sát Grayson nắm lấy tay cầm của quả cầu thép khổng lồ. Ông nhận thấy nét căng thẳng tột độ và hiểu được sự khẩn cấp của tình hình. Painter cũng đã nhìn thấy vật nổ được lấy ra từ lỗ thông hơi. Ông biết mục tiêu của phi vụ của cả nhóm của Grayson: Lừa bằng được kẻ khả nghi buôn bán loại vi khuẩn biến thành vũ khí.

Painter không còn nghi ngờ gì nữa về hậu quả tại hại chết người kiểu gì bên trong quả bom.

Chất gây bệnh Than.

Rõ ràng là Grayson không thể tháo được kíp nổ, chỉ còn cách vứt nó đi mà thôi.

Anh ta không gặp may.

Liệu anh ta còn bao nhiêu thời gian nữa?

***

5 giờ 15 phút

Federick, Marryland.

0.18

Grayson lại tiếp tục chạy. Biết đâu lại còn một cái khe nữa. Anh lom khom quanh lối đi bộ. Anh cảm thấy như mình đang chạy bộ trong bộ đồ trượt tuyết, mắt cá chân vẫn cứng như đá trong bộ áo giáp.

Gray vòng tiếp phần còn lại của quả cầu.

Một cái khe xuất hiện ngay trước mặt.

“Này, gã kia, dừng ngay lại!”

An ninh của căn cứ.

Vẻ dữ tợn và tiếng hú của còi gần như làm anh phải tuân theo.

Gần như vậy.

Gray lại tiếp tục chạy. Một ánh đèn pha rọi vào người.

“Dừng lại! Nếu không chúng tôi sẽ bắn!”

Anh không còn thời gian để thương lượng nữa.

Tiếng súng nổ chói tai khi chạm vào bề mặt quả cầu, một vài viên khác trúng vào lối đi bộ. Chả có viên nào gần cả. Bắn cảnh cáo.

Anh tiến đến chỗ khe thứ hai, giật lấy tay gạt và đẩy mạnh.

Cái chốt khựng lại một chút rồi mở ra. Tiếng nấc vì xúc động thoát ra từ Gray.

Anh quẳng ngay quả bom vào lỗ hổng bên trong quả cầu, đóng chặt cửa lại rồi tựa lưng vào quả cầu, ngồi khuỵu xuống.

“À mày đây rồi, ở nguyên chỗ đó!”

Gray cũng chả có ý định đi đâu nữa. Anh chỉ cảm thấy thật hạnh phúc, bụng cồn cào. Quả cầu vang lên như có một quả chuông được gõ. Thiết bị đã nổ ở bên trong, giữ an toàn.

Nhưng đó mới chỉ là màn đầu tiên để những chuyện lớn hơn sẽ đến.

Giống như tiếng vỗ tay của những vị thần vĩ đại, hàng loạt tiếng nổ lớn làm rung chuyển mặt đất.

Bum…bum…bum

Đã được tính toán, thời gian và sắp xếp kỹ lưỡng.

Đó là sự phá hủy qua hệ thống dây dẫn đối với tòa nhà 470.

Mặc dù đứng ở phía xa tận bên kia quả cầu, Gray vẫn cảm thấy hơi ngột thở, rồi tiếng bục mạnh như thể tòa nhà hít hơi thở lần cuối cùng và hắt ra. Một bức tường dày đặc bụi, đất đá vung ra khi tòa nhà xụp xuống. Gray nhìn lên chỉ kịp thấy một cột khói và bụi vung lên cao rồi tản theo gió.

Nhưng không có cái chết nào đi cùng với cơn gió này.

Một tiếng nổ cuối cùng nghe như sấm từ tòa nhà đang chết. Một tiếng rầm của gạch, đá, một trận đất trồi. Mặt đất như nghiêng ngả dưới chân, rồi anh nghe một tiếng động lớn.

Tiếng rít của kim loại.

Bị đẩy mạnh vì vụ nổ, chân đế của quả cầu thép bị lung lay. Hai trong số chân đế của Quả cầu thứ Tám bị cong gập lại như thể quả cầu bị khuỵu đầu gối xuống. Cả quả cầu nghiêng hẳn từ phía tòa nhà hướng về phía đường.

Chân đế lại bị gục tiếp.

Một khi nó đã bị gục không thể ngăn lại được nữa.

Quả cầu có dung tích một triệu lít đã bị lật nhào về phía hàng rào gồm những chiếc xe tải của lực lượng an ninh.

Và chính Gray đang ở phía dưới.

Anh vươn dậy loạng choạng định theo dọc lối đi bộ, cố thoát ra. Anh chạy được vài bước nhưng quãng đường vòng vèo do quả cầu tiếp tục lao xuống dưới. Lối đi bộ trở thành cái thang. Gray bám tay vào những thanh thép, đạp chân vào giá đỡ lối đi. Anh phải cố vượt ra khỏi tầm rơi ụp xuống của quả cầu khổng lồ này.

Gray làm một cú lao tuyệt vọng cuối cùng, tay vẫn bám một thanh tay nắm và đạp chân.

Quả cầu thứ Tám lao vào bãi cỏ trước mặt và đập vào khoảng đất sũng nước mưa. Tác động của nó dội tới lối đi bộ làm văng Gray ra khỏi chỗ tay vịn. Anh bay người đi một quãng rồi rơi bịch đặt lưng xuống trước thảm cỏ êm ái. Chỉ cách đó có chưa tới một mét.

Dựa tay vào một khuỷu tay, Gray ngồi dậy,

Hàng rào xe an ninh đã lùi lại khi quả cầu khổng lồ lăn về phía họ.

Nhưng chắc chắn họ không đi đâu xa. Và anh không thể để họ bắt.

Gray cố đứng dậy, xuýt xoa vì đau đớn rồi loạng choạng đi về phía khói mù của tòa nhà bị sập. Chỉ tới lúc này anh mới nghe thấy tiếng còi báo động rú lên khắp căn cứ. Gray lột bỏ chiếc áo giáp khi đang di chuyển đeo thẻ căn cước vào bộ quần áo dân sự mặc bên trong. Anh vội vã tới phía bên kia của cái sân nơi đã dựng chiếc xe mô tô.

Anh thấy chiếc xe còn nguyên vẹn.

Đặt chân lên bàn đạp, anh mở công tắc điện. Động cơ khẽ rùng mình trước khi nổ. Nhả tay ga rồi dựng lại. Có cái gì đó vướng vào tay lái. Gray gỡ ra, nhìn vật đó rồi đút vào túi.

Mẹ kiếp…

Anh nhả tay ga rồi lao xe vào phố nhỏ bên cạnh. Đường xá lúc này vắng vẻ. Anh cúi rạp xuống lao xe vút qua các tòa nhà đen kịt. Tới phố Porter, anh rẽ nhanh sang bên trái, quay ngoắt lại rất nhanh, chìa chân trái ra để lấy thăng bằng. Lúc này trên phố chỉ còn lác đác vài chiếc ô tô. Không có chiếc xe tuần nào của quân cảnh.

Gray vòng vèo quanh một lát rồi lao đến khu vực đông dân của căn cứ nằm bao bọc Nallin Pond, vốn là khu vực của những ngọn đồi thoai thoải và cánh rừng gỗ tếch.

Anh phải chờ cho đến lúc hết hỗn loạn rồi chuồn. Bây giờ thì anh đã an toàn. Bỗng nhiên Gray cảm nhận được sức nặng của vật vừa mới đút vào túi, giống như một thứ trang trí trên chiếc mô tô của mình.

Một dây chuyền bằng bạc có mặt gắn phù điêu con rồng.

***

Washington, D.C.

Painter quay lại từ phía màn hình vệ tinh. Kỹ thuật viên đã bắt được hình ảnh Grayson thoát bằng xe mô tô khi anh ta nhô ra từ đám khói và bụi bặm. Logan vẫn tiếp tục điện thoại, truyền lệnh tới những kênh công khai mọi việc đã ổn. Được rửa sạch từ trên, vụ phiền toái ở căn cứ chắc sẽ bị đổ tội do thông tin không chuẩn xác, đường dây trục trặc và chất nổ kém phẩm chất.

Người ta sẽ không bao giờ nghe nhắc đến Sigma.

Viên kỹ thuật áp ống nghe vào tai “Thưa ngài, có điện thoại từ giám đốc DARPA”

“Nối máy vào đây.” Painter cầm lấy một ống nghe khác. Ông chăm chú lắng nghe khi đường dây lạo xạo.

Nhân viên kỹ thuật gật đầu khi đường dây hoạt động trở lại. Mặc dù chả ai nói câu nào, Painter vẫn có thể cảm nhận được người đỡ đầu và vụ chỉ huy của mình: “Giám đốc McKnight đây.” Ông nghi người sếp trực tiếp của mình sẽ yêu cầu giải trình rõ vụ này.

Sự nghi ngờ của ông tỏ ra sai.

Ông nghe thấy một giọng nói chắc nịch từ bên kia đầu dây.

“Painter, tôi vừa nhận được tin tình báo từ Đức. Những cái chết kỳ lạ ở một nhà thờ. Chúng ta cần cử ngay một nhóm tới đó vào lúc nửa đêm nay.”

“Nhanh vậy kia ạ.”

“Các chi tiết sẽ được cung cấp trong vòng mười lăm phút nữa. Nhưng chúng ta cần một nhân viên giỏi nhất của anh cầm đầu tốp này.”

Painter nhìn chăm chú vào màn hình vệ tinh. Ông thấy chiếc xe mô tô lượn qua các ngọn đồi, thấp thoáng dưới bóng vòm lá cây.

“Có thể tôi đã chọn được người đó rồi. Nhưng ngài cho phép hỏi việc này có khẩn cấp lắm không ạ?”

“Sáng nay đã có một cú điện thoại yêu cầu Sigma điều tra vụ này ở Đức. Nhóm của anh được đặc biệt yêu cầu”

“Yêu cầu? Do ai vậy?”

Để làm cho tiến sĩ McKnight giật mình, chắc phải là ai đó cao ở cấp tổng thống. Nhưng một lần nữa sự phỏng đoán của ông lại là sai.

Giám đốc giải thích: “Từ Vatican”.