Mặt Lod lấm lem màu vẽ ngồi trên cây thang, trán hiện gạch gạch, hỏi Lý Tiếu Bạch ở cửa.
Quý ngài sát thủ cúi đầu nhìn tên đàn ông trong lòng được cậu bế về bằng tư thế bế công chúa, tỉnh queo trả lời, “Thiếu gia nhà Leo, quản lý danh dự của nhà triển lãm Uffizi, Seus Leo.”
Lod sắp phát điên! “Tớ biết đứa lớn chính là Seus Leo! Tớ hỏi đứa nhỏ đứng sau cưng cơ mà?! Gia tộc Leo hào phóng cho mua một tặng một à?!”
“Misha George, cháu gái Seus.”
Nét mặt quý ngài sát thủ không mảy may biến đổi.
Misha bình tĩnh giúp cậu quẳng chìa khóa vào cái khay cạnh cửa, sau đó bắt tay vào đánh giá sào huyệt của quý ngài siêu trộm…
Trán Lod gạch gạch gạch gạch gạch, “Tôi xin hai người đừng có hợp tác tỉnh bơ thế có được không… Giờ quan hệ giữa hai người là trộm và người bị trộm đó… Rốt cuộc làm sao cưng dẫn cả nó về?”
“Cô ta nói muốn đến.”
“Nó nói muốn đến cưng cho nó đến luôn?!”
“Thì sao? Cô ta bắt gặp tôi ra tay với thiếu gia Leo rồi, nếu không dẫn cô ta đi cùng thì phải giết. Cô ta mới là chủ nhân pháp lý của bức tranh, buổi lễ ngày mai cũng phải tham dự. Tôi có thể cải trang làm Seus nhưng chúng ta biết đi đâu tìm con bé năm tuổi cải trang cô ta?”
“…” Quý ngài siêu trộm bị quặc lại thành ra câm nín. Lần đầu tiên y phát giác thì ra trộm tranh cũng có thể sinh ra lắm tình huống như vậy… Thế giới này loạn lạc làm sao…
“Nếu bọn mi dẫn ta đi cùng, ta có thể hỗ trợ nha!” Hai mắt đại tiểu thư Misha lập lòe ánh sáng mới tìm được đồ chơi mới, “Nếu nói bọn mi định bao giờ hành động cho ta luôn, buổi lễ ngày mai ta cũng có thể giúp che giấu nha!”
Lod, “…”
Lý Tiếu Bạch, “Ừ, là thế đó.”
Misha, “Đúng rồi, ở đây có cà phê không? Ta muốn thêm cả sữa.”
Lod, “…”
Lý Tiếu Bạch đã tiêm thuốc mê cho Seus, trói chặt nhét vào nhà kho, đạp hai đạp, cánh cửa cũ xì mới tàm tạm khép lại.
Misha giúp cậu ôm ba lô, đứng sau lầu bầu, “Mi không thể nhẹ tay tí hay sao? Đấy là cậu ta chứ đâu phải bịch khoai tây.”
Lod ảo não đi pha cà phê, “Bố mặc kệ…”
...............................
Misha tỉnh giấc trong buổi sáng rực rỡ nắng, vặn vặn thắt lưng, cảm thấy mình ngủ ngon hết sảy.
Ngủ cạnh nhỏ là siêu trộm mắt xanh lá chân tay oặt ẹo, khổ thân y cả đêm ngủ bị Misha đạp lại còn phải hứng chịu từng tiếng ngáy…
Trong tay quý ngài siêu trộm là hệ thống điều khiển đang ráp được nửa, đêm qua nhóm đạo chích thành lập tạm thời của ba người họ tất bật đến tận nửa đêm, nghiên cứu phương pháp làm nhà triển lãm mất điện trong thời gian ngắn.
Trước tối hôm qua, trong khái niệm của Misha, phương pháp ngắt điện là nhấn một cái vào công tắc… Giờ nhỏ mới biết đằng sau công tắc là mạch điện, tập hợp các mạch điện là cầu dao. Mạch điện trong hộp cầu dao không được phép đến gần, chỉ có thể ra tay ở dây cáp điện chôn sâu dưới lòng đất…
Thế nên tối qua nhốn nháo bận bù đầu, đại tiểu thư Misha đã quen cơm đút tận mồm chỉ việc há, lần đầu tiên làm lụng phụ nhóm chôm chỉa. Chuyển cái kìm qua nà, mua món lót dạ nà, cuối cùng thậm chí còn giúp Lod thò cánh tay được lợi thế tí teo của nhỏ vào cái hộp đen nối một cái mạch… Misha thấy buổi tối đã qua kia là mấy tiếng đồng hồ thích thú nhất kể từ khi nhỏ sinh ra đến nay. Bản thân chẳng bao giờ được người lớn đối xử ngang hàng, nay đã thể hiện công dụng.
Qua một đêm cùng phấn đấu, Misha bây giờ gần như còn coi việc trộm bức tranh thành chuyện của mình! Nhỏ hăng hái ơi là hăng hái được đi xử lý thuộc hạ của mình, dùng thiết bị do mình làm đi ăn trộm bức tranh của mình…
“Dậy rồi à?”
“Cái gối” nhỏ đang gối phát ra giọng nói trầm, đó là quý ngài sát thủ đã ôm nhỏ ngồi suốt đêm.
“Ưm… Mi không ngủ à, vệ sĩ?”
Misha nghiêng đầu nhìn Lý Tiếu Bạch không có vẻ gì là buồn ngủ, con mắt đen xinh đẹp chỉ có sự điềm tĩnh thư thái, nhẹ nhàng nắm bàn tay bàn chân có thể vung vẩy bất cứ lúc nào của nhỏ… Người đâu mà kỳ quặc.
“Bao giờ ở một mình tôi sẽ ngủ.”
Quý ngài sát thủ thật thà trả lời.
Người này tuy nói không nhiều, nhưng hỏi là đáp…
Tuy không tin tưởng người xung quanh, mà lại chịu mệt nhọc ôm mình ngồi cả đêm. Trước kia bắt nạt anh ta, anh ta cũng không giận, lần đầu tiên gặp tuy động tác cộc cằn song thực ra cũng là giúp mình trèo xuống máy bay… Người này không chừng lại rất tốt bụng. Misha nghĩ nghĩ, rồi chủ động vươn bàn tay nhỏ xíu đu cổ Lý Tiếu Bạch, thơm má cậu một cái, nở nụ cười thiên thần, “Chào buổi sáng”
Toàn thân quý ngài sát thủ cứng ngắc… Khựng lại hồi lâu, mới từ từ mà kiên định đẩy cô nhóc mềm mại trong lòng ra, một tay chống xuống, nhảy qua sô pha, đào tẩu bằng đường cửa sổ…
Misha bị bỏ lại tại chỗ, khum tay che nắng phóng mắt ra xa, “A, đúng là đồ cute.”
“Ờ hớ, cute nhỉ?” Từ sàn nhà truyền đến giọng Lod mang theo ý cười, siêu trộm mắt xanh lá nằm phè phỡn giữa la liệt linh kiện điện tử, giơ ngón tay làm tư thế “suỵt”, “Đừng nói cho cậu ấy là tôi nói nha, cô đừng nhìn vẻ gan góc của cậu ấy mà lầm, thực ra tên đó dễ mắc cỡ lắm”
Misha lườm nguýt y một cái, bĩu môi, “Nói như thể mi hiểu anh ta lắm ý.”
Lod lại gạch đầy trán, “Bọn này hiểu nhau quá quá luôn… Cái đồ như cô sao chả giống trẻ con tẹo nào thế, cóc đáng yêu gì cả.”
“Thế nào mới là trẻ con? Chọc cười người lớn một cách ngớ ngẩn mới gọi là đáng yêu sao? Níu vạt áo mi hỏi mấy câu ngớ ngẩn kiểu ‘Anh ơi bầu trời có bao nhiêu ông sao’ hay ‘Anh ơi em từ đâu chui ra vậy’ mới gọi là ‘giống trẻ con’ sao? Đừng đùa!” Misha đứng lên, ngạo mạn nhìn xuống Lod trợn mắt há mồm nằm dưới đất, “Tuổi ta bé thật, nhưng không có nghĩa ta ngớ ngẩn!”
Lod, nghẹn họng, trân trối…
Ngỏng cái đầu con con ra ngoài được hai bước, Misha quay lại, “Ti vi bảo đầu trẻ con phát triển như đầu người lớn, chuyện người lớn hiểu thì trẻ con cũng hiểu được như thế, trí nhớ còn rất tốt! Chẳng qua bọn ta thiếu kinh nghiệm thôi. Giờ mới nhớ, hai câu hỏi trẻ con hay hỏi vừa nãy thực ra không ngớ ngẩn chút nào, nói cho cùng, có người lớn nào trên thế giới trả lời được chưa?”
Lod đứng hình nhìn bóng cô nhỏ xốc làn váy bồng bềnh nghển đầu ưỡn ngực biến mất trong phòng tắm, thì thào, “Nó.. quả nhiên chả giống trẻ con gì sất…”
Lúc Lý Tiếu Bạch mua đồ ăn sáng về, Lod vẫn đang ngồi khoanh chân trên sàn nhà, mặt nghiêm túc tư lự.
“Cậu làm gì thế?”
“Đang tự hỏi bầu trời có bao nhiêu ông sao…”
“… Hở?”
“Honey, cưng biết con người từ đâu chui ra không?”
“… Ấm đầu à?”
“Honey, tớ bắt đầu thấy con nhỏ kia không đơn giản. Dám nó là thiên tài thật lắm…”
Lod còn chưa than van xong, Misha đã ló mái đầu bù xù vàng nhạt như một que kẹo bông khỏi cửa nhà tắm, rụt rè gọi Lý Tiếu Bạch, “Nè, vệ sĩ, qua đây xí… Nè… Buộc tóc như thế nào?”
Misha siết chặt nắm tay, gần như gào ré ra câu này!
“Hôm qua nhất trí nếu lễ khai mạc hôm nay ta giúp che giấu, tối hành động sẽ cho ta đi cùng mà? Người lớn các người toàn điêu toa!”
Lod đứng kiểu đồng tình, “Mi… Misha… Tối nay rất nguy hiểm…”
Lý Tiếu Bạch đứng kiểu phục tùng, “…” Cậu nào đó cứ thế vứt nhiệm vụ trả lời câu hỏi của trẻ con đầy gian lao và nhọc nhằn cho siêu trộm xúi quẩy…
“Ngụy biện! Ngụy biện! Đáng ghét! Bọn mi y sì họ! Lúc nào cũng thế… Toàn dụ chỉ cần con làm được thế này thế nọ, sẽ đưa con đi Carnival(1), sẽ đi du lịch cả nhà, sẽ về thăm con hôm sinh nhật… Ta đều cố gắng, làm hết ‘thế này thế nọ’… Cuối cùng thì sao…” Hốc mắt Misha ứa lệ, bị cái cổ nghếch lên sụt sịt nén lại, “Cuối cùng… Cuối cùng toàn là dối trá! Viện lý do lý trấu… Lừa đảo! Người lớn đều là lừa đảo! Bọn mi cũng thế!”
Lod càng lí nhí, “Không phải lý do lý trấu đâu… Thật sự quá nguy hiểm…”
Lý Tiếu Bạch nhắm mắt dưỡng thần, phiêu du vào cõi thần tiên.
“Ta… Ta cả ngày nay nghĩ nhiều cách cố gắng che giấu cho vệ sĩ cải trang thành cậu… Ta nghĩ nhiều biết bao nhiêu… Nếu đụng mặt người quen thì sao, nếu có thằng hâm nào sấn lên đòi chụp ảnh chung thì sao, nếu lão quản lý ục ịch kéo mi huyên thuyên không ngừng thì sao, nếu có tên thuộc hạ ngu ngốc nào đó trình giấy tờ xin mi ký thì sao… Ta nghĩ cả đêm, nghĩ tất thảy tình huống có thể xảy ra lẫn biện pháp giải quyết… Ta đã cố gắng đến như thế… Hu… Hu hu hu…”
Lod quýnh tận đít, “Làm… Làm sao giờ… Nó khóc rồi kìa! Một hai phút nữa bù lu bù loa lên cho xem! Nhỡ nó khỏe, khóc xong thì nấc, liên tục một hai tiếng đồng hồ… Biết làm sao đây, làm sao đây…” (sao rành thế = =)
Lý Tiếu Bạch mở mắt, đột nhiên đến chỗ Misha, bế cô nhóc dậy rồi bước nhanh ra phòng khách, đeo cho nhỏ một khẩu súng ngắm không dài lắm, sau đó cậu chỉ vào đống chỉ chăng đầy phòng khách và dây thừng trên trần nhà, lạnh lùng nói, “Lod sẽ di chuyển khoảng năm mươi mét ở lưới laser dạng thế này bằng tốc độ cực nhanh, tôi cần cô dùng toàn bộ bắp tay leo lên trần nhà triển lãm và giơ súng ứng phó với bất kể ai ngoài ý muốn đến gần. Chỉ cần cô làm được hai việc này, chúng tôi sẽ dẫn cô đi.”
Misha cố nhấc khẩu súng ngắm căn bản quá nặng so với nhỏ, đứng chôn chân tại chỗ, cũng thôi nức nở.
Lý Tiếu Bạch nhấc tay đưa nhỏ một xâu chìa khóa, “Cô ra chỗ xe tải sau nhà triển lãm chờ chúng tôi, cô có thể trông thấy toàn bộ quá trình hành động của chúng tôi qua máy quay và trao đổi với chúng tôi bằng thiết bị liên lạc. Nếu có nhân vật hay tình huống ngoài ý muốn phát sinh, cô phụ trách báo cho chúng tôi biết. Nếu tình hình xôi hỏng bỏng không, cô cứ lái xe bỏ chạy. Chiếc xe đó đã được nâng cấp rồi, vặn chìa là tự động chạy đến ga ra dưới lòng đất ở rìa thành phố. Xuống xe xong đi xa một quãng hẵng ấn nút trên chìa khóa, xe sẽ tự phát nổ tiêu hủy chứng cớ. Sau đó cô có thể về nhà hoặc báo cảnh sát.”
Misha dụi mắt, nắm chặt chìa khóa, cuối cùng lè lưỡi, “Hừ! Ta mà muốn báo cảnh sát thì đã chả đến giờ này vẫn chưa hỏi tên bọn mi! Vệ sĩ ngu ngốc!”
...............................
“Tớ phát hiện cưng rất thành thạo dỗ trẻ.”
Lod vận bộ đồ ngụy trang buổi tối, cầm ống nhòm, theo dõi nhà triển lãm Uffizi sáng rực điện đóm phía đối diện, sau đó ghé qua bên Lý Tiếu Bạch cảm khái.
“Tôi chỉ không coi cô ta là trẻ con thôi.”
Lý Tiếu Bạch điều chỉnh cái bịt mặt đen sì ngột ngạt trên đầu mình, “Chúng ta bắt buộc phải đội thứ này à?”
“Tất nhiên!” Lod trề mỏ, “Honey, cưng không biết cảnh sát hiện đại dễ sợ cỡ nào đấy thôi, mót được một sợi tóc là thừa sức đào sạch mười tám đời tổ tông nhà cưng ra rồi! Nghệ thuật chôm chỉa không chỉ là ẩn thân mà còn là trốn tránh sự truy bắt về sau nữa, hiểu chửa”
“…” Lý Tiếu Bạch nhìn đau đáu quý ngài siêu trộm, có chút đăm chiêu.
Lod, “Nhìn gì tớ thế? Cứ như thương hại ấy…”
Lý Tiếu Bạch, “Không, chỉ là bỗng cảm thấy ăn trộm là công việc còn nguy hiểm hơn cả sát thủ. Dẫu sao sát thủ ít khi nào vướng vào nguy hiểm bị truy bắt vì công việc của sát thủ đều là từ ân oán giữa người thuê và mục tiêu. Sát thủ là con dao giết người, không ai lại tìm một con dao để trả thù.”
Lod, nước mắt đong đầy, “Thằng nhóc này… Tả mình như tả công cụ thế hả… Không sao hết, sau cứ đi với tớ, đảm bảo cái nghề vô đạo đức của cưng sẽ thăng hoa thành nghệ sĩ bị đuổi giết!”
Lý Tiếu Bạch, “…”
Thiết bị liên lạc truyền đến tiếng Misha, “Hai bọn mi rõ thật là… Từ một cái bịt mặt nói thành lắm chuyện thế… Có muốn làm việc không hử?”
Lod nhe răng, gọn gàng căng tàu lượn sau lưng an toàn xong, phân phó vào micro gắn nơi cổ áo, “Misha thân yêu, bịt mắt họ đi!”
“Đã nghe, trong ba giây nữa sẽ ngắt điện. Ba, hai, một!”
Thánh điện nghệ thuật lung linh ánh màu thoắt chốc lâm vào bóng tối, từ tòa nhà bên cạnh có hai con dơi đêm im hơi lặng tiếng nương gió bay vào tầng thượng nhà triển lãm… Hai người Lod và Lý Tiếu Bạch cởi tàu lượn, bò vào đường ống thông gió như hai con cá trơn nhẫy. Nhân viên bảo vệ trong nhà triển lãm vẫn chưa hồi phục thị lực lại sau sự cố mất điện đột ngột.
Lod, “007 vào vị trí.”
Lý Tiếu Bạch, “… 008 vào vị trí.”
Lod, “Năm phút nữa nhà triển lãm sẽ khởi động nguồn điện dự phòng, hệ thống bảo vệ khẩn cấp chắc tắt do mất điện rồi, giờ đại sảnh phòng trưng bày ngoài hai vệ sĩ và mấy chùm laser, không ai được vào.”
Misha, “Bọn mi cẩn thận nha, cánh quạt trong ống thông gió một khi mở điện trở lại sẽ quay, cái gì rơi vào là xay nát bét luôn đấy, bọn mi không về được thì tèo…”
Lod cười tủm tỉm, thả dây, tụt vèo xuống! “An tâm, công chúa Xem bọn này trổ tài này!”
Lý Tiếu Bạch lặng lẽ giơ súng gây mê lên nhắm, chuẩn xác giải quyết hai vệ sĩ trong đại sảnh! Rồi nhấc tay cắt dây của Lod!
Quý ngài siêu trộm lộn nhẹ hai cái, đáp đất im ru, khởi động tay chân, thế rồi đeo MP3, giậm theo nhịp trống tiến vào khu vực lưới laser, và sau đó chính là điệu nhảy hoa lệ tránh né tia laser đòi hỏi kỹ thuật cao…
Lý Tiếu Bạch nấp tại chỗ chờ lệnh, vẫn giữ nguyên tư thế quan sát qua ống ngắm, xem xét động tĩnh chung quanh từng phút từng giây!
Trước màn hình phòng giám sát, Misha bị hành động xâm nhập nhanh nhẹn và khéo léo của hai đại cao thủ này thu hút không dời nổi mắt! Mồm há hốc mắt dõi gắt gao như đang xem phim, chỉ reo hò yên ắng trong lòng, lợi hại quá…
Khi Lod mở tất cả khóa mã khóa thủ công khóa vân tay mống mắt mới qua chưa đầy một phút. Quý ngài siêu trộm cũng không gấp lấy bức tranh đắt nhất thế giới nọ, mà chống cằm nghiêng ngó một lát, “Nghe nói bức họa này được Picasso vẽ đúng thời kỳ Hồng(2), khác hẳn mấy bức trừu tượng nhìn chả ra ngô ra khoai sau này của ông ấy nhỉ?”
Lý Tiếu Bạch không đáp, cũng không giục Lod.
Mà Misha ngồi nơi phòng giám sát đã bắt đầu rối như tơ vò, “Mi làm gì vậy? Mau lấy tranh đi đi! Giờ không phải lúc phân tích đâu!”
Lod lại bày bộ dạng như mua vé vào xem nhà triển lãm, đủng đỉnh bước quanh bức họa thưởng thức từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài, “Có biết tại sao bút pháp bức tranh này nhu hòa như vậy không? Vì Picasso thời kỳ Hồng mới hơn hai mươi, đã trải qua đoạn thời gian thời kỳ Xanh(3) vô vọng nhất cuộc đời, gặp gỡ mối tình đầu là Fernande Olivier(4), cảm thấy cuộc sống ngập tràn mến thương và hy vọng về hạnh phúc… Nên, có thể nói bức tranh này hàm chứa cả tình yêu nữa nha, tình yêu”
Misha sắp phát điên! “Là gì cũng được! Bọn mi mau mau lên! Ba phút nữa nguồn điện khôi phục! Bọn mi còn phải leo dây thừng lên trên! Không có thời gian đâu!”
“Nghe nói người trả giá cao nhất thế giới cho bức họa tên là Stephen George cũng là ông nội cô phải không?” Lod khoanh tay đứng, “Tiểu thư Misha… Tôi có thể hỏi cô tại sao lại giúp chúng tôi trộm tranh không?”
“Giờ không phải là lúc hỏi điều này!” Misha hét vào thiết bị liên lạc! “Bọn mi đi mau lên!”
Lod chỉ đứng bất động, bình thản mỉm cười, “Tôi muốn nghe lý do.”
Misha sựng lại, “Mi uy hiếp ta?”
Lod mỉm cười nhìn vào máy quay.
Misha khó mà tin nổi, “Dùng chính bản thân bọn mi uy hiếp ta?”
Lod gật đầu.
Misha mệt mỏi gieo mình xuống đất, “Thật không thể tin… Bộ người lớn bị điên hết hay sao?”
Lod nhún vai, “Thực ra người như tôi cũng hiếm lắm.”
Thiết bị liên lạc im lìm vài giây, giọng Misha mới truyền đến, “Lý do là, đúng như mi vừa nói đó, bức tranh này… đối với bọn mi, đối với mọi người, thì là một trăm triệu đô cùng vô số con số 0 theo sau. Nhưng đối với ông nội ta, bức tranh là tình yêu, là tất cả của ông, là điều ông đợi chờ cả đời. Ta quý ông nội, nên ta muốn đặt thứ ông nội trân trọng nhất ở nơi có người trân trọng nó nhất… chứ không phải mang ra triển lãm để kiếm tiền và nổi tiếng hay bán đấu giá như ba ta…”
Đầu bên kia thiết bị im phăng phắc.
“Dù sao ta cũng chỉ là trẻ con, chả có quyền gì. Dù bức tranh do chính ông nội chỉ đích danh truyền lại cho ta, ta lại cũng chẳng thể bảo vệ nó khỏi bị mang đi… Dĩ nhiên đã thế, vậy thà làm nó biến mất! Để nó biến mất trước mặt mọi người, sau đó ta sẽ giấu nó, đặt nó tại nơi xứng đáng. Thế đấy.” Misha cắn răng.
“Ồ…” Lod vuốt cằm, “Cảm động quá, nhưng cũng khờ khạo quá. Cô nghĩ chúng tôi nhọc nhằn trộm được nó sẽ đưa cô để cô ‘đặt nó tại nơi xứng đáng’ ư?”
“Bao tiền?” Misha nơi đầu bên kia thiết bị truyền tin bỗng khẳng khái hơn hẳn, “Người thuê bọn mi trộm tranh ra giá bao nhiêu?”
“1/10 giá tranh.” Lod xoa tay.
“Ta trả gấp đôi!” Misha mỉm cười, “Trộm nó cho ta đi!”
Lod cũng bật cười, chụm hai ngón tay làm tư thế chào của hải quân, “Tuân lệnh, công chúa!”
...............................
“Misha ngủ rồi à?”
Lod ngồi trước bức tranh mới thó về tối nay, cẩn thận và tỉ mỉ.
“Ừ.” Lý Tiếu Bạch mở cửa vào, bỏ cốc cà phê xuống, “Bị cậu bắt bí hai trăm triệu đô nên sức cùng lực kiệt rồi.”
“Hể? Chứ không phải do lũ trẻ con hay ngủ sớm dậy sớm sao?” Lod cười hì hì cầm cốc cà phê lên uống, rồi đẩy tít ra xa, “Đừng làm bẩn tranh quý của tớ nha”
Lý Tiếu Bạch, “Cậu làm gì thế? Sao cứ lật tranh qua lại?”
Lod, “Tớ đang tìm dấu…”
Lý Tiếu Bạch, “Dấu?”
Lod, “Ừa, dấu dán… Honey, cưng biết chuyện đằng sau Cậu Bé Với Ống Điếu không?”
Lý Tiếu Bạch nhớ tới cuộc trò chuyện lúc hành động, “Không biết… Nhưng cũng hiểu sơ là liên quan ông nội của Misha.”
Lod vuốt ve mặt sau của bức tranh, mỉm cười, “Có một cậu bé thích thầm một cô bé lớn lên từ nhỏ cùng nó, mặt sau bức tranh này chính là bí mật của chúng. Cô bé ngại nói nguyện vọng ra miệng nên viết vào giấy, dán vào sau bức tranh. Cậu bé hàng ngày đều kiểm tra mặt sau bức tranh, rồi âm thầm thực hiện các nguyện vọng của cô bé… Đôi thanh mai trúc mã ấy đã thất lạc trong chiến tranh, ba mươi năm sau, hai người gặp lại nhau nhờ bức tranh này, cậu bé đã trở thành doanh nhân gia tài bạc triệu, cô bé đã trở thành phu nhân đại sứ. Hai người không thể ở bên nhau, đến chết vẫn yêu nhau. Bức tranh là nhân chứng đã chứng kiến mối tình thơ ấu, chứng kiến nụ hôn đầu tiên, chứng kiến tình yêu mười năm đằng đẵng không đổi… Nghe nói người đàn ông đã tung cái giá trên trời mua được bức tranh di vật của phu nhân đại sứ và luôn để bức tranh cạnh mình, ngắm nhìn bức tranh, đi đến dấu chấm của sinh mệnh… Cảm động chứ?”(5)
Lý Tiếu Bạch nhìn y, không đáp.
Lod vớ bút, viết nhanh một cái tên sau bức vẽ chính phẩm, thế rồi khom lưng hôn khẽ, thì thầm tưởng chừng không thể nghe thấy, “… Em yêu chị… Mãi là thế…”
Lý Tiếu Bạch không chắc mình có nghe lầm xưng hô kia không…
Lod đứng dậy, nhanh nhẹn dán thêm một lớp giấy nơi mặt sau tranh, che kín cái tên nọ…
“Bức tranh tượng trưng cho một tình yêu vĩnh hằng.” Lod nói, “Tớ rất ngưỡng mộ, hy vọng sự vĩnh hằng của nó cũng có thể phù hộ cho tình yêu của tớ.”
Lý Tiếu Bạch nhàn nhạt lên tiếng, “Cậu và ai cơ?”
“Không nói cho cưng đâu” Lod cười giảo hoạt.
Lý Tiếu Bạch không phải người thích truy hỏi gốc rễ vấn đề nên chỉ nhìn thoáng bức tranh chả biết đẹp chỗ nào, liền đổi chủ đề, “Cậu bán đứt tranh cho Misha, vậy bên chủ thuê cũ thì sao giờ?”
“Ờ, khóa miệng là xong, tặng hắn một bức dỏm” Lod chỉ tay ra bức tranh do y vẽ, “Lodrian tự tay dâng tặng, chào mừng quý vị lưu giữ, cam đoan đúng giá trị”(6)
“Liệu có bị phát hiện không?” Lý Tiếu Bạch sờ bức tranh nhái, lại nhìn sang bức xịn trong tay. Nói thật, giống nhau như đúc.
“Tuyệt đối không” Lod đắc chí uống cà phê, “Bật mí cho cưng một bí mật nè, trước khi làm trộm, tớ vẫn vẽ nhái tranh kiếm sống đó. Miễn là tranh Picasso, tớ nhái chưa bao giờ bị phát hiện!”
Lý Tiếu Bạch nhướng mày, “Ồ, thế sao không bán đồ dỏm cho Misha, còn mình mang hàng xịn đi bán ấy?”
Lod khựng người, “Vụ này thì… Khụ, là vì, thì vì Misha trả giá cao á, tớ sẽ phụ lòng đồng tiền mất thôi”
Lý Tiếu Bạch nhẹ nhàng nhếch mép, “Tốt bụng không đỡ được…”
Bức nhái rõ ràng đã vẽ xong trước cả khi Misha xuất hiện.
Ngay từ đầu Lod đã không định bán tranh đi rồi?
Đại khái biết mình bị nắm thóp, siêu trộm mắt xanh lá đỏ ké mặt, gối lên hai cánh tay nằm khoèo xuống ghế làm việc, ca cẩm, “Chịu thôi. Thực ra Misha nói đúng, tranh vẽ, cần được đặt cạnh người biết trân trọng nó.”
Lý Tiếu Bạch nhắm mắt, “Ừ.”
“Honey, còn nhớ tớ từng nói công dụng của công chúa cho cưng hông?”
“Đổi tiền.”
“Nó là công dụng thứ nhất.” Lod vắt chân nhìn đau đáu bức tranh trong góc cùng cái tên vĩnh viễn bị giấu phía sau nó, “Công dụng thứ hai của công chúa, là dùng để yêu…”
Phần Florence – Hết
. /.
Chú thích:
1. Carnival là một mùa lễ hội, thường diễn ra vào trước mùa Chay, các sự kiện chính thường diễn ra trong tháng Hai, bao gồm một buổi lễ ăn mừng hay một buổi diễu hành kết hợp các yếu tố của loại hình xiếc, lễ hội đường phố công cộng. Mọi người thường giả trang và đeo mặt nạ trong các buổi ăn mừng.
2. Thời kì Hồng là cụm từ dùng để chỉ khoảng thời gian mà Pablo Picasso vẽ các tác phẩm của ông chủ yếu bằng hai màu chủ đạo: cam và hồng (hơi) xám.
Thời kì này kéo dài từ năm 1904 tới năm 1906. Trong các tác phẩm của ông vào thời kì này, các chú hề và nghệ sĩ hài là những nhân vật tiêu biểu được Picasso vẽ vào tranh, đặc biệt là Harlequins. Các tác phẩm ở Thời kì Hồng được lấy cảm hứng từ Paris, Pháp. Trong khi đó các tác phẩm ở Thời kì Xanh được lấy cảm hứng từ Tây Ban Nha.
3. Thời kì Xanh là thuật ngữ dùng để chỉ, khoảng thời gian mà Pablo Picasso vẽ những tác phẩm của ông bằng hai màu sắc chủ đạo: xanh lam hoặc xanh lá cây-lam. Trong thời kì này, ông rất ít dùng các màu khác để vẽ tranh. Vì màu sắc chủ đạo là màu tối và lạnh nên các tác phẩm của ông trong thời kì này thường rất ảm đạm.
Các tác phẩm này lấy cảm hứng ở Tây Ban Nha nhưng lại được vẽ ở Paris. Chủ đề chính của các bức tranh mà ông vẽ vào thời kì này là mại ***, tội phạm và nạn nghiện rượu. Mốc bắt đầu của Thời kỳ Xanh không rõ ràng, nó có thể bắt đầu từ mùa xuân năm 1901 ở Tây Ban Nha, hoặc ở Paris nửa cuối năm đó, cho đến năm 1904. Có lẽ cách dùng màu của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự tự sát của người bạn Carlos Casagemas.
4. Fernande Olivier: Một người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, gặp Picasso năm 1904 tại Paris, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người.Và khi Olivier muốn hướng đến cuộc sống bền chặt thì tình cảm của Picasso với thiên thần này bắt đầu nguội lạnh. Trạng thái tình cảm đó được danh họa thể hiện trong hai tác phẩm về Olivier mang tên Tượng bán thân người đàn bà và Đầu người đàn bà. Trong hai tác phẩm này không còn thấy sự ngợi ca vẻ đẹp của người đàn bà đang yêu mà lại khắc họa những khiếm khuyết về ngoại hình của người phụ nữ. Cuối cùng thì Picasso cũng bị một vẻ đẹp khác thu hút, mang tên Eva Gouel.
Một trong những bức Picasso vẽ Fernande, năm 1906:
5. Câu chuyện Lod kể có vẻ có thật:-?? được đăng trên báo. Mình sẽ lược dịch nó.
Từ khi danh tiếng Picasso thăng cao, bức tranh Cậu Bé Với Ống Điếu đã được qua tay nhiều đời chủ tại Paris, cuối cùng được triệu phú George người Đức mua về.
Gia tộc George kinh doanh đồ sứ và đồng hồ, từ đầu thế kỷ XIX đá chéo sân sang cả cổ phiếu và nghề vận chuyển, đồng thời có ruộng đất phì nhiêu ven bờ sông Rhine. Stephen George là con một đời thứ tư nhà George, từ bé đã được cha bồi dưỡng tỉ mỉ, tài hoa hơn người.
Ngài George có một người bạn tốt là Richa Hotmann, một doanh nhân đồ sứ đến từ Mỹ. Hai nhà họ gặp nhau lần đầu tại Berlin. Con gái ngài Hotmann là Bette nhỏ hơn Stephen một tuổi, hai người từ nhỏ là thanh mai trúc mã.
Khi đó, Stephen vẫn coi cô gái như em ruột, còn Bette cứ nghĩ Stephen là người mẫu trong bức Cậu Bé Với Ống Điếu, đến năm 12 tuổi cô mới biết sự thật do cha kể, bức tranh không có liên quan gì đến Stephen. Mỗi khi Bette có điều gì đó muốn xin mà khó nói, cô thường viết cho anh mình một mẩu giấy nhỏ và dán sau bức tranh. Sở thích lớn nhất của Stephen ngày ấy là “kiểm tra” sau bức tranh xem Bette có muốn xin gì đặc biệt không. Có lần, vì muốn giúp Bette đi xem buổi biểu diễn ở Vienna như cô mong muốn, Stephen 13 tuổi đã dẫn Bette ngồi tàu hỏa suốt mấy tiếng đồng hồ đến Vienna, cuối cùng bị người của ngài George “túm được” ở nhà ga Vienna, áp giải về Berlin, bị cha trừng phạt nghiêm khắc.
Bức phác họa đầu tiên Bette vẽ là hình ảnh Stephen cầm tẩu của cha đứng trước bức tranh. 18 tuổi, cô dùng nó làm quà Giáng Sinh cho Stephen, Stephen lần đầu tiên hôn người con gái mình thầm thương.
Đầu năm 1935, chiến tranh nổ ra khốc liệt tại Đức, ngài George mang toàn bộ tài sản và các tác phẩm nghệ thuật của nhà mình qua Thụy Sĩ, đồng thời khuyên bạn thân mau đưa người nhà về Mỹ tránh nạn. Nhưng vì mẹ Stephen kiên quyết không muốn rời quê hương nên cả nhà bỏ lỡ cơ hội thoát khỏi Đức.
Tháng 1 năm 1937, rất nhiều người Do Thái tại Berlin bị tống vào trại tập trung. Ngài George nhận ra tình hình đã quá nguy nan bèn bỏ ra một khoản tiền lớn mua hộ chiếu Anh, cả nhà dùng thân phận Anh Kiều chạy khỏi Đức. nhưng đúng thời điểm quan trọng, ngài George bị bán đứng, cuối cùng nhờ Hotmann giúp đỡ, chỉ có một mình Stephen chạy nạn được nhờ có được thân phận con nuôi một gia đình Anh quốc.
Stephen và cả nhà Bette chuẩn bị lên tàu rời khỏi Đức, nhưng lúc lên tàu mới phát hiện, tên Stephen bị chuyển sang danh sách hành khách chuyến tàu tiếp theo. Ngài Hotmann có đàm phán với quân lính thế nào, Stephen vẫn không được lên cùng chuyến. Bất đắc dĩ, ngài Hotmann quyết định đến London trước chờ Stephen.
Đôi tình nhân trẻ rơi lệ từ biệt ở nhà ga, Bette khóc không ngừng, Stephen như đứt từng khúc ruột vẫn cố kiên cường an ủi cô.
Thế nhưng, chuyến tàu tiếp theo không rời khỏi Berlin.
Trở về Mỹ, cả nhà Hotmann chú ý từng biến hóa của chiến cục. Sau chiến tranh, Hotmann và con gái bay ngay đến Đức, bắt đầu hành trình gian nan tìm kiếm cả nhà George. Hai cha con cuối cùng được biết qua công văn chính thức của Chính phủ Đức rằng, ngoại trừ một số ít thành viên gia tộc George phân tán sang châu Phi, không một người nào còn sống.
Bette đau khổ rời khỏi Đức, vì muốn xoa dịu nỗi đau, năm 1949 cô cưới York Grugni, một thanh niên ưu tú đến từ Boston lớn hơn cô 6 tuổi.
Năm 1950, Bette theo chồng đến London bằng danh phận Đại sứ phu nhân Anh quốc sống tại Mỹ và bùi ngùi với bao kỷ niệm cũ. Chồng cô hiểu tâm sự, bèn cho cô hay một tin tức, gần đây Sotheby’s đang tổ chức bán đấu giá, rất nhiều người Do Thái muốn hồi phục tài chính sau chiến tranh nên mang các món đồ nghệ thuật gia truyền ra bán. Nhà George là triệu phú nổi tiếng của Đức, có lẽ Bette có thể gặp thành viên nhà George nào đó ở buổi bán đấu giá cũng nên, như vậy ít ra cô có thể biết gì đó về trại tập trung của nhà George rồi tìm được di vật của Stephen.
Tại đó, không có tin gì về Stephen, nhưng bức tranh Cậu Bé Với Ống Điếu được rao bán là chiến lợi phẩm quân Đồng minh thu được của người Đức, không rõ chủ sở hữu, giá khởi điểm $10.000 sung quỹ “Thế giới người Do Thái”.
Bette mua bức tranh này với giá $28.000. Kể từ đó, bức tranh được treo trong thư phòng của nhà Grugni, mãi 5 năm sau, ngài Grugni kết thúc nhiệm kỳ, trở lại Boston, bức tranh cũng theo vợ chồng họ về Mỹ.
Trong mười năm, Bette có ba đứa con. Cô đẩy mạnh xã giao giới thượng lưu Mỹ, mượn danh tiếng nhà chồng và nhà mình tác động cho người Mỹ quan tâm đến vận mệnh và sự nghiệp gây dựng lại sau chiến tranh của người Do Thái, bản thân Bette tự mình đảm nhiệm chức cố vấn của Ủy ban người Do Thái lưu vong tại Mỹ.
Tháng 10 năm 1965, đang cắt tỉa hoa trong vườn, người hầu dẫn một vị khách xa lạ đến gặp bà. Đó chính là Stephen George.
Trong trại tập trung Nazi tại Ba Lan, cha anh chết trong phòng khí độc, mẹ chết dưới nòng súng Nazi. Cuối cùng, anh được người Mỹ cứu. Khi đó Stephen bị bệnh phổi nguy kịch tính mạng nên được quân Mỹ đưa ngay đến một bệnh viện Ba Lan chữa trị, một năm sau anh khỏi bệnh, trở về Đức. Anh tốn hai năm can thiệp cùng Chính phủ Đức hòng cứu lấy phần lớn tài sản gia tộc thất lạc trong chiến tranh, đồng thời tự học kinh tế và pháp luật, mong sớm ngày hoàn thành nguyện vọng của cha mẹ.
Năm 1955, trong lúc công tác tại London, anh tình cờ thấy ảnh vợ chồng đại sứ Anh sống tại Mỹ tham dự lễ truy điệu của Einstein và nhận ra đại sứ phu nhân chính là Bette. Anh muốn mượn quan hệ bạn bè tại London để liên lạc vợ chồng đại sứ, xui thay đúng lúc đó Đức có việc gấp, anh phải vội vã trở về Berlin.
Hai tháng sau, anh lại đến London tìm Bette. Đến khi gặp vợ chồng đại sứ Mỹ, anh mới thất vọng khi biết vợ chồng đại sứ tiền nhiệm đã kết thúc nhiệm kỳ, về Mỹ từ tháng trước rồi. Anh hỏi thăm lại biết thêm, Bette đã lên chức mẹ, chồng là một quý ông vô cùng vĩ đại, bèn nén đau thương không đi Mỹ tìm Bette nữa mà tập trung tinh thần phục hưng gia tộc. Anh chuyển các tài sản từng chuyển dời đến Thụy Sĩ của cha trở về, đồng thời bắt đầu phát triển ở ngành tài chính và kiến trúc. Từ đầu những năm 50, anh liên kết cùng những người chung cảnh ngộ can thiệp với Chính phủ Đức để được bồi thường chiến tranh. Anh được một người bạn cho hay, vợ chồng nhà Grugni từng là đại sứ Anh đang ra sức giúp đỡ người Do Thái lưu vong sang Mỹ xây dựng lại sự nghiệp, và phu nhân Grugni còn cất giữ một bức tranh của Picasso có tên Cậu Bé Với Ống Điếu.
Rốt cuộc Stephen không nhịn được, lên đường sang Mỹ. Hai người gặp lại nhau trong nước mắt, Bette dẫn Stephen đi xem bức tranh, anh theo thói quen lật mặt sau ra xem, cuối cùng họ cùng nở nụ cười.
Nhà Grugni giữ Stephen ở lại vài ngày nhưng Stephen muốn về Berlin sớm. Bette khăng khăng trả bức tranh cho Stephen thì anh nói: “Em có hai lý do để giữ bức tranh này. Một, em đã thay cha mẹ anh gìn giữ nó, không để nó rơi vào tay người lạ, cha mẹ trên trời có linh thiêng cũng sẽ rất vui mừng. Hai, bức họa này đối với anh chứa đựng rất nhiều kỷ niệm, em giữ nó đồng nghĩa em không quên anh, đó sẽ là lý do và dũng khí để anh tiếp tục sống.”
Bette đồng ý sẽ luôn giữ bức tranh. Stephen về Berlin tiếp tục chuyện gia tộc, đến khi gần 50 tuổi, anh mới cưới một cô gái người Áo làm vợ, sinh bốn đứa con.
Vợ chồng Grugni vẫn cố gắng kêu gọi các báo đài quan tâm vấn đề đền bù cho nạn nhân chiến tranh. Từ những năm 70,Washington Post, New York Times, Time Magazine… nổi tiếng đều đăng tải rộng rãi, cuối cùng Stephen đạt thắng lợi. Không lâu sau đó, ven bờ sông Rhine bắt đầu mở cuộc tái xây dựng quy mô lớn, Chính phủ mua lại đất của Stephen. Vậy là vài thập niên sau chiến tranh, Stephen đã lấy lại được tài sản gia tộc. Giữa những năm 80, Stephen giao lại xí nghiệp cho doanh nhân đáng tin cậy, còn mình ở yên trong nhà.
Năm 1996, ngài Grugni qua đời. Hai năm sau, Bette cũng đổ bệnh nặng. Cô gọi điện cho Stephen, mong anh tranh thủ lúc cô còn sống hãy mang bức tranh về. Stephen tự mình đến Mỹ, thuyết phục cô giữ bức tranh. Bởi vậy Bette viết di chúc là: Sau khi cô mất, nếu Stephen vẫn từ chối nhận bức tranh, vậy con trai cô có thể mang bức tranh đi bán đấu giá. 1/3 tiền bán đấu giá cho con cô, 1/3 quyên góp quỹ trẻ em khuyết tật thế giới, 1/3 từ thiện dưới tên Stephen George.
Cuối năm 2003, một năm rưỡi sau khi Bette mất, con trai cô quyết định bán đấu giá bức tranh. Tin tức này vừa được lan truyền đã thu hút giới truyền thông. Năm 2004, trên sàn đấu giá của Sotheby’s New York, bức tranh được bán với giá hơn 104 triệu đô, phá kỷ lục cái giá 78 triệu đô mười bốn năm trước của Buổi khiêu vũ tại Moulin de la Galette (họa sĩ: Pierre-Auguste Renoir), do đó người bí ẩn đã mua bức tranh này trở thành đối tượng được chú ý.
Thế nhưng danh tính người này vẫn được giữ bí mật. Mãi đến tháng 11 năm 2004, Stephen qua đời, di chúc được con cháu anh gửi cho con cháu Bette mới biết, người đã mua tranh đúng là Stephen. Nghe nói bức tranh đã bầu bạn với anh đến chặng cuối của sinh mệnh, anh đã chết cạnh bức tranh này.