*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Nếu tôi đoán không sai, sự khác biệt nảy sinh từ năm thứ hai tôi học cấp ba. Phải chăng sau khi gửi đi bản thảo đầu tiên, mục tiêu theo đuổi của tôi cũng đã biến đổi ít nhiều? Tôi có thể chắc chắn, trước đó, tôi chỉ đơn thuần là thích sáng tác mà thôi.
Sau hôm khai giải năm hai mấy ngày, Dương Tiểu Nghiêu tỏ tình với Bạch Hạo Vũ, quan hệ giữa tôi và em cũng trở nên gượng gạo hơn xưa. Mặc dù tôi giả bộ không có chuyện gì, thậm chí còn kiên nhẫn an ủi em, nhưng từng hành động của tôi vẫn cứ không được tự nhiên, có thể cũng do lương tâm giày xéo.
Khi bức màn mùa hạ buông xuống, những cơn gió se lạnh đầu thu luôn khiến người ta run rẩy. Gió lạnh sẽ làm con người trở nên biếng nhác, những lời này quả không sai, nếu không lớp chúng tôi cũng sẽ chẳng phải vì lười trực nhật mà đội sổ trong danh sách xếp hạng tổng vệ sinh toàn trường. Thầy chủ nhiệm khối nghe được tin này đã nổi trận lôi đình, chạy thẳng tới lớp chúng tôi răn dạy một phen, sau đó còn giao cho cả lớp nghỉ hẳn một tiết tự học để đi ra đoạn đường núi phía sau lưng trường quét dọn lá cây.
Thật đúng là lỗi lầm nhỏ mà trừng phạt to. Tôi chẳng biết ngày hôm đó rốt cuộc là ai trực nhật, ít nhất cũng không phải tôi.. Thế nhưng không ít người trong lớp tôi đã bởi mấy bạn học kia mà bị kéo theo xuống bùn vì “tội liên đới”.
Vào cái lúc đáng nhẽ đang phải ôm nhau ủ ấm trong phòng học, một lũ chúng tôi lại phải cầm chổi đi ra chân núi dọn dẹp vệ sinh ngay giữa những cơn gió thu lạnh lẽo.
Thầy chủ nhiệm sắp xếp cho cả lớp nghỉ tiết tự học cuối cùng của chiều thứ Ba. Khi thầy tuyên bố tin này, vẫn còn không quên sử dụng chức quyền mà giảng giải suốt một hồi lâu, nào là học tập đương nhiên quan trọng gì đó, nhưng danh dự của lớp cũng không thể bỏ qua gì đó. Thầy bảo chúng tôi là một tập thể, cả lớp phải biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, không thể chỉ vì khuyết điểm của một vài người mà liên lụy rất nhiều người, vân vân mây mây.
Chiều hôm đó, học xong tiết gần cuối, thầy chủ nhiệm lớp tôi sang các lớp khác mượn chổi, chia đều cho cả lớp, ai cũng có phần. Mỗi đứa cầm một cái chổi trên tay, trông thực sự giống lớp học cưỡi chổi bay trong một học viện phù thủy ám muội nào đó.
Sau khi thầy chủ nhiệm hoàn tất diễn văn của mình, một đoàn học sinh chúng tôi nháo nhào ồ ạt cầm chổi hành quân ra ngọn núi đằng sau trường. Bọn tôi vừa đi vừa chuyện trò rôm rả, hoàn toàn không màng tới vô số học sinh mắt tròn mắt dẹt đang nhìn chăm chăm từ trong lớp khác, dường như cũng chẳng nhận thức được đây là một chuyện sỉ nhục cỡ nào. Có lẽ là vì người đông thế mạnh nên chả có gì xấu hổ. Nếu chỉ có một hai người bị phạt, hiển nhiên cũng sẽ ngượng ngùng. Xem ra bản chất con người vẫn là động vật sống theo bầy đàn, chỉ khi ẩn nấp trong một đám người mới cảm nhận được bình yên tự tại.
Khu vực này cũng không quá rộng, sáu mươi con người cùng nhau quét lá, chắc khoảng nửa giờ là đã có thể dọn dẹp xong xuôi. Đương nhiên, tiền đề vẫn là tất cả mọi người đều phải nhiệt tình với công việc đó. Tôi không nghĩ một kẻ lười trực nhật trong lớp lại có thể hăng hái quét tước sau trường. Có lẽ lý do đa phần cả lớp cảm thấy sảng khoái chính là thoát được những tiết tự học nhàm chán kéo dài bất tận. Một khi đã ra bên ngoài quét dọn vệ sinh, có thoải mái buôn chuyện hay chạy đuổi nô đùa với nhau thì cũng chẳng thầy cô nào trông thấy.
Ủy viên vệ sinh lớp tôi là một bạn nữ. Cô nàng hô vang vài tiếng tập hợp mọi người nhưng chẳng ai thèm để tâm, sau đó cũng chỉ còn cách chạy tới chạy lui, phân công nhóm này đi tới chỗ nọ, nhóm khác đi tới chỗ kia.
Cuối cùng, cả tôi và Bạch Hạo Vũ đều bị chỉ định lên giữa sườn núi quét dọn lá khô, đồng hành còn có Lam Thiên và Giang Vũ Đồng. Khi đó bốn đứa chúng tôi vẫn còn chưa quen thân nhau, chẳng qua chỉ là đang đứng hơi gần lúc cả lớp buôn chuyện phiếm, thế là bị bạn ủy viên vệ sinh trông thấy, đày ải lên tận trên này.
Thoạt nhìn qua, Giang Vũ Đồng cũng không có gì quá là nổi bật, dáng vẻ từ đầu đến chân thực sự quy củ nghiêm túc. Nhưng sau khi tiếp xúc, tôi mới phát hiện Giang Vũ Đồng cực kỳ hướng ngoại, đứng từ đằng xa cũng có thể nghe được tiếng cười sang sảng của cô nàng này.
Nếu so sánh về ấn tượng ban đầu, Lam Thiên khiến tôi để ý nhiều hơn. Một nam sinh họ Xanh, đã thế lại còn tên là Trời Xanh, mới nghe đã thấy đậm chất văn nghệ. Càng trùng hợp hơn chính là, Lam Thiên thực sự luôn luôn tản mác một chút phong vị thiếu niên văn nghệ sĩ. Trước kia khi nghe thấy tên cậu ta lần đầu, tôi thậm chí còn từng ghét bỏ tên mình suốt cả một quãng thời gian. Tại sao bố mẹ tôi lại không thể đặt được cho tôi một cái tên dễ nghe như vậy chứ?
Nhưng mà, điều thực sự khiến tôi ấn tượng sâu sắc với hai người họ chính là câu chuyện ở ký túc xá nữ mà Giang Vũ Đồng đã tâm sự cùng Lam Thiên trong khi chúng tôi còn đang quét lá. Tuy rằng mấy đứa con trai không nên để ý đến chuyện con gái, nhưng thấy Lam Thiên chăm chú lắng nghe, cả tôi lẫn Bạch Hạo Vũ đều không nhịn được mà cùng dỏng tai hóng hớt.
“Mấy ngày hôm trước, ở phòng ký túc ngay cạnh phòng tôi có một bạn nữ mất một trăm tệ. Nói tên ra thì ngại quá, thôi cứ gọi tạm là bạn A đi. Bạn A mất tiền, đi rất nhiều nơi vẫn chẳng thấy đâu, liền nghi ngờ bạn B trộm tiền của mình. Bởi vì khi A rút ví ra, chỉ có B nhìn thấy, mà A lại phát hiện trong ví của B cũng có tờ một trăm nguyên tương tự như thế. Thực ra trước đó giữa A và B cũng sẵn có khúc mắc rồi. Đại loại là bạn A này thích một bạn nam tên C cùng lớp, nhưng C không những không thích A mà lại còn thường xuyên ngồi cùng với B, những người tinh mắt đều nhận ra C chắc hẳn thích B. Khi vụ mất tiền nảy sinh, hai bên A B đối chọi vô cùng gay gắt. Cũng bởi vì A B bất hòa, phòng ở của họ chia làm hai phe, một phe bên A, một phe bên B. B vẫn một mực nói là mình không trộm tiền. A không tin, bắt đầu thuyết phục các bạn nữ khác cùng nhau mắng mỏ chỉ trích B, thế là B bị cô lập. Sau đó C nghe được chuyện này. C tất nhiên cũng chỉ biết A mất tiền rồi nghi ngờ B, vậy là C liền đi tìm A, nói B nhất định không trộm tiền của A. A lại càng không tin, nói C thiên vị B, lại còn nhất định đòi tìm chứng cứ chứng minh B là kẻ cắp. C muốn giúp B, nhưng chuyện tình ở ký túc xá nữ lại không với tay được đến. Sau rồi A lại còn kể lể với C về B, nói B hành vi thường ngày không được đoan chính này kia. B lúc đầu không làm gì, nhưng thấy A bắt nạt mình như vậy, cũng bắt đầu khởi xướng phản công, lôi kéo các bạn nữ khác trong phòng, khăng khăng nói A cố ý vu oan hãm hại, muốn người khác khinh thường mình. Hai bên hết chiến tranh lạnh đến chiến tranh nóng, tốn mất không biết bao nhiêu nước bọt, cục diện rối ren hỗn loạn vô cùng.”
Lúc đó cả tôi và Bạch Hạo Vũ đều đang quét lá hơi xa, giả bộ tình cờ lơ đãng nghe được. Sau khi nghe xong, cằm của hai đứa đều rớt cả ra, cũng chả buồn làm bộ vờ vĩnh nữa.
“Câu chuyện cẩu huyết này là kịch bản phim cung đấu đó à?” Bạch Hạo Vũ cười phá lên.
Giang Vũ Đồng trừng mắt nhìn cậu ta: “Cậu nhỏ tiếng chút đi. Chẳng qua chỉ là tán dóc mấy chuyện bên lề, cậu lại còn sợ người khác không nghe được chắc?”
Bạch Hạo Vũ vẫn mặt dày cười sằng sặc, bầu không khí bỗng trở nên cực kỳ gượng gạo. Tôi ấn đầu cậu ta sang một bên, ngượng ngùng nhìn Giang Vũ Đồng.
“Không sao không sao, các cậu nghe cũng được, miễn là nghe xong đừng có đi nói linh tinh. Chuyện này khủng bố lắm luôn.” Giang Vũ Đồng lên tiếng hóa giải tình huống xấu hổ này.
Thế là cả tôi và Bạch Hạo Vũ đều tới bên cạnh cô nàng, quang minh chính rửa tai lắng nghe.
“Vừa mới ngày hôm kia, sự tình tra ra manh mối. A tìm được tiền rồi. Quả nhiên không phải là B trộm, mà chỉ là cậu ta không cẩn thận bỏ trong một túi áo khác rồi quên mất tiêu. Sau đó tình hình lại càng căng thẳng. B bắt đầu gióng trống khua chiêng nói A nhìn mình gai mắt, bụng dạ hẹp hòi, rắp tâm hãm hại bạn bè. A ban đầu tìm được tiền thì cũng hơi ngượng, nhưng trước sức ép dư luận càng ngày càng khốc liệt bên B thì lại trở mặt nói với những người xung quanh B không chịu nổi áp lực nên đã lén lút nhét tiền trả về, sau đó lại một mực công kích B, muốn biến B thành tiểu nhân. Đến tận bây giờ A vẫn còn chưa chịu xin lỗi B, cảm thấy tất cả màn này là đều do B một tay dựng nên. B cũng chưa ngừng kêu gọi người khác dùng miệng lưỡi để tấn công lại A. Cuối cùng chuyện giữa hai người vẫn chưa giải quyết được gì, nhưng mà cái phòng ngủ đó đã vì vụ này mà chia năm xẻ bảy, tám người chia thành sáu hội!” Giang Vũ Đồng vừa kể vừa trợn tròn mắt, ra vẻ không thể tin nổi.
“Kinh, mưu mô xảo quyệt thật đấy.” Tôi và Bạch Hạo Vũ gần như đồng thanh nhận xét.
“Các cậu cũng thấy vậy à?” Giang Vũ Đồng nhìn về phía chúng tôi.
“Sao cậu lại biết bọn họ lập thành sáu hội?” Lam Thiên lại hỏi một câu vô cùng lý tính.
“Tất nhiên là nghe người bên phòng họ kể rồi, kinh khủng không? Cùng là con gái mà tôi cũng chả hiểu nổi tại sao mấy bạn nữ kia lại có thể lắm mưu nhiều kế đến vậy luôn. Chuyện này thực ra cũng chẳng có ai biết rõ đầu đuôi, chỉ trừ A B ra thôi. Vậy nên phòng ngủ của họ cũng đã tranh luận ỏm tỏi hết cả lên, mỗi người một ý, mỗi người một kiểu.”
Nghe thấy thế, sống lưng của tôi bất chợt lạnh buốt. Có lẽ ngay cả phim truyền hình cũng sẽ không dám dàn dựng cốt truyện kiểu này.
Tôi âm thầm nhớ kỹ câu chuyện trong đầu, biết đâu về sau lại có thể dùng để làm tư liệu sáng tác cũng nên. Thậm chí đến lúc về nhà, tôi còn cẩn thận ghi lại một lượt vào vở từ đầu đến cuối.
Một tháng sau, thầy chủ nhiệm xếp lại vị trí lớp học, cả Giang Vũ Đồng lẫn Lam Thiên đều ngồi ngay bên cạnh tôi. Cũng nhờ cái vụ quét tước lần trước mà ba chúng tôi có thể dễ dàng bắt chuyện cùng nhau, dần dần trở thành bè bạn.
Trở lại ngày hôm đó ở bên sườn núi, tuy chúng tôi có buôn chuyện với nhau, nhưng đương nhiên vẫn không thể quên được nhiệm vụ chính yếu của mình.
Bạn ủy viên vệ sinh lớp tôi rất có tinh thần trách nhiệm, sau khi đã phân công nhiệm vụ xong xuôi còn liên tục đi đây đi đó thị sát công tác khắp nơi, cực kỳ ra dáng lãnh đạo. Cô nàng qua đây đúng lúc bắt gặp tụi tôi chụm đầu nói chuyện với nhau, tức khắc giận dữ, chỉ trích lớp tôi trực nhật không nghiêm túc khiến cho cả lớp bị phạt, thế mà bây giờ quét dọn vệ sinh vẫn không nghiêm túc, tới lúc thầy cô thấy được xong nổi giận thì lại bị phạt lần nữa cho xem.
Lời cậu ấy nói cũng không hẳn không có lý, mấy đứa chúng tôi chẳng ai dám ho he gì. Dưới con mắt theo dõi gắt gao của ủy viên vệ sinh, bốn đứa chia nhau ra quét bốn ngả. Nhìn thấy bọn tôi đứng xa nhau rồi, cậu ấy mới chịu rời đi.
Mùa thu gió lớn, chúng tôi cũng phải loay hoay mãi mới quét gọn được lá cây vào trong một góc. Bây giờ chỉ cần một làn gió nghịch ngợm thổi ngang, công sức cả hội sẽ ngay lập tức đổ sông đổ bể.
Cũng may là chỗ chúng tôi đứng có chút lợi thế địa hình, được núi cao yểm hộ, gió ít thổi qua, lá cây đã quét cũng ít bị gió đánh tan, gánh nặng của tụi tôi nhẹ đi không ít. Nhưng vì bản tính biếng lười, tôi không thể nào hăng hái làm việc được, thậm chí còn hơi hơi oán trách trường mình vì đã trồng quá nhiều cây rụng lá. Phần lớn miền nam trồng các loại cây thường xanh, rất hiếm khi trơ cành vào mùa thu hay mùa đông. Nhưng có rất nhiều nơi lại cứ nhất định phải rước về mấy cái loại cây chả hợp đất cũng chả hợp nước, trong đó có trường tôi.
Quýt mọc ở bờ nam sông Hoài thì vẫn là cây quýt, nhưng quýt mọc bên bờ bắc sông Hoài thì sẽ thành cây chỉ. Loại đạo lý đơn giản đó, chẳng nhẽ trường tôi lại không hiểu sao? Nhìn đống cây cối tha hương này, tôi bắt đầu cảm thấy đáng thương thay cho chúng nó.
Mặc dù không quá hào hứng, tôi vẫn cố gắng quét nhanh cho xong sớm, lát nữa về trường còn phải làm thêm mấy đề bồi dưỡng nữa.
Tôi bắt đầu múa may cây chổi trên tay, bắt chước mấy lão tăng quét sân trong phim kiếm hiệp, hất lá tới tấp từ mặt đường sang hai bên lề. Trong khoảnh khắc đó, tôi còn cảm giác như mình đã có thần công hộ thể, biến thành một vị cao nhân đắc đạo. Khóe miệng của tôi bất giác nhếch lên. Tôi ra sức múa chổi, chuẩn bị hét: Chạy đi đâu, hãy đỡ một chiêu của ta!
“Này, cậu nhẹ nhàng tí được không!”
Trong nháy mắt, bị đánh trở về nguyên hình, tôi mới nhớ ra tôi không ở đây quét lá một mình. Thôi xong, tâm hồn trẻ nít hồi cấp hai đã bị người ta phát hiện. Tôi ngượng đến đỏ cả mang tai.
“À, xin lỗi nhé…”
Tôi quay đầu, mới phát hiện người kia cũng chẳng để mắt tới mình, đang ngồi xổm trên mặt đất cúi đầu chăm chú nhìn cái gì đó.
Thì ra là Dương Tiểu Nghiêu. Vừa rồi nhiệt huyết quá mức, tôi không nghe được tiếng em tới gần bên mình.
Nhóm của Dương Tiểu Nghiêu phụ trách quét dọn đoạn đường từ giữa sườn núi lên trên đỉnh núi, ngay cạnh khu vực của bốn chúng tôi.
Tôi nuốt nước bọt, vờ như vẫn chưa xảy ra chuyện gì: “Dương Tiểu Nghiêu, cậu đang làm gì đó?”
“Nhặt mấy cái lá đẹp đẹp, sau đó ép thành tiêu bản.”
“Cậu cũng thích mấy trò này à?”
“Sao? Không được hả?” Dương Tiểu Nghiêu ngẩng đầu lườm tôi, “hừ” một tiếng, rồi lại cúi đầu tìm lá. “Mang một chiếc lá còn nguyên kẹp vào trong sách, sau này nó khô lại, đẹp cực luôn.”
“Ồ.”
Tôi gác chổi một bên, cũng ngồi xổm xuống, nhặt một chiếc lá lên nhìn. Trên phiến lá phiếm xanh còn có vài cái lỗ nhỏ. Có lẽ cái lá này từng là lương thực chống đói của một con sâu nào đó.
“Nếu cậu cũng muốn nhặt thì chọn cái nào vẫn còn nguyên vẹn, ra hình ra dạng một chút ấy. Màu sắc đồng đều thì càng tốt. Xem nè.” Dương Tiểu Nghiêu vừa nói vừa đưa cho tôi một chiếc lá rụng đã khô. Tôi cầm chiếc lá quan sát rất lâu, nhưng vẫn chẳng thể nhận ra đây là lá gì. Hình dáng có vẻ hơi giống lá phong. Cũng có năm góc nhọn, nhưng mỗi mảnh lại rất độc lập, chỉ nối với nhau ở gốc. Màu sắc cũng không phải đỏ, giống với màu nâu nhiều hơn. Tôi nghĩ, chắc nó không phải lá phong đâu nhỉ.
“Đây là lá gì vậy?”
“Lá phong.”
Tâm trạng của tôi tức thì tụt dốc không phanh. Nếu như chiếc lá này không phải lá phong, tôi sẽ lập tức nhảy dựng lên như phát hiện ra một giống cây mới hoàn toàn xa lạ. Thế nhưng bây giờ đã biết nó chỉ là một cái lá phong bình thường, tự nhiên tôi lại cảm giác thất vọng và thất bại.
“Được rồi, cho cậu hai cái nữa nè. Lát nữa trở về làm tiêu bản đi, không chỉ đẹp đâu, có thể dùng để kẹp sách nữa đó.”
“Ừ, cám ơn nhé.”
“Đừng khách sáo.” Giọng nói của em nghe rất nhẹ nhàng. Nói xong, em đứng lên, chuẩn bị rời đi: “Tôi phụ trách đoạn trên kia, vẫn còn chưa quét được gì mấy nữa. Đi trước nha.”
“Có muốn tôi lên đó giúp cậu không?”
“Không cần đâu.”
“Ừ.”
Ba giây sau, tôi thở dài. Lần nào kết thúc một cuộc hội thoại với em, tôi cũng thêm thêm một tiếng “ừ” vào, cứ như thể làm vậy thì sẽ có thể ở cạnh bên em nhiều thêm một khắc. Tôi cẩn thận bỏ ba chiếc lá em đưa vào trong cặp mình, sau đó tiếp tục quét lá trên đường, có hơi thất vọng.
Sau khi trở về, tôi đã đặc biệt đi mua một quyển sổ tay thật dày, đem ba cái lá đó kẹp vào ba trang khác nhau trong sổ.
Sau đó, ba chiếc lá thật sự biến thành tiêu bản. Từng đường nét hoa văn hiện rõ trên mỗi phiến lá đã khô, trông cực kỳ đẹp mắt. Sau đó nữa, quyển sổ kẹp lá cây cũng đã trở thành quyển sổ tôi dùng để ghi lại những hồi ức trân quý nhất của mình.
Sau này sắp xếp lại đồ đạc, tôi mới giở quyển sổ ra. Ba chiếc lá vẫn còn vẹn nguyên trong từng trang sổ. Bên trong cuốn sổ này có rất nhiều trang tôi chỉ ghi vài dòng chữ, nhưng đằng sau mỗi dòng chữ ấy đều là cả một câu chuyện hoặc nhỏ hoặc to. Có một số chuyện tôi vẫn còn nhớ như in trong đầu, nhưng có một số chuyện, nếu không phải nhìn lại được trên những trang giấy ấy, có lẽ tôi cũng quên hẳn đi luôn. Bên ngoài vô số hồi ức tốt đẹp, cuốn sổ này còn là nơi lưu giữ một lời ước hẹn giữa em và tôi.
“Thì ra cậu thích viết tiểu thuyết à?”
Nghe thấy giọng nói của em thình lình vang lên sau lưng, tôi hoảng tới mức vội vã dùng tay che trang giấy lại.
“Sao cậu đi lặng lẽ thế? Làm tôi sợ chết đi được.” Tôi nói, giọng điệu hơi hơi oán trách.
Dương Tiểu Nghiêu tiến thêm vài bước rồi ngồi xuống trước mặt tôi: “Tôi đã đứng đây nhìn mấy phút rồi, chỉ là cậu viết chăm chú quá thôi.”
“Xem lén người khác không phải thói quen hay ho gì đâu.”
“Bàn trước của cậu ai ngồi í nhỉ? Tôi ngồi đây chắc không sao chứ?” Dương Tiểu Nghiêu nhìn tôi.
“Còn nửa tiếng nữa mới hết giờ nghỉ, chắc là cậu ta vẫn còn đang ngủ. Cậu không cần để ý, đằng nào thì cậu ấy cũng đâu có thấy gì đâu.”
Thời cấp ba, trường tôi áp dụng chính sách tự do cho giờ nghỉ trưa, học sinh có thể thoải mái trở về ký túc đi ngủ hoặc nghỉ ngơi trong phòng học. Miễn là không ồn ào ầm ĩ, bất kể làm gì cũng chẳng có ai để tâm.
“Quay lại chủ đề chính đi, cậu đang viết cái gì đó?” Dương Tiểu Nghiêu tò mò nhìn chằm chằm quyển sổ giấu dưới hai tay của tôi.
“Không có gì.” Tôi cố ý quay đầu sang một bên, lảng tránh ánh mắt của em.
“Tôi thích đọc tiểu thuyết lắm. Có muốn tôi góp ý cho không?”
Lý do này khiến tôi phần nào lơi lỏng cảnh giác. Tính tới thời điểm này, những gì tôi viết chỉ mới có đúng Trình Tuyết xem qua.
Trước khi quen biết Trình Tuyết, tôi vẫn luôn coi sáng tác là thú tiêu khiển riêng tư của mình, tự mình viết xong thì tự mình xem. Từ hồi cấp hai đã vậy, tôi cũng chẳng thấy có vấn đề gì. Hai chữ nhà văn lúc đó đối với tôi vẫn còn vô cùng thần thánh, không thể chạm tới, dường như sẽ chỉ mãi mãi dừng trong ảo tưởng mà thôi. Mặc dù trong lòng tôi vẫn mơ hồ ao ước lớn lên trở thành nhà văn, tôi cũng chưa từng dám đem tác phẩm của mình cho bất cứ ai kiểm nghiệm.
Trạng thái tự thỏa mãn này vẫn cứ kéo dài như thế, cho đến khi Trình Tuyết xông vào cái thế giới nhỏ quái gở của tôi.
Tôi quen Trình Tuyết cũng là tình cờ ngẫu nhiên. Nhưng chính cái sự ngẫu nhiên đó đã dần dần hé mở thói quen viết lách của tôi, cũng giúp cho tôi lần đầu có được cái nhìn khách quan của một người ngoài đối với những gì mình viết.
Trình Tuyết nói với tôi, cậu ấy cũng thích sáng tác. Gặp được một người cùng chung sở thích, tất nhiên hai đứa cũng sẽ có chút hứng thú với cả thành phẩm của nhau. Thế là lần đầu tiên trong đời, tôi đưa tiểu thuyết mình viết cho người khác xem. Trình Tuyết xem xong, nhìn tôi chằm chằm, sau đó chỉ phán một câu: “Viết tệ thật đấy.”
Câu nói đó của Trình Tuyết cũng khiến tôi mất cân bằng suốt một thời gian. Nếu bây giờ Dương Tiểu Nghiêu nói tôi viết không tệ, có lẽ ít nhất tôi cũng thu hồi được chút thể diện trong lòng.
“Mới chỉ viết khoảng hai nghìn chữ thôi, cũng chẳng có gì thú vị lắm đâu.” Tôi đã muốn cho em xem, nhưng vẫn mở miệng nói cứng.
Con người đúng là một loại động vật phức tạp.
“Tôi cũng chỉ muốn nhìn qua một chút thôi mà.” Dương Tiểu Nghiêu vẫn kiên trì.
“Thế cũng được.” Tôi làm bộ ngập ngừng, đưa sổ qua cho em cầm.
Dương Tiểu Nghiêu hào hứng đọc, còn tôi ở cạnh lo lắng quan sát từng biểu hiện nhỏ trên khuôn mặt em.
Kim phút trên đồng hồ mới chỉ nhích qua năm số, thế mà tôi cứ cảm giác như mình đã nhìn tới cả nửa buổi rồi vậy.
Dương Tiểu Nghiêu mới đóng quyển sổ lại, tôi đã sốt ruột đến chờ không nổi nữa: “Sao rồi?”
Em nghĩ ngợi một chút, chần chừ không muốn mở miệng, tựa như đang thử lòng tôi: “Nói thế nào bây giờ nhỉ? Có vẻ là hơi thiếu hấp dẫn.”
“Thiếu hấp dẫn tới mức nào?”
“Nói thật được không?”
“Cậu cứ nói đi,” tôi hiên ngang lẫm liệt đáp.
“Cậu viết tệ quá.”
Khoảnh khắc đó, trái tim tôi tựa như đã bị ngàn vạn mũi dao cứa vào. Đây là lần thứ hai tôi bị người khác nhận xét như vậy, hơn nữa người ấy lại còn sử dụng giọng điệu thương hại để mà nhọc nhằn nói ra câu đó.
“Nhưng tôi cảm giác cũng đâu tệ lắm.” Tôi gắng gượng phân trần.
“Chắc là kiểu mèo khen mèo dài đuôi,” Dương Tiểu Nghiêu nghĩ nghĩ. “Nói thế thì không đúng lắm nhỉ, hay là bởi vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà nằm ở con mắt của kẻ si tình?”
Thật lòng mà nói, tôi đã bị tổn thương, suýt chút nữa đánh mất luôn tất cả động lực sáng tác trong đời.
Một thời gian dài sau đó, tôi cắm đầu vào đọc tiểu thuyết sách báo, cố gắng học tập phong cách sáng tác của những nhà văn có tên có tuổi. Hồi ấy, ấn phẩm được xưng tụng là Kinh Thánh của văn chương chính là tạp chí “Mầm cây”. Chỉ cần Lam Thiên mua một quyển về, tôi nhất định sẽ là người đầu tiên đọc. Ngoài việc học theo các tác giả lớn, tôi cũng thường xuyên tham khảo những tác phẩm đạt giải cuộc thi “Ý tưởng mới” in trong tạp chí.
Sau khi quen biết Lam Thiên, chúng tôi cũng thường trao đổi thành quả sáng tác với nhau, cảm giác vô cùng mới lạ. Lam Thiên viết văn cực kỳ trau chuốt, không hề giống với sở thích thao thao bất tuyệt của tôi. Lam Thiên nói, cậu ấy yêu thích nhất Lâm Thanh Huyền, ngoài ra cũng còn hay đọc các tác phẩm của Dư Thu Vũ và nữ sĩ Băng Tâm. Khi trò chuyện cùng Lam Thiên về đề tài này, tôi có hơi xấu hổ. Tôi đọc tiểu thuyết vô cùng tạp nham, trong nước ngoài nước, hiện đại kinh điển, thanh xuân huyền huyễn, cái gì cũng thò chân vào một chút. Nếu nói về người tôi hâm mộ nhất, có lẽ là Márquez. Nói ra hơi ngượng, nhưng điều tôi ngưỡng mộ nhất ở Márquez không phải là chuyện ông ấy đã sáng tác được một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế giới, mà là việc ông ấy có thể viết tới vài trang giấy về một tình tiết có thể vô cùng nhỏ bé tầm thường trong mắt người ngoài. Chỉ có điều, mãi tới tận một năm sau tôi mới thực sự hiểu về Márquez. Nếu không phải Dương Tiểu Nghiêu tặng tôi một cuốn “Trăm năm cô đơn”, có lẽ tôi cũng sẽ giống như đa phần người đọc, đều bị phong cách hành văn của tác giả này làm cho lóa mắt.
Say này, Lam Thiên bắt đầu rủ tôi đi ăn cơm cùng. Khoảng thời gian đó, Bạch Hạo Vũ cũng đột nhiên quấn quít dùng bữa bên cạnh Lương Thuần mỗi ngày, tôi không muốn quấy rầy cậu ta nên chuyển sang chạy tới, à không, đi tới nhà ăn cùng với Lam Thiên. Trước kia hay ăn cùng Bạch Hạo Vũ, mỗi lần tiếng chuông kết thúc giờ học vang lên, chúng tôi lại vội vã lao khỏi phòng học y hệt hổ đói vồ mồi. Lam Thiên thì không như vậy. Cậu ta hoàn toàn không giống một kẻ lỗ mãng, mỗi lúc tan lớp đều không nhanh không chậm mà rảo bước về phía nhà ăn. Hai ngày đầu tiên quả thực tôi vẫn không quen, hơn nữa lúc nào xếp hàng cũng gần như luôn luôn ở dưới. May là Lam Thiên thường ngày hiếm khi mở miệng lại rất vui vẻ tán dóc với tôi, vậy nên quá trình xếp hàng không hề tẻ nhạt.
Một thời gian ngắn sau đó, Lam Thiên và Giang Vũ Đồng quen với Trình Tuyết qua sự giới thiệu của tôi. Dù sao đi chăng nữa mấy đứa cũng đều là người có chung sở thích văn vở với nhau, đối với những kẻ cùng chung chí hướng cũng khó nảy sinh mâu thuẫn.
Tháng mười một, tiết trời càng ngày càng lạnh. Gió bắc bắt đầu lan tràn khắp mọi nẻo đường. Cả phòng học lẫn phòng ngủ đều không có máy sưởi, mấy đứa học sinh chúng tôi cũng chỉ còn cách chất chồng quần áo lên người để chống chọi lại khí lạnh ngoài trời.
Một hôm, sau khi ăn trưa trở về, Lam Thiên cầm một quyển “Mầm cây” trên tay, mở lời hỏi tôi: “Lăng Tử Dương, có muốn tham gia cuộc thi “Ý tưởng mới” không?”
“Sao lại đột nhiên hỏi vậy?” Ý kiến bất thình lình của Lam Thiên khiến tôi hơi chút giật mình.
“Có thể xem xem trình độ sáng tác của mình đã tới đâu rồi. Hơn nữa nếu đoạt giải, còn có thể được ưu tiên tuyển sinh ở một số trường đại học.”
“Nghe có vẻ không tồi nhỉ.” Tôi cười cười.
“Cậu có thể thử học theo phong cách viết văn ở trong “Mầm cây”, như vậy chắc là sẽ dễ được chọn hơn đó.”
“Hay là rủ cả mọi người cùng tham gia hết thử xem?” Tôi gợi ý, không kìm được mà nhếch mép cười ranh mãnh.
Tuy rằng tham dự cuộc thi này cũng không phải bởi chúng tôi thực sự tự tin vào khả năng viết của mình, nhưng những lợi ích khi đoạt giải đúng là vô cùng hấp dẫn. Chưa nói đến việc nếu có giải con đường sáng tác sau này sẽ thênh thang rộng mở, chỉ cần nghĩ tới việc trước mắt thôi là cũng thấy hào hứng rồi. Đạt giải cuộc thi, cũng tương đương với đã bước được một chân vào trong cổng trường đại học.
Thế là, dưới sự xúi giục của tôi, Giang Vũ Đồng và Trình Tuyết cũng đã đồng ý tham gia cuộc thi “Ý tưởng mới” dành cho sáng tác.
Vào khoảng thời gian đó, bốn người chúng tôi cùng nhau viết, cùng nhau bình luận, cùng sửa chữa cho nhau, dần dần hợp thành một “phòng làm việc” nho nhỏ. Vốn dĩ tôi cũng chỉ nói giỡn rằng từ giờ về sau ông chủ phòng này sẽ chính là tôi, không ngờ bọn họ lại đều vui vẻ chấp nhận. Thế là, từ mấy lời đùa giỡn, văn phòng nửa đùa nửa thật của bốn đứa tôi chính thức ra đời. Đây cũng là lí do hơn một năm sau đó, Giang Vũ Đồng luôn miệng gọi tôi là Boss.
Đương nhiên, kết quả tham dự cuộc thi vẫn là trật lất. Đừng nói đoạt giải, đến vòng dự tuyển chúng tôi cũng đều không được thông qua. Mãi tới khi có danh sách giải thưởng chính thức, đọc được những tác phẩm đó, tôi mới phát hiện những gì mình viết thực sự không thể sánh nổi, thậm chí còn muốn mang hết tất cả ra ngoài quăng vào thùng rác.
Chuyện này đối với bọn tôi đương nhiên là một đả kích không nhỏ, nhưng cũng giúp cho mấy đứa nhận thức được tầm chênh lệch thực lực giữa mình và người ta. Chúng tôi đều là những đứa trẻ con thích viết, không phải thiếu niên thiên tài. Chúng tôi có thể thua trên vạch xuất phát, nhưng có thắng ở vạch đích hay không, còn phải dựa nhiều vào những nỗ lực nằm trong tương lai.
Sau khi cuộc thi kết thúc được hơn một tháng, mấy người chúng tôi mới có thể dần dần buông bỏ chuyện này trong lòng.
Học kỳ sau của năm thứ hai, mùa xuân lại đến. Bốn đứa học sinh tụi tôi như được tiếp thuốc tăng lực, mặc dù bị đổi chỗ ngồi cũng thường xuyên túm tụm lại với nhau thảo luận những tư liệu sống bản thân cảm thấy thú vị. Tôi nghĩ, phần lớn sự nhiệt thành đó đến từ cảm giác mới mẻ đối với phòng làm việc mới. Bạch Hạo Vũ thậm chí còn ca thán rằng dạo đó tôi dính chặt với hội Lam Thiên tới mức quên luôn cả sự tồn tại của cậu ta. Nghe Bạch Hạo Vũ nói vậy, tôi chỉ đành nhẹ giọng dỗ cành cậu ấy giống như dỗ một nàng thiếp đã bị lang quân lạnh mặt lâu ngày: “Yên tâm đi, gia vẫn chưa quên nàng.” Thế là cả ngày hôm đó, Bạch Hạo Vũ không thèm liếc mắt nhìn tôi nửa cái.
Khoảng thời gian ấy, suối nguồn cảm hứng trong tôi đột ngột tuôn trào ồ ạt, ham muốn sáng tác dâng lên mạnh mẽ. Thế là tôi nhấc bút, muốn viết một cuốn tiểu thuyết, xem xem bản thân mình sau mấy tháng có trưởng thành thêm được chút nào không.
Tôi dùng hết ba ngày dàn dựng cốt truyện và dàn ý chính, ngay cả trong lúc học đầu cũng treo ngược trên cây. Những ngày tháng bốc đồng đó, đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in.
Tôi vẫn còn nhớ rõ, bản thảo tiểu thuyết ấy có tên “Sách của Cát”. Mặc dù cái tên này là tôi “mượn” từ một mẩu truyện ngắn trong sách giáo khoa, nhưng nội dung lại hoàn toàn khác biệt. Nói một cách chính xác hơn, lý do tôi sử dụng cái tên đó là vì thấy nó đặc biệt phù hợp với nội dung cuốn sách của mình.
“Sách của Cát” ngụ ý là một quyển sách dài vô cùng tận. Tôi đã mang ý tưởng này đặt vào tiểu thuyết, khiến nó trở thành mối quan hệ ràng buộc giữa nam nữ chính.
Tôi vẫn nhớ nội dung của bản thảo ấy, đại khái là: Nam chính là một cậu trai tên Diệp Phàm. Dòng tộc cậu ta di truyền một loại bệnh kỳ quái, gọi là hội chứng thành niên. Biểu hiện của hội chứng thành niên chính là sau khi đã đến tuổi trưởng thành, những đứa trẻ trong gia đình này sẽ mất đi khả năng ghi nhớ. Tất cả ký ức của họ sẽ chỉ tồn tại trong vòng chưa tới một ngày. Mỗi lần tỉnh lại vào sáng hôm sau, họ sẽ quên đi tất thảy những chuyện xảy ra lúc trước. Hơn nữa, những người mắc phải hội chứng này thường sẽ không sống quá ba mươi tuổi. Bởi loại bệnh quái dị này, một quyển sách đã được truyền lại và kế thừa qua từng đời gia tộc, đó chính là “Sách của Cát”. Đây không hẳn một cuốn sách, nó là một cuốn nhật ký bất tận thì chính xác hơn. Cuốn nhật ký này được dùng để ghi lại những chuyện đã xảy ra của người sở hữu sau khi mất đi ký ức. Đương nhiên, sẽ phải có một người khác ghi chép thay cho người đó.
Theo truyền thuyết của gia tộc, nếu có một người tình nguyện giúp người mắc bệnh đều đặn ghi lại trải nghiệm cuộc sống mỗi ngày vào quyển sách này thì đến năm ba mươi tuổi, người bị bệnh sẽ có thể lấy lại toàn bộ hồi ức đã mất, thậm chí còn có thể cùng với người ghi chép ở cạnh bên nhau mãi mãi.
Năm mười bảy tuổi, Diệp Phàm tiếp nhận cuốn “Sách của Cát” từ tay bố mình. Diệp Phàm không muốn cứ vậy từ bỏ cuộc sống, vậy nên ngày nào cậu ta cũng tới thư viện tìm tòi đủ loại tài liệu nghiên cứu về chứng bệnh này. Một ngày, Diệp Phàm gặp được một cô gái mang tên Tô Mộc. Nếu có một loại tình yêu có thể gọi là nhất kiến chung tình, thì đó nhất định chính là ánh mắt của Diệp Phàm khi lần đầu trông thấy cô. Ánh mặt trời ngoài khung cửa rọi lên mặt bàn bên trong thư viện, khiến cả khuôn mặt Tô Mộc bừng sáng. Dưới ánh nắng chan hòa, vẻ mặt Tô Mộc lúc đang chăm chú đọc sách xinh đẹp vô cùng. Diệp Phàm đã yêu người con gái ấy. Thế nhưng cậu ta không dám bày tỏ tình cảm của mình, bởi vì cậu biết, bản thân chỉ còn chưa tới nửa năm nữa thôi. Nửa năm sau, cậu ta sẽ chính thức mất đi ký ức.
Ở gần nhau mấy tháng, Tô Mộc cũng đã bắt đầu cảm mến Diệp Phàm. Cô thích một người con trai rực rỡ tựa ánh dương, hơn nữa chí hướng cũng rất hợp mình như cậu. Nhưng một tháng trước sinh nhật lần thứ mười tám, Diệp Phàm bỗng nhiên đột ngột biến mất, rời bỏ thế giới xung quanh Tô Mộc. Tô Mộc liều mạng kiếm tìm khắp nơi, cuối cùng tìm được một quyển sách nằm tận trong cùng thư viện, đó chính là “Sách của Cát”. Thỉnh thoảng cô có thấy Diệp Phàm cầm quyển sách này, bởi vậy Tô Mộc biết đây không phải là sách của thư viện. Từ “Sách của Cát”, Tô Mộc đã phát hiện ra bí mật của gia tộc cậu. Tô Mộc muốn giúp đỡ Diệp Phàm, nhưng lại không biết cậu đang ở đâu.
Mấy tháng sau, Tô Mộc đã gặp Diệp Phàm ở trong bệnh viện tâm thần.
Từ đó về sau, ngày nào cô cũng tới thăm Diệp Phàm. Nhưng Diệp Phàm đã không còn nhận ra Tô Mộc là ai nữa. Tô Mộc không vì vậy mà từ bỏ. Cô lựa chọn ở cạnh cậu, ngày ngày thay cậu ghi chép cuộc sống của mình vào bên trong cuốn sách kia.
Thế nhưng mỗi ngày đối với Diệp Phàm là một sự khởi đầu mới, còn đối với Tô Mộc lại là một sự giày vò mới. Ngày này qua ngày khác, luôn luôn phải chăm sóc một người cứ dùng ánh mắt xa lạ nhìn mình, luôn luôn phải giảng giải cho người mất trí nhớ đó những câu chuyện cũ kỹ đã xảy ra từ lâu… Mãi cho tới khi Diệp Phàm tròn ba mươi tuổi…
Câu chuyện này, tôi cũng chỉ viết trong có vẻn vẹn ba ngày. Đến cuối cùng, tôi đã an bài một cái kết đẹp cho hai người họ. Diệp Phàm khôi phục ký ức, truyền thuyết đúng là sự thật.
Lúc viết xong, tôi còn cảm giác thành công mỹ mãn. Đương nhiên, đó chính là tác phẩm tốt nhất tôi từng đặt bút từ trước tới nay. Tôi vội vã mang sản phẩm mới của mình tới chỗ mấy người Lam Thiên, sốt ruột muốn nghe bọn họ cất lời khen ngợi.
“Tiến bộ nhiều phết đấy.” Đánh giá của Lam Thiên không khiến tôi hào hứng mấy.
“Vậy là vẫn còn chỗ nào tôi viết chưa tốt lắm sao?” Tôi hỏi cậu ta.
Lam Thiên lắc đầu.
Trình Tuyết bên cạnh sau khi xem xong thì đưa bản thảo cho Giang Vũ Đồng. Trình Tuyết nhìn tôi: “Kết cục viên mãn quá, tôi thích bi kịch hơn.”
“Nhưng mà hài kịch vẫn luôn được lòng độc giả hơn chứ?”
“Được hơn, nhưng không chân thật. Tình yêu có thể thiên trường địa cửu, nhưng không có ai có nghĩa vụ phải vì một mong mỏi chưa chắc đã thành tình yêu mà hao phí sức lực cả đời của mình. Nếu Tô Mộc ở cạnh giường bệnh của Diệp Phàm hết mười hai năm mà truyền thuyết lại không trở thành sự thật thì phải làm sao? Liệu có ai tình nguyện vì một truyền thuyết chưa được kiểm chứng mà hi sinh đủ mười hai năm trời, không hề thay lòng đổi dạ?”
Tôi không biết phải nói gì.
“Tôi thấy kết thúc này cũng được đấy.” Giang Vũ Đồng lên tiếng sau khi đọc qua một lượt.
Lúc này, nội tâm của tôi đã bị Trình Tuyết dao động. Đúng vậy, mặc dù là yêu một người, cũng chẳng thể chịu đựng được việc người mình yêu cứ đối xử với mình như kẻ xa lạ suốt mười hai năm, sau đó lại còn kiên trì trông đợi vào một phép màu chưa từng xảy đến.
Tôi lại nhớ tới “Thị trấn nơi chỉ mình tôi lưu lạc”. Lúc xem xong bộ anime đó, tôi đã khóc. Nam chính và nữ chính thích nhau. Thậm chí vì nữ chính, nam chính còn biến thành người thực vật. Thế nhưng nữ chính lại vẫn kết hôn cùng một người khác, điều duy nhất cô ấy có thể làm cho nam chính chỉ là đi thăm cậu ấy mỗi ngày. Chính xác, không ai có nghĩa vụ vì một mong mỏi chưa chắc đã thành tình yêu mà đi lấp kín đường sống duy nhất của mình.
Tôi tiếp nhận lời đề nghị của Trình Tuyết, sửa lại kết cục câu chuyện: Tô Mộc ngày ngày ghi lại ký ức giúp cho Diệp Phàm. Nhưng nhiều năm sau, Tô Mộc ngã bệnh. Khi đó, cô mới hiểu được, không phải những người ghi chép trước kia không đủ yêu, mà là bọn họ không chịu đựng nổi sự tra tấn về mặt tinh thần trong suốt mười hai năm ấy. Hơn nữa, sự tra tấn đó lại đến từ chính con người mà họ dốc lòng yêu thương. Tô Mộc từ bỏ, nhưng cô biết cô từ bỏ không phải vì cô không yêu Diệp Phàm. Cô cất “Sách của Cát” vào lại một góc sâu trong thư viện, không hề tới gần đó nữa. Nhưng thỉnh thoảng, cô vẫn sẽ tới thăm anh. Sau đó Tô Mộc kết hôn, có công việc riêng và gia đình riêng, những ngày đi thăm Diệp Phàm càng lúc càng thưa thớt dần.
Lần đến thăm cuối cùng, cũng chính là lần tham gia tang lễ Diệp Phàm. Ngày đó, tay trái của cô dắt theo một cậu nhóc nhỏ, tay phải khoác tay một người đàn ông trong bộ Âu phục chỉnh tề, vì Diệp Phàm mà nhỏ xuống giọt nước mắt bi thương cuối cùng.Bonus 1