Bấy giờ đã tới canh ba, tiếng vó ngựa dồn dập làm cảnh tĩnh mịch của sa mạc sôi động hẳn lên, khiến người ta cảm thấy bất an.
Khấu Anh Kiệt đứng lên rời khỏi bờ nước.
Một kỵ đội gồm tám kỵ mã rầm rập phi tới băng ngang qua trước mặt Khấu Anh Kiệt cách chỉ ba bốn trượng.
Đội nhân mã này chẳng những toàn một loại ngựa hồng mã mà kỵ sĩ cưỡi trên lưng chúng cũng giống nhau, kể cả tầm vóc, trang phục và dáng điệu.
Cả tám con ngựa hòng trên cổ đều đeo một chiếc chuông bằng bạc, âm thanh này phát ra còn dòn dã ân vang hơn cả tiếng vó, tựa hồ như đội ngự tiền của vua chúa dẹp đường trước khi người ngự giá.
Chỉ là bọn này trang phục không giống lính ngự tiền mà mặc ngoài một chiếc áo chống tên, trông na ná như áo giáp nhưng chỉ che phần ngực và bụng, bên trong còn mặc thêm áo da.
Đặc biệt trên đầu chúng còn chít một băng vải điều, từ xa cũng nhìn rõ.
Trước yên ngựa đều có treo một thanh đao hình thù khá kỳ dị, lưỡi cong như chiếc câu liêm.
Ở vùng Mạc Bắc này rất ít khi gặp người trang phục như thế.
Không biết có nhận ra Khấu Anh Kiệt hay không nhưng đoàn kỵ sĩ lướt ngang qua chỉ cách có ba bốn trượng nhưng không ai nhìn chàng, người nào mắt cũng nhìn thẳng phía trước.
Khấu Anh Kiệt đang ngơ ngẩn nhìn theo thì lại nghe tiếng vó, cũng từ hướng đó hiện ra kỵ đội thứ hai.
Đội này chỉ có bốn kỵ sĩ trên lưng bốn con ngựa đen tuyền, phục trang cũng giống đội đầu tiên, chỉ là đầu không chít khăn điêu mà đội mũ cắm lông chim và trên cổ ngựa không đeo chuông.
Kỵ đội thứ hai này cũng lướt qua rất nhanh.
Khấu Anh Kiệt nghĩ thầm :
– “Không biết nhân vật trọng yếu nào tới Mạc Bắc mà tiền hô hậu ủng ghê thế?”.
Chàng quay lại nhìn, quả nhiên phía sau còn có hai kỵ mã và một cỗ kiệu tiến tới, cũng nhanh không kém hai kỵ đội đi trước.
Hai kỵ sĩ cưỡi trên lưng hai con ngựa bạch không có sợi lông tạp nào chạy sánh đôi trước xe kiệu!
Từ xa Khấu Anh Kiệt đã nhận ra một nam một nữ.
Chàng chú ý nhìn chiếc xe kiệu!
Thoạt trông đã thấy là một loại kiệu xa rất sang trọng, xe sơn son thiếp vàng, kiệu phủ rèm gấm lụa vàng giống như những bậc vương hầu, ngay cả người đánh xe trông cũng rất quý phái!
Rèm cửa buông kín không thấy gì bên trong.
Hai kỵ sĩ đi trước chợt trông thấy Khấu Anh Kiệt, mặt lộ vẻ ngạc nhiên cũng ghì cương thắng gấp.
Hai con bạch mã đang phi nước đại bị ghìm đột ngột hý vang, dựng đứng hai chân trước đi một vòng mới dừng lại.
Bấy giờ Khấu Anh Kiệt mới nhìn rõ diện mạo của hai người.
Nam nhân tuổi trên dưới ba mươi dáng người uy vũ nhưng nét môi và mắt có vẻ gì lạnh lùng tàn ác.
Người kia vì là nữ nhân nên Khấu Anh Kiệt không dám nhìn kỹ nhưng chỉ cần thoáng qua cũng thấy đó là một thiếu nữ rất đẹp!
Cả hai đều mặc áo da, đối với người nam nhân thì đó là bình thường nhưng với nữ nhân thì hơi trận mạc một chút.
Thiếu nữ có vóc người khá cao, ngồi trên ngựa không thấp hơn vị hán tử đồng hành mấy tý.
Không biết do vô tình hay cố ý, con ngựa của thiếu nữ sau khi quay một vòng thì dừng lại cách Khấu Anh Kiệt chỉ chừng hai trượng.
Thiếu nữ nhìn chàng bằng ánh mắt ngạc nhiên pha nét hiếu kỳ.
Đến lúc này thì Khấu Anh Kiệt dù không muốn nhìn cô ta cũng không được.
Thiếu nữ chừng trên dưới hai mươi tuổi, đã không còn thơ ngây nữa, khuôn mặt rất xinh đẹp với đôi môi đỏ mọng, làn da mịn màng như tuyết hai hàng mi dài cong vút và đôi mắt sáng long lanh đang nhìn chàng không chớp.
Thiếu nữ giơ cao chiếc roi ngựa như sẵn sàng bất cứ lúc nào cũng có thể đánh xuống đầu thiếu niên trước mặt mình.
Khấu Anh Kiệt bất giác lùi lại một bước.
Thiếu nữ cất tiếng hỏi :
– Người làm gì ở đây?
Khấu Anh Kiệt ngớ người hỏi :
– Cô nương hỏi tôi?
Giọng cô ta trở nên gay gắt :
– Không hỏi người thì hỏi ai? Chẳng lẽ ta hỏi đầu gối mình?
Khấu Anh Kiệt rủa thầm :
– Rõ là khéo gây sự!
Nhưng vẫn trả lời :
– Tôi đi đường qua đây dừng lại nghỉ!
Thiếu nữ quát lên :
– Nói bậy!
Đồng thời vung vẩy ngọn roi như chực đánh xuống.
Khấu Anh Kiệt lại lùi bước nữa.
Tên hán tử đồng hành giục ngựa tới gần, trừng mắt nhìn Khấu Anh Kiệt hừ một tiếng nói :
– Đêm hôm khuya khoắt người đứng làm gì ở đây? Sao thấy tiền kỳ mã đội mà không chịu tránh cho xa? Muốn chết hay sao?
Khấu Anh Kiệt thấy đối phương hoạch họe như vậy không khỏi bất bình.
Nhưng vì ngày hôm đó đã gặp nhiều chuyện phiền phức không muốn sự tình rắc rối thêm nên không nói gì, lại lùi thêm hai bước.
Sự im lặng của Khấu Anh Kiệt làm cho tên hán tử càng tức, quát lên :
– Ai bảo người tới đây, nói mau!
Khấu Anh Kiệt không nén được xẵng giọng đáp :
– Cần gì ai bảo! Đường giữa trời đất, các vị đi được, người khác không đi được hay sao?
Tên hán tử rít lên :
– Người muốn chết!
Lời chưa dứt đã vung chưởng đánh ra.
Thiếu nữ vội kêu lên :
– Nhị ca! Đừng...
Đồng thời vươn người sang chộp lấy tay hán tử.
Chưởng lực rất mạnh, may bị thiếu nữ kéo tay làm đổi hướng nên chỉ sượt qua vai Khấu Anh Kiệt nhưng cũng khiến chàng đau như bị dao chém, người lạng đi, phải lùi lại hai bước mới đứng vững.
Nếu không bị ngăn cản, chưởng lực trúng đích thì không biết sự thể sẽ ra sao.
Vô cớ bị ức hiếp, Khấu Anh Kiệt nổi giận sắp phát tác thì chợt từ trong xe kiệu vang lên giọng nói trầm trầm :
– Mạnh Hùng! Lại đây!
Thanh âm tuy không lớn nhưng nghe rất rõ.
Tên hán tử vội cúi người đáp :
– Tuân lệnh!
Rồi phi ngựa tới trước chiếc xe kiệu lật đật nhảy xuống ôm quyền nói :
– Phụ thân có gì chỉ dạy!
Tiếng người trong xe hỏi :
– Chuyện gì vừa xảy ra thế?
Tên hán tử vừa được gọi là Mạnh Hùng đáp :
– Dạ không có gì quan trọng. Nhi tử thấy một người đi đường giữa đêm khuya mà còn lảng vảng ở đây!
Người trong kiệu ngắt lời :
– Có gì đáng khả nghi không?
– Dạ, không!
– Nếu vậy thì để hắn đi!
Tên hán tử Mạnh Hùng cúi đầu đáp :
– Tuân lệnh!
Hắn định bỏ đi thì người trong kiệu gọi giật lại :
– Khoan đã!
Mạnh Hùng đành dừng lại hỏi :
– Phụ thân còn sai bảo gì nữa?
Người trong kiệu hỏi :
– Đây là khu vực nào?
Mạnh Hùng đáp :
– Bẩm! Đây là địa khu thuộc Phân đà thứ mười một của Dương Lâm Kỳ Bộ!
– Ai là quản khu?
Mạnh Hùng ngập ngừng đáp :
– Cái đó... để nhi tử kiểm tra lại đã!
Hắn quay lại vẫy tay gọi thiếu nữ đang ngồi trên bạch mã :
– Tiểu Vi! Tới đây!
Thiếu nữ ừm một tiếng còn đôi mắt nhìn Khấu Anh Kiệt lần nữa, khóe mắt dường như mỉm cười.
Sau đó cô ta mới quay ngựa phi tới bên Mạnh Hùng nhảy xuống.
Mạnh Hùng hỏi :
– Cha hỏi địa khu này do ai quản hạt. Muội có mang theo Thiết Lệnh Đồ trong người đó không?
– Thì ra đó là hai huynh muội!
Thiếu nữ có tên Tiểu Vi gật đầu đáp :
– Có!
Nói xong cởi chiếc túi nhỏ bằng da báo đeo bên vai, lấy ra một tấm da dê trải ra trước mặt.
Có lẽ đó là một tấm địa đồ.
Mạnh Hùng đánh đá lửa soi vào tấm da, hai người chụm đầu xem!
Khấu Anh Kiệt thấy việc không liên quan gì đến mình định bỏ đi, nhưng nhân vật kỳ bí trong kiệu gợi lên trong lòng chàng nỗi hiếu kỳ.
Những người này từ đâu đến? Họ đi đâu mà trông khí thế ngất trời như vậy?
Người trong kiệu là ai?
Chàng đưa mắt nhìn thấy hai đội kỵ mã trước cũng dừng lại cách chừng nửa dặm không tiến lên nữa.
Khấu Anh Kiệt còn phát hiện phía sau còn có một số nhân mã nữa, nhưng không rõ bao nhiêu.
Xem ra nhân vật trong kiệu chẳng phải tầm thường, tiền hô hậu ủng rầm rộ như bậc vương hầu xuất hành vậy!
Thoạt tiên chàng cho rằng đây là vị quan nào đó đi tuần giám, nhưng nghĩ kỹ thì không giống.
Khấu Anh Kiệt đang trầm tư mặc tưởng thì thiếu nữ Tiểu Vi đã thu tấm da dê lại bỏ vào túi như cũ.
Mạnh Hùng hướng sang xe kiệu cung kính nói :
– Hài nhi đã kiểm tra đây đúng là địa phận của Phân đàn thập nhất do Tiểu ngũ long phụ trách.
Người trong kiệu hỏi :
– Chúng không ra nghênh đón hay sao?
Mạnh Hùng đưa mắt nhìn quanh rồi lắc đầu đáp :
– Không thấy!
Hắn hừ một tiếng nói tiếp :
– Bọn này thật to gan! Lão nhân gia có muốn triệu hồi chúng tới đây không?
Người trong kiệu nói :
– Âu Dương Thiên xưa nay vốn cúc cung tận tụy chưa bao giờ dám trễ nải, huống chi lần này đã có chỉ lệnh cho hắn từ trước? Người hãy phóng hỏa lôi tiễn cho hắn tới đây chiêu kiến!
Mạnh Hùng dạ một tiếng rồi thò tay vào túi lấy ra một vật!
Khấu Anh Kiệt nghe ba tiếng Tiểu ngũ long đã chột dạ, sau còn nghe tên Âu Dương Thiên thì càng kinh hãi.
Lúc chiều lão nhân cưỡi lạc đà tự xưng họ Quách nói rằng năm người bị chàng giết là Tiểu ngũ long, do tên mặc áo da sử đôi Phán Quan bút là Âu Dương Thiên cầm đầu.
Bọn này là một tốp thổ phỉ hoành hành vùng Ký Bắc, nhưng sau lưng chúng còn có một thế lực rất lớn.
Nay xem ra thì thế lực mà Quách lão nhân nói tới chính là bọn người này.
Như vậy có thể khẳng định người trong kiệu không phải quan gia mà là một nhân vật hắc đạo đầu sỏ.
Nhưng hắn là ai?
Vấn đề đó càng gọi lên sự tò mò của Khấu Anh Kiệt!
Chàng nhìn tới thấy Mạnh Hùng lấy ra một cái ống nhưng vì xa quá nên không rõ là thứ gì.
Theo lời người trong kiệu vừa nói, chàng đoán chắc đó là ống hỏa lôi để phóng tiễn lệnh.
Quả nhiên Mạnh Hùng giương ống lên tiếp đó nghe nổ Bùm một tiếng, cùng tia lửa bay vút lên trời.
Từ trên cao mấy chục trượng, hỏa lôi lại nổ vang tiếng nữa, tỏa ra vô số tia lửa đỏ rực trời, lả tả rơi xuống.
Mạnh Hùng còn bắn thêm hai phát lệnh tiễn nữa mới cất đi.
Tin rằng người trong kiệu là nhân vật đầu sỏ trong hắc đạo, do lòng hiếu kỳ muốn biết là ai nên Khấu Anh Kiệt không muốn bỏ đi ngay nhưng chàng cẩn thận đến gần con Hắc Thủy Tiên nhảy lên yên, định bụng nếu xảy ra điều gì bất trắc, với loại thiên lý mã này sẽ không ai đuổi kịp.
Ngồi vững trên yên ngựa rồi, chàng nhìn lại hiện trường càng thấy rõ hơn!
Sau ba phát pháp hiệu, hiện trường trở nên yên tĩnh, chỉ còn tiếng những con ngựa sốt ruột thở phì phì, khua móng cồm cộp.
Hiển nhiên người trong kiệu và Mạnh Hùng, Tiểu Vi đang nóng lòng chờ Tiểu ngũ long đến triệu kiến.
Còn Khấu Anh Kiệt biết rằng chúng đã bị giết nhưng vẫn nóng lòng không biết sự thể sẽ ra sao?
Chừng hai khắc sau trên sa mạc mới nghe tiếng vó ngựa.
Khấu Anh Kiệt đưa mắt nhìn, thấy hai kỵ mã phi tới như bay.
Hai con ngựa chưa kịp dừng, hai kỵ sĩ đã nhảy xuống.
Một trong hai tên có bộ mặt đen kịt, để râu quai nón rậm rì, vóc người vạm vỡ, còn tên kia cao gầy, không để râu!
Cả hai đến trước Mạnh Hùng cúi rạp xuống vái chào thái độ rất cung kính.
Tên râu rậm nói :
– Tổng tọa đại giá quang lâm bổn khi, ty chức chậm đến hầu giá, vạn mong thiếu quân và tiểu thư tha tội!
Nói xong quỳ xuống vái thêm hai vái nữa.
Mạnh Hùng hỏi :
– Tiểu ngũ long sao không tới?
Hán tử râu quai nón trả lời :
– Khải bẩm thiếu quân, Âu Dương Thiên và bốn vị huynh đệ bị sát hại, mới phát hiện được tử thi lúc tối. Ty chức đã huy động toàn bộ lực lượng của Đệ thập phân khu truy bắt hung thủ.
Mạnh Hùng sửng sốt hỏi :
– Bọn Âu Dương Thiên cả năm người đều bị giết?
Tên cao gầy đáp :
– Dạ.
Mạnh Hùng lại hỏi :
– Hai người tên gì?
Hán tử râu quai nói đáp :
– Ty chức là Úy Trì Điền.
Tên cao gầy tiếp :
– Thuộc hạ là Tào Kim Hổ.
Mạnh Hùng bước lại gần xe kiệu :
Lần này thì phụ tử nói rất nhỏ nên chẳng những Khấu Anh Kiệt ở xa mà ngay cả hai tên hán tử Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ cũng không nghe được.
Lát sau Mạnh Hùng quay lại chỗ hai tên thuộc hạ hỏi :
– Tổng lệnh chủ hỏi các người có nhận được chỉ lệnh do khoái mã phái đi không?
Hai tên này vẫn quỳ rạp xuống không dám ngẩng lên.
Úy Trì Điền đáp :
– Bẩm thiếu quân... đã nhận được từ bảy ngày trước!
Mạnh Hùng tra vấn :
– Kim lệnh nói gì?
Úy Trì Điền lúng túng đáp :
– Cái đó...
Mạnh Hùng gằn giọng :
– Nói.
– Dạ Tổng lệnh chủ ra lệnh dụ cho biết địa Thập nhất khu nội trong ba ngày phải tập trung thành đội ngũ chỉnh tề, sẵn sàng chờ lệnh của Long lệnh chủ hành sự, đồng thời đảm bảo an toàn dọc đường không để người nào bén mảng đến.
Mạnh Hùng cười nhạt hỏi :
– Các người có thực hiện đầy đủ không?
Hai tên nghe nói thế sợ run lên.
Tào Kim Hổ cố thu hết can đảm nói :
– Bẩm thiếu quân, bọn thuộc hạ chỉ nghe theo mệnh lệnh của Âu dương đại ca mà hành sự thôi!
Mạnh Hùng hừ một tiếng nói :
– Các người đã biết lệnh của Tổng lệnh chủ, biết Âu Dương Thiên không chấp hành mà cứ theo, như vậy chẳng hóa ra các người làm trái lệnh Tổng lệnh chủ?
Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ nghe vậy sắc mặt chẳng còn một chút huyết sắc, lạy như tế sao nói :
– Thuộc hạ dù ăn phải gan hùm cũng không dám trái lệnh Tổng lệnh chủ. Chỉ là năm vị đương gia bất ngờ gặp nạn nên khu bộ trở nên hỗn loạn!
Nói tới đó, cả hai cùng khóc rống lên.
Khấu Anh Kiệt không hiểu vì sao hai tên cường đạo mà khóc thảm thiết như vậy, chỉ lờ mờ đoán rằng chúng sẽ bị trừng phạt nặng.
Bấy giờ ở hiện trường lặng hẳn đi, cả lũ ngựa cũng không gõ móng nữa, chỉ nghe tiếng khóc thê lương của hai tên hán tử!
Mạnh Hùng lại đến gần xe kiệu, chắc để thỉnh thị ý kiến xử lý.
Đối với nhân vật trong xe kiệu lòng hiếu kỳ của Khấu Anh Kiệt ngày càng tăng, chàng chăm chú nhìn vào xe nhưng rèm buông kín không nhìn thấy gì.
Chợt một cơn gió nổi lên bay phất tấm rèm, tuy chỉ thoảng chốc thôi nhưng cũng đủ cho Khấu Anh Kiệt thỏa trí tò mò.
Nhờ trong kiệu sáng đèn nên chàng thấy được mặt người trong kiệu.
Lúc đầu căn cứ vào cách xưng hô, chàng đoán rằng người đó đã có nhi tử lớn như Mạnh Hùng tất phải là một lão nhân, ít nhất tuổi ngoài ngũ tuần.
Nhưng khi rèm kiệu bị gió cuốn lên chàng thấy người trong kiệu chỉ là một trung niên nhân mới chừng bốn mươi tuổi, mặt trắng trẻo, dáng dấp giống như thư sinh hơn là một tên cường đạo đầu sỏ.
Chỉ sau một thoáng, rèm cửa lại buông xuống.
Lại thấy Mạnh Hùng quay trở lại chỗ hai tên hán tử nói :
– Tổng tọa lần này đặc cách gia ân tha tội cho các người. Hãy mau tạ ân điển rồi đi đi.
Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ mừng như cha chết sống lại, vội vàng hướng tới xe kiệu giập đầu bái lạy, sau đó quay sang huynh muội Mạnh Hùng rối rít tham bái.
Cung kính hành lễ xong, cả hai đứng dậy đi về phía ngựa của mình, nhảy lên yên giật cương phóng đi.
Khấu Anh Kiệt ngơ ngác nhìn theo, không hiểu vừa rồi xảy ra chuyện gì.
Cứ nhìn Tào Kim Hổ và Úy Trì Điền khóc thảm thiết như trẻ nít, ai cũng tin rằng chúng sẽ bị khép vào tội chết, đâu ngờ chúng được tha đi một cách dễ dàng như thế?
Cho dù không có quan hệ gì, nhưng thấy chúng khóc thương tâm như vậy, nay được tha đi, chàng cũng thấy nhẹ nhõm.
Nhưng chàng đã thở phào hơi sớm.
Đôi ngựa của Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ vừa tung vó thì chợt thấy Mạnh Hùng nhếch mép cười nhạt, tay phất liền hai cái.
Hai vệt sáng nhỏ xíu lóe lên dưới ánh trăng, nhằm vào lưng hai kỵ sĩ bay tới nhanh như hai tia chớp.
Khấu Anh Kiệt định kêu lên nhưng kịp ngăn lại được.
Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ rú lên thê thảm, hầu như cùng một lúc ngã ngựa, theo đó lăn đi mấy vòng rồi nằm im.
Hai con ngựa mất chủ còn chạy thêm mấy bước mới dừng lại quay đến bên chủ, đưa mũi ngửi khìn khịt rồi chừng như biết chủ đã gặp tai nạn, ngẩng đầu hí lên nghe thật thê lương.
Khấu Anh Kiệt phát ngơ, đưa mắt thất thần nhìn hai tử thi lại nhìn Mạnh Hùng, kẻ sát nhân độc ác.
Tiểu Vi nhíu đôi mày liễu nhìn Mạnh Hùng nói :
– Nhị ca! sao lại dùng Đạn chỉ phi châm giết chúng?
Mạnh Hùng cười khảy đáp :
– Phụ thân giao cho ta toàn quyền xử lý việc này. Môn quy của Thiết gia môn chúng ta là phải chứng tỏ quyền uy và không để bất cứ kẻ thuộc hạ nào dám trái lệnh.
Nói xong phất tay ra hiệu cho tên xà ích đánh xe đi, còn mình cũng giật cương ruổi ngựa.
Chốc lát đoàn nhân mã lại rầm rộ lên đường.
Tiểu Vi còn nán lại, thúc ngựa tới gần thi thể của Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ cúi nhìn một lát.
Khi ngẩng lên, bất chợt cô ta trông thấy Khấu Anh Kiệt đang cưỡi trên lưng Hắc Thủy Tiên nhìn tới hiện trường vừa xảy ra thảm án đến thất thần.
Nhìn theo kỵ đội, chừng như cho rằng mình còn thời gian đuổi kịp, Tiểu Vi dong ngựa thẳng tới chỗ Khấu Anh Kiệt.
Chàng cũng giục ngựa tiến lên mấy bước.
Bốn mặt gặp nhau, cả hai cùng ngẩn ngơ giây lát.
Cuối cùng Tiểu Vi lên tiếng :
– Người chưa đi sao?
Khấu Anh Kiệt đáp :
– Vừa rồi được cô nương cứu giúp nên tránh được một chưởng của lệnh huynh, nay xin được ngỏ lời cảm tạ.
– Đã biết thế thì hãy mau đi khỏi nơi đây. Nhị ca ta không chút đắn đo khi giết thêm một người đâu.
Khấu Anh Kiệt không để ý đến lời cảnh cáo đó mà dán mắt nhìn vào khuôn mặt kiều diễm của thiếu nữ.
Tuy chưa từng có quan hệ thân thiết với nữ nhân nào, cũng không phải là người đa tình nhưng Khấu Anh Kiệt biết nhận thức vẻ đẹp và thừa nhận rằng Tiểu Vi rất đẹp, có lẽ chưa bao giờ chàng gặp một nữ nhân xinh đẹp như thế.
Tuy nhiên đó chỉ là cái nhìn thán phục không có sự tư tình.
Chàng chợt so sánh với bức tượng bán thân mà Quách lão nhân bỏ quên, lòng thầm nghĩ :
– “Trong đời mình ít khi quan tâm tới nữ nhân, nhưng hôm nay lại gặp hai trang quốc sắc thiên hương, một là pho tượng và một là người thật”.
Nữ nhân thưởng cao hứng được nam nhân tán thưởng. Tiểu Vi cũng không tỏ ra khó chịu khi thấy Khấu Anh Kiệt nhìn một cách chăm chú như thế.
Vả chăng chàng cũng là một thanh niên tuấn tú nên khó mà nói lời trách mắng.
– Người là ai?
Khấu Anh Kiệt chắp tay đáp :
– Tại hạ họ Khấu, tên Anh Kiệt! Dám hỏi quý tính đại danh cô nương?
Tiểu Vi trở nên bối rối :
– Tên họ ta là...
Nhưng cô ta chợt dừng lại hỏi :
– Người hỏi làm gì?
Tuy ngôn từ không được nhã nhặn cho lắm nhưng vẻ mặt và giọng nói của cô ta thì khác hẳn, thậm chí khá dịu dàng.
Khấu Anh Kiệt nói :
– Nếu cô nương thấy không tiện thì thôi vậy.
Chàng ngừng thêm một lát rồi nói :
– Tuy nhiên vừa rồi nghe lệnh huynh nói Thiết gia chúng ta, tại hạ đoán rằng cô nương họ Thiết.
Tiểu Vi chợt đưa mắt nhìn quanh, mặt hơi biến sắc, giọng trầm xuống :
– Biết rồi thì giữ lấy trong lòng, đừng tùy tiện nói ra, sẽ phiền phức đấy.
Chừng như thấy câu nói đó có phần khó nghe, cô ta mỉm cười nói thêm :
– Người ta thường quý hai chữ bình yên. Không việc gì chuốc lấy phiền phức cho mình đúng không?
Khấu Anh Kiệt cũng cười chắp tay nói :
– Đa tạ Thiết...
Tiểu Vi ngắt lời :
– Người thấy đấy. Ta vừa dặn mà đã quên rồi. Hãy nhớ sau này đừng nói đến Thiết trước mặt người khác.
Khấu Anh Kiệt phần nào đoán ra nguyên nhân định hỏi kỹ nhưng lại thôi!
Bấy giờ Tiểu Vi mới để ý đến Hắc Thủy Tiên, ý lên một tiếng thốt lên :
– Con ngựa đẹp quá! Người mua được ở đâu vậy?
Khấu Anh Kiệt lắc đầu :
– Không phải! Con ngựa này tại hạ vừa bắt được.
Tiểu Vi mở to đôi mắt tròn xoe hỏi :
– Người bắt được ư?
Cô ta chăm chú nhìn một lúc rồi hỏi :
– Có phải nó được mệnh danh là Mã vương, có tên là Hắc Thủy Tiên không?
Khấu Anh Kiệt gật đầu.
– Chính là nó!
Tiểu Vi ồ lên một tiếng đầy thán phục nói :
– Cha ta thích mê con ngựa này, cứ ao ước mãi.
Nói xong nhảy xuống đến bên Hắc Thủy Tiên vuốt ve một lúc không tiếc lời tán thưởng :
– Đẹp quá! Thật là tuyệt vời! Đúng là Thượng đẳng mã vương.
Cô ta ngước lên nhìn Khấu Anh Kiệt nói :
– Người có phúc lắm mới bắt người nó! Nghe nói ở tàu ngựa nổi tiếng Trương Gia khẩu người ta treo giá nó một vạn lạng...
– Nhưng tại hạ không có ý định bán nó!
Tiểu Vi chợt nhìn theo hướng kỵ đội vừa đi khỏi kêu lên :
– Ui chao. Ta phải đi đây.
Rồi chạy tới nhảy phắt lên yên, động tác rất thành thạo!
Chưa ngồi vững, cô ta đã ra roi, vút một tiếng, con bạch mã tung vó lao đi!
Nhưng mới vài trượng, Tiểu Vi chợt ghì cương dừng ngựa quay đầu lại hỏi :
– Tôi quên chưa hỏi... huynh định đi đâu?
Cô ta bỗng đổi cách xưng hô.
Khấu Anh Kiệt đáp :
– Tại hạ còn chưa xác định nhưng có lẽ quá quan vào Trung Nguyên.
Tiểu Vi cười nói :
– Được rồi, có lẽ chúng ta còn cơ hội gặp nhau.
Dứt lời ra roi, con ngựa lồng lên chạy thẳng, chỉ lát sau đã khuất vào màn đêm.
Khấu Anh Kiệt ngơ ngẩn nhìn theo.
Hồi lâu chàng thu hồi ánh mắt.
Nhìn hai thi thể của Úy Trì Điền và Tào Kim Hổ, lòng chàng chợt dậy lên sự thương xót, nghĩ thầm :
– “Ta không giết bá nhân, nhưng bá nhân vì ta mà chết... nếu không vì tính hung tàn của Tiểu ngũ long thì họ đâu phải gặp thảm họa này?”.
Chàng xuống ngựa, đào huyệt chôn hai người trong sa mạc.
Việc chôn cất hoàn thành thì phương đông đã ửng hồng.
Khấu Anh Kiệt lên ngựa tiếp tục hành trình.
Dọc đường, đầu óc chàng nghĩ quanh quẩn đến cuộc gặp gỡ với Tiểu Vi vừa rồi nhất là nhân vật kỳ bí trong xe kiệu.
Trung niên nhân có dáng văn sĩ họ Thiết kia nhất định là nhân vật hắc đạo rất có thế lực, nhưng tầm cỡ nào mà đến Quách lão nhân võ công cao cường như thế mà cũng nói đến một cách e dè kiêng kỵ như thế?
Rốt cuộc người này là ai? Đến Mạc Bắc này có việc gì?
Rất nhiều vấn đề nảy sinh trong đầu chàng tìm cách lý giải, nhưng càng thêm rối rắm.
Đến bây giờ Khấu Anh Kiệt chưa thể coi mình là người trong giang hồ, nhưng rất có thể từ hôm nay chàng sẽ bị cuốn vào dòng đời phức tạp và hung hiểm của giang hồ, một cuộc đời hoàn toàn mới lạ, khác hẳn những ngày tháng vô tư, bình lặng trước đây...
Chàng nhớ lại câu thơ của Quách lão nhân :
Thẳng tìm về nam Thất Lý Kiều!
Tìm thăm người cũ giải oán cừu
Ba ngày sau hoàng hôn bến vắng!
Nếu hữu tình xin đến kết giao
Ông ta tìm người nào để giải oán cừu? Việc giải quyết ân oán đã xong chưa?
Cừu nhân của Quách lão nhân là ai?
Bây giờ thì không có cách gì biết được, hy vọng sau này gặp sẽ hỏi.
Trong bài ca của vị dị nhân đó ám chỉ điểm hẹn là bến sông gần Thất Lý Kiều vào lúc hoàng hôn sau ba ngày nữa kể từ lúc hai người chia tay.
Khấu Anh Kiệt vốn đã ở vùng quan ngoại mấy năm nên khá thông thuộc địa hình vùng biên thùy, biết vùng Thất Lý Kiều có một bến sông duy nhất là Thượng Đô hà, gần trấn Tứ Lang thành!
Không hiểu sao, chỉ qua một lần gặp ngắn ngủi, Khấu Anh Kiệt rất có ấn tượng đối với Quách lão nhân, nóng lòng muốn gặp lại con người hầu như còn xa lạ này!
Có phải đó là duyên?