Hôm sau, tông vệ Phùng Thuật của thái tử Hoằng Lễ đến miếu Phu Tử, truyền lại nguyên văn lời của điện hạ nhà mình cho bát hoàng tử Triệu Hoằng Nhuận, khiến cậu nghe xong thì liên tục cau mày.
“Nghĩa là sao? Thái tử muốn bảo vệ La Văn Trung à?”
Sau khi Phùng Thuật rời đi, Triệu Hoằng Nhuận liền lập tức đứng dậy đi đi lại lại trong căn phòng tạm nghỉ.
“La Văn Trung là người của thái tử sao? Không thể nào… Nếu La Văn Trung ấy thật sự là người của thái tử thì ban đầu đâu cần phải nghĩ mưu thâm hiểm, bày kế hãm hại mình để giải quyết ân oán giữa con trai ông ta và mình, lúc ấy ông ta rõ ràng là đã hết cách nên mới làm thế… Như vậy thì, La Văn Trung chỉ vừa mới đầu quân về cho trưởng hoàng huynh thôi sao? Ha, thế thì trong sử bộ có người của thái tử rồi?”
“Ha ha ha.” Triệu Hoằng Nhuận đang vừa chắp hai tay sau lưng vừa đi lại trong phòng chợt không kiềm được mà bật cười.
Thật ra, do vừa mới bị tông vệ của Đông Cung thái tử đột nhiên nhắc nhở rằng không được nhúng tay vào nội vụ của sử bộ nên đám tông vệ này rất sợ điện hạ nhà mình sẽ nổi cơn thịnh nộ.
“Những ngày tháng của thái tử xem ra cũng chẳng hề dễ dàng.” Triệu Hoằng Nhuận cảm khái: “Rõ ràng thân là thái tử mà lại phải hạ mình đi lôi kéo lang quan sử bộ, tất cả chỉ vì cái vị trí ấy, thái tử đúng là vất vả quá.”
“Do Ung Vương điện hạ và Tương Vương điện hạ hiện giờ trong triều đang có thế lực rất lớn.” Tông vệ Cao Quát cười nói: “Nếu Đông Cung không lôi kéo mấy quan viên trong triều ấy thì khó đảm bảo cho ngày tháng sau này của mình.”
“Thế mới nói bọn họ sống vất vả quá.” Triệu Hoằng Nhuận lắc đầu cười: “Giống như ta chẳng phải sống tự tại sao?”
“…”
Các tông vệ đưa mắt nhìn nhau rồi cùng gượng cười.
Hầu hạ một điện hạ thế này thật sự không biết là may mắn hay xui xẻo nữa.
“Điện hạ, hiện giờ Đông Cung đã nhúng tay can dự rồi, thế chúng ta còn điều tra nữa không? Còn La Văn Trung ấy nữa…” Vệ Kiêu không kiềm được mà hỏi.
Triệu Hoằng Nhuận nghe thế thì bĩu môi: “Ta và thái tử ấy có giao tình gì đâu? Huynh ấy bảo không can dự thì ta không can dự sao? Huynh ấy nghĩ mình là ai?”
“Người ta là Đông Cung thái tử đấy…”
Đám tông vệ lập tức cảm thấy dở khóc dở cười.
Nhưng mà nghĩ lại, giọng điệu và lời nói từ tông vệ Phùng Thuật của thái tử lúc nãy thật sự khiến cho bọn họ có chút không hài lòng.
“Nhưng mà điện hạ, đắc tội với thái tử điện hạ dù gì cũng không hay lắm phải không?” Tông vệ Châu Quế hơi do dự khuyên bảo.
Không thể phủ nhận, tình cảm huynh đệ của con nhà đế vương là bạc bẽo nhất, bởi vì các huynh đệ ấy sau này sẽ là kẻ địch tranh giành hoàng vị với nhau.
Thế nên, kẻ làm thái tử thì làm thái tử, người đã xuất các phong vương thì cứ xuất các phong vương, một năm ngoại trừ mấy ngày lễ tết ra thì hầu như chẳng bao giờ có dịp thể hiện tình cảm huynh đệ cả.
Cho dù Triệu Hoằng Nhuận vốn chẳng có chút ham muốn tranh giành ngôi vị nào thì trước nay cũng chỉ kết huynh đệ với người em cùng mẹ của mình là cửu hoàng tử Hoằng Tuyên. Còn các huynh đệ khác? Trong mắt của cậu chẳng qua cũng chỉ là những người lạ có cùng huyết thống mà thôi.
À, hiện giờ thì có thêm một lục hoàng huynh Hoằng Chiêu nữa. Đối với vị lục hoàng huynh mở miệng là nho nhã, luôn giữ sự nghiêm túc, dù trong tình huống cấp bách cũng vẫn tỏ ra vẻ cao quý ấy, Triệu Hoằng Nhuận có ấn tượng cũng không tệ.
Còn đối với các hoàng huynh khác, Triệu Hoằng Nhuận chỉ có thể nói một câu không quen.
Đúng thế, cứ lấy thái tử Hoằng Lễ và Ung Vương Hoằng Dự ra mà nói. Cả hai bằng tuổi nhau, năm nay đã hai mươi lăm tuổi, còn Triệu Hoằng Nhuận chỉ mới mười bốn, khi Hoằng Lễ chuyển đến Đông Cung làm thái tử, Hoằng Dự xuất các phong làm Ung Vương thì Triệu Hoằng Nhuận mới mấy tuổi?
Mấy huynh đệ mà cả năm chẳng gặp mấy lần này thì có được giao tình gì chứ?
Giả dụ Phùng Thuật ấy là tông vệ của lục hoàng tử Triệu Hoằng Chiêu, mấy lời truyền đạt ấy cũng là của lục hoàng huynh thì Triệu Hoằng Nhuận may ra còn suy xét lại, nhưng là Đông Cung thái tử thì sao?
Thì dẹp đi.
Thế là, vù, Triệu Hoằng Nhuận hoàn toàn chẳng quan tâm mấy lời mà tông vệ Phùng Thuật của thái tử đã nói, tiếp tục ra lệnh cho các tông vệ đi điều tra việc liên quan đến khoa thi lần này.
Thật ra sự việc đến nước này, cậu cũng hiểu được rằng nội trị của sử bộ đã rất loạn rồi, nhưng vấn đề ở chỗ cậu chỉ là một bồi giám của khoa thi, phạm vi quyền hạn chỉ giới hạn trong khoa thi này, hoàn toàn không có tư cách thật sự nhúng tay can thiệp vào việc của sử bộ. Nhưng có một điều có thể khẳng định, đó chính là trong kỳ khoa thi lần này, sử bộ đã để lộ ra bao nhiêu là vấn đề, mà tên La Văn Trung kia cũng là một kẻ không thể tha thứ được.
Còn về thái tử, đắc tội thì đắc tội thôi, dù gì cũng chỉ là một người lạ có địa vị cao mà thôi.
Nhưng điều khiến Triệu Hoằng Nhuận không vui chính là, có vẻ hành động ngày hôm qua của hai tông vệ Cao Quát và Chủng Chiêu của cậu đã bị người của sử bộ phát giác được, cho nên khi cậu bảo hai người ấy đến gặp người gác kho sử bộ hôm qua để lấy lời khai thì phát hiện người gác kho ấy đã bị điều đi, mà cũng không biết là đã điều đi đâu.
Mà người gác kho mới tới thì vừa nhìn là biết ngay một kẻ chẳng biết gì cả.
“Trong sử bộ có kẻ phát giác ra rồi sao?”
Nghe được tin không vui này, Triệu Hoằng Nhuận khẽ chau mày.
Tuy số chăn bông cũ rách ấy vẫn còn nằm trong nhà kho sử bộ, nhưng vấn đề ở chỗ giờ đã không còn nhân chứng, đối phương hoàn toàn có thể nói rằng số chăn ấy để lâu trong kho nên bị ẩm mốc thôi, thế thì hoàn toàn không thể trách người của sử bộ đã ăn chặn, báo cáo dối gian được.
“Bỏ đi, trước tiên cứ điều tra việc gian lận trường thi đã.”
Sau khi tạm dẹp bỏ sự khó chịu trong lòng, Triệu Hoằng Nhuận lại dẫn tám tông vệ đi đến Hiệu Phòng.
Đích đến đầu tiên đương nhiên là Hiệu Phòng của La Vanh, La công tử.
Khỏi phải nói, hai tông vệ Thẩm Úc và Lữ Mục đúng là nhẫn tâm, ngồi lì trên cái ghế đó canh gác La Vanh suốt một ngày một đêm, cứ nhìn hắn chằm chằm từ đầu đến đuôi, khiến La Vanh cứ như đang ngồi trên đống lửa, hồi hộp bất an.
Theo hai người ấy báo lại, do bị ánh mắt của họ tấn công nên tên La Vanh ấy hầu như chẳng viết được gì cả, đến tận khi chuẩn bị thu bài thì mới vội vàng viết được vài dòng.
Triệu Hoằng Nhuận nghe thế thì trong lòng rất sảng khoái, liền bảo Mục Thanh và Trữ Hanh thay ca cho họ, tiếp tục tấn công bằng ánh mắt ngày thứ hai.
Còn về hai người Thẩm Úc và Lữ Mục, Triệu Hoằng Nhuận ra lệnh cho họ đến điện phòng của miếu Phu Tử nghỉ ngơi, vì hai người này đã căng mắt đến mức mắt đỏ hoe, mệt mỏi thì chưa nói, nhưng thật sự đã dọa người ta sợ chết khiếp.
Sau khi bảo Thẩm Úc và Lữ Mục đi rồi, Triệu Hoằng Nhuận mới cùng sáu tông vệ còn lại tiếp tục quan sát Hiệu Phòng.
Điều khiến cậu cảm thấy kỳ lạ chính là, đến tận bây giờ, cậu vẫn chưa hề bắt được bất kỳ một ai có liên quan đến việc gian lận.
Theo quan sát của cậu, tất cả các sĩ tử trong Hiệu Phòng đều đang làm bài rất nghiêm túc, còn các khảo quan, cán sự, tạp dịch lâu lâu tuần tra cũng đều giám sát hết sức nghiêm ngặt, không hề phát hiện có chút vấn đề gian lận nào cả.
“Lẽ nào việc gian lận trường thi là hoàn toàn không có ư?”
Triệu Hoằng Nhuận thầm lắc đầu.
Theo cậu thấy, việc này trước nay vốn luôn là mối họa tiềm tàng của khoa thi thì chắc chắn không thể nào chỉ là lời đồn vô căn cứ, thế thì vấn đề ở chỗ, rốt cuộc đám người ấy đã dùng cách gì để có thể gian lận?
“Đúng là tức chết được, ta năm xưa dù gì cũng là cao thủ gian lận thi cử, không biết đã giúp bao nhiêu người, thế mà bây giờ lại không nắm được chiêu của đám người này… Chậc!”
Đột nhiên, trong đầu Triệu Hoằng Nhuận chợt lóe lên một suy nghĩ buồn cười.
“Năm xưa mình đã dùng những cách nào để gian lận? Sao chép, truyền đáp án, thi hộ… Hả? Thi hộ sao?”
Triệu Hoằng Nhuận đột nhiên nhớ ra, phương thức cho sĩ tử vào miếu Phu Tử có vẻ là thông qua gọi số, nghĩa là một chủ sự sẽ gọi to tên của một sĩ tử nào đó, sau đó sĩ tử ấy sẽ mang theo một tấm bảng số tương tự như giấy phép dự thi để vào trường thi. Nói cách khác, hoàn toàn có khả năng bảo một người khác đi thi hộ mình.
Nghĩ đến đây, Triệu Hoằng Nhuận lập tức dặn dò một tông vệ đi đến sử bộ lấy các thông tin về xuất thân hộ tịch, tuổi tác… của các sĩ tử về.
Trong lúc tiếp tục tuần khảo, Triệu Hoằng Nhuận chợt phát hiện ở căn Hiệu Phòng bên phải dường như có một sĩ tử đang chăm chú nhìn cậu.
“Hả?”
Triệu Hoằng Nhuận bèn nhẹ nhàng bước đến.
Cậu bất ngờ phát hiện ra sĩ tử ấy có vẻ đã làm xong bài thi.
Triệu Hoằng Nhuận liền ngẩng đầu lên nhìn trời.
Hiện giờ, buổi thi ngày thứ hai chỉ vừa mới bắt đầu chưa bao lâu, nhưng sĩ tử này đây mới đó mà đã làm xong bài rồi sao?
“Không lẽ lại thêm một sĩ tử kỳ tích nữa?”
Triệu Hoằng Nhuận liếc mắt nhìn đề thi trên bàn của sĩ tử ấy.
Sau đề thi Tứ Thư văn ngày hôm qua, đề thi hôm nay chính là Ngũ Kinh văn, tức Thi Kinh, Thượng Thư, Lễ Ký, Chu Dịch và Xuân Thu. Năm quyển kinh này lần lượt tương ứng với năm bộ đề. Theo quy định, sĩ tử chỉ cần chọn ra hai bộ kinh, tức là chọn giải hai đề trong năm đề là được rồi.
Mà sĩ tử này đây thì đã chọn hai bộ Thi Kinh và Lễ Ký.
Đối với Lễ Ký, Triệu Hoằng Nhuận chẳng hề có chút hứng thú gì cả, vì Lễ Ký là quyển mà hầu hết sĩ tử trên thế gian này đều sẽ đọc, một trong những danh tác của tư tưởng Nho gia. Điều mà cậu tò mò chính là sĩ tử ấy lại chọn quyển Thi Kinh.
“Xem ra có vẻ rất tự tin với thơ từ!”
Triệu Hoằng Nhuận không khỏi thấy buồn cười.
Bởi vì những thứ như thơ ca, nhất là những bài thơ có vần điệu, có hàm ý, đều cần người sáng tác có cảm hứng, trong thời gian cấp bách liệu có làm được không? Lẽ nào ai cũng có thể làm Lý Bạch sao?
Triệu Hoằng Nhuận tò mò nhìn vào bài thơ mà sĩ tử ấy đã làm, không ngờ vừa nhìn đã cảm thấy vô cùng kinh ngạc.
“Thủy tinh liêm lí pha lê chẩm, noãn hương nhạ mộng uyên ương cẩm. Giang thượng liễu như yên, nhạn phi tàn nguyệt thiên. Ngẫu ti thu sắc thiển, nhân thắng sâm si tiễn. Song tấn cách hương hồng, ngọc thoa đầu thượng phong.” – (Bên chiếc gối pha lê cạnh rèm thủy tinh, ta mơ giấc mộng uyên ương ấm áp. Nhành liễu rũ trên sông như khói, cánh nhạn bay vờn dưới ánh trăng. Cánh sen tàn dưới sắc thu, trang sức rung trên mái tóc. Tóc mai tỏa hương thơm, trâm ngọc cài lấp lánh.)
“Tiểu sơn trùng điệp kim minh diệt, tấn vân dục độ hương tai tuyết. Lãn khởi họa nga my, lộng trang sơ tẩy trì. Chiếu hoa tiền hậu kính, hoa diện giao tương ánh. Tân thiếp tú la nhu, song song kim gia cố.” – (Trâm cài lấp lánh trên hàng mi, làn tóc buông dài trên da trắng. Ngại vẽ nét chân mày, chậm tẩy rửa dung nhan. Khẽ nhìn gương phía trước, thấy bóng mình trong gương. Áo mới thêu tơ quý, họa một cặp đa đa.)
“Ngọc lô hương, hồng lạp lệ, thiên chiếu họa đường thu tư. My thúy bạc, tấn vân tàn, dạ trường khâm chẩm hàn. Ngô đồng thụ, tam canh vũ, bất đạo li tình chính khổ. Nhất diệp diệp, nhất thanh thanh, không giai trích đáo minh.” – (Lư hương ngọc, ngọn đèn vàng, soi bóng hình trong sảnh. Làn mi mỏng, mái tóc xanh, đêm dài bên gối lạnh. Cây ngô đồng, mưa canh ba, không thấu nỗi biệt li. Từng chiếc lá, từng hạt mưa, khẽ rơi đến trời sáng.)
Đọc xong ba bài thơ ấy, Triệu Hoằng Nhuận không khỏi thấy kích động.
“Người này… thật có tài hoa! Nhưng mà… sao cứ cảm thấy ngượng ngùng thế này nhỉ? Sao tất cả đều là tả nữ tử hương khuê?”
Triệu Hoằng Nhuận kinh ngạc quan sát kỹ lưỡng sĩ tử ấy, thấy người ấy dung mạo tuấn tú, đôi mắt như ẩn chứa một chút khinh bạc, rõ ràng là một công tử phong lưu hoa tiền nguyệt hạ.
“Quả nhiên là một kỳ tích! Bài “nhã thơ” này phải được xưng là tài quái!”
Tuy trong lòng thầm cảm khái, nhưng Triệu Hoằng Nhuận vẫn kịp ghi nhớ tên của sĩ tử này - Ôn Kỳ.