Lúc tôi đưa hắn ra xe lái thẳng ra phố đến khu vực quảng trường Seventy-sixth. Tôi lo ngại vì chỗ này gần đồn cảnh sát, dù sao phải tìm cho được Frank Green.
Jackson hướng dẫn tôi với Zeppo đến cửa hiệu bán rượu Abe. Có Zeppo đi theo tôi thấy yên bụng vì chưa có ai biết Zeppo nên chỉ để mắt nhìn theo hắn. Đưa vô chỗ đó để che giấu mối thắc mắc tôi muốn biết về Frank.
Lúc đi tới cho tiệm bán rượu, Jackson mới kể cho tôi nghe lai lịch chủ tiệm.
* * *
Abe và Johnny là hai anh em cột chèo. Cả hai là dân gốc Ba Lan, ở vùng Auschwitz, là dân Do Thái còn sống sót từ mấy trái tập trung của bọn Nazi. Cả hai làm nghề thợ cạo ở Ba Lan, về sau hành nghề ở vùng thị trấn Auschwitz.
Abe là một thành viên phong trào kháng chiến hoạt động bí mật cứu sống Johnny thoát khỏi phòng hơi ngạt, lúc đó Johnny ốm nặng bọn lính gác Nazi chờ khai tử hắn. Abe nghĩ ra kế đào lỗ ở chân tường ngay dưới gầm giường đưa xác Johnny vô cho đỡ, báo cho lính gác hãy chờ đêm tối đem đi thiêu. Suốt thời gian dài Abe xin thức ăn tù các đồng đội trong phong trào kháng chiến chuyển qua lỗ hổng vách tường nuôi sống Johnny, dưỡng được ba tháng thì quân Nga giải phóng trại. Cả hai chị em, vợ của Abe và Johnny đều chết hết. Tất cả cha mẹ, họ hàng và người thân quen đều chết trong trãạ tập trung của bọn Nazi. Lúc đó Abe dìu Johnny cho nằm trên băng ca chuyển tới trại lính quân đội Mỹ xin đi định cư.
* * *
Jackson định kể cho tôi nghe thêm nhiều câu chuyện ở trại tập trung, thiệt tình tôi không muốn nghe nữa. Tôi chợt liên tưởng đến bọn Do Thái. Hình ảnh những con người trơ xương, đổ ruột đứng xin ăn. Tôi còn nhớ những nạn nhân giơ những cánh tay gây guốc ve vẩy trước mắt, giữ vẻ mặt bình thản rồi ngã lăn ra chết ngay trước mắt tôi.
Trung sĩ Vincent LeRoy tìm thấy một đứa trẻ mười hai tuổi, nặng bốn mươi sáu pounds. Nó chạy tới ôm chầm hai chân Vincent, như thằng nhóc người Mễ níu chân thần tượng Matthew Teran. Tôi biết Vincent là một tay xạ thủ gan da vừa nhìn thấy thằng bé hắn mủi lòng. Hắn đặt tên thằng bé là Ba Chuột, theo cái cách lúc thằng bé níu chân leo lên bám chặt lấy gã.
Ngày đầu Vincent cõng Ba Chuột trên lưng theo đoàn quân giải phóng nạn nhân sống sót từ trại tập trung. Buổi tối hắn gửi Ba Chuột theo đoàn y tá tới khu vực di tản, thằng nhóc bỏ trốn tìm đường về lại trại đóng quân.
Về sau Vincent muốn giữ thằng bé lại. Không phải như cách Matthew Teran giữ lại thằng nhóc người Mễ, phải nói hắn có lòng thương trẻ con như bao nhiêu người khác.
Thằng nhóc Ba, tôi thường gọi nó như thế, cả ngày đèo trên lưng Vincent. Hắn ngốn hết cả thỏi socola to tổ bố cất sau ba-lô với cả một mớ kẹo người ta phát cho nó.
Giữa đêm bọn tôi thức giấc nghe tiếng rền rĩ của thằng nhóc Ba. Ruột nó căng ra quá cỡ đến nỗi bọn tôi xúm lại xoa dịu mà nó chẳng hay biết gì.
Bác sĩ trái chẩn đoán nó chết vì bội thực.
Vincent khóc suốt cả ngay từ lúc Ba Chuột chết. Hán tự trách mình, tôi cùng cho là hắn có phần trách nhiệm trong vụ này. Những tôi không thể nào quên được chuyện vì sao bọn lính Đức hành hạ thằng nhóc đáng thương kia để không cho nó ăn một thứ gì khác ngon lành hơn sao. Bởi thế nên bọn Do Thái về sau này mới hiểu bọn Negro ở Mỹ nhiều hơn, ở bên Châu Âu bọn Do Thái bị đối xử như bọn Negro từ mấy ngàn năm trước kia.
* * *
Abe và Johnny đến nước Mỹ chung nhau mở một tiệm bán rượu được không đầy hai năm. Buôn bán tất bật mới gây dựng được cơ ngơi nhưng có một điểm không giống ai: Johnny tính ngông cuồng.
Jackson kể:
- Tớ chẳng hiểu vì sao hắn lại chịu nổi cuộc sống trong cái hốc tường hoặc là hắn thích vậy. Hắn kể lại đêm hôm đó hắn điên rồ. Hắn đã cùng với Abe cắt tóc hai người vợ trước khi bước vô phòng hơi ngạt. Cậu có thể hình dung ra nổi không? Cắt tóc vợ mình rồi đưa vô phòng hơi ngạt cho chết sao?... Thế là, hắn hoá rồ kể từ cái đêm hôm đó cho đến nay, điều đó lí giải tại sao hắn là một kẻ ngông cuồng.
- Ngông cuồng là sao hở? - Tôi hỏi lại hắn.
- Ngông cuồng là vậy đó, Easy. Một bữa tối nọ, tôi cùng đi với một con bé bạn học, Donna Frank, tôi định ép nàng uống chút rượu, lúc Abe đã bỏ đi, thế là Johnny tự nhiên coi tớ như không có ở đó, hắn mới gợi chuyện khen nàng xinh đẹp, hắn đề nghị tặng cho nàng một món quà.
- Vậy hở?
- Hắn móc túi đưa cho nàng năm đô rồi ra dấu cho tớ lại đứng gần chỗ máy tính tiền, hắn làm tình với con bé ngay phía sau quầy bar kia!
- Cậu chỉ nói phét!
- Không đâu, Easy. Hắn làm trò quái gở đó tới hai lần kia.
- Cậu còn phải lo công việc nữa chứ?
- Không dám đâu, hắn doạ tớ. Thế rồi tớ kể lại cho Frank nghe, hắn bắt liên lạc. Cậu biết không Frank đã có lần tới chỗ tiệm rượu Abe, nhưng Abe thì không dám mua bán đồ cướp giật. Còn Johnny lại thích mấy món đó, hắn chuyên bán đồ cướp giật nhân lúc buổi tối Abe trở về nhà.
- Trưa thứ Tư hắn đến giao hàng. Mọi bữa thì đúng ngày thứ Năm - Jackson nói, chợt hắn cau mày.
Nơi đó là một tiệm rượu nhỏ hẹp. Bên trong bày kệ bánh quy, khoai tây chiên, giữa nhà bày những bao da heo. Một quầy bàn kéo phía sau là quầy rượu, quầy tính tiền. Sát vách tường kê chiếc tủ lạnh cửa kính dùng nước ngọt, nước uống sô đa.
Tôi nhận ra Johnny với vóc người cao ráo, tóc đỏ hoe, cặp mắt nâu đờ đẫn. Hắn có cái nhìn nửa như muốn cười nửa kinh ngạc. Trông hắn như một chàng thanh niên gặp hồi mạt vận.
- Kìa, Johnny, - Jackson mở lời - Đây là bạn của tớ, Easy và Zeppo.
Zeppo vừa bước tới mình mẩy co giật đứng ở phía sau. Vừa nhắc thấy Zeppo vẻ mặt Johnny đang tươi cười chợt đanh lại. Một số người thấy ai bại liệt thì sợ, thật ra thì người ta sợ cho mình hơn.
- Xin kính chào quý vị, - Hắn nhìn về phía bọn tôi nói.
- Cậu nhà cho ta ăn tiền cò đấy, Johnny. Có nhiều mối hàng ngon. Easy chuẩn bị mở tiệc, còn đây Zeppo mua sữa mỗi ngày.
Johnny cười, hắn đưa mắt nhìn về phía Zeppo. Chợt hắn hỏi:
- Ông cần hạng nào, Easy?
- Tôi cần mua một thùng Jim Beam, nghe Jackson nói ông bán hàng có giảm giá chút đỉnh.
- Mua nguyên thùng mới bớt - nghe gã nói giọng hơi nặng, dù hắn hiểu được tiếng Anh.
- Nếu mua hai thùng tính giá nào?
- Một chai tính ba đô, mua chỗ khác tính tới bốn đô.
- Được thôi, nhưng mà vượt qua túi tiền. Ông biết không, tôi vừa nghỉ việc tuần rồi.
- Ôi thật không may cho ông - Johnny nói, nhìn qua tôi. - Nhằm ngày sinh nhật mà bọn chúng cho ông thôi việc.
- Đúng ra là một bữa tiệc. Thôi tính lại giá hai bảy lăm đi.
Tay phải giơ lên, gã xoa xoa mấy ngón tay.
- Thôi cùng được đi, ông bạn. Những nói lại cho rõ, - gã nói - Hai thùng, ba đô một chai chạy ra năm mươi tư. Thôi tính chẵn năm mươi rồi đó.
Tôi định nán lại trả giá xuống chút đỉnh nữa nhưng nghĩ lại muốn ra về ngay. Tôi sẽ cho lão Albright hay thứ Sáu Frank sẽ có mặt ở đây, ngày thứ Năm tôi sẽ bàn tính lại với Frank.
* * *
- Chờ tính lại, - Tôi nói - Ngày mai tôi nhận hàng được chứ?
- Sao không tính luôn bây giờ cho xong? - gã hỏi, nửa tin nửa ngờ.
- Tôi chưa có đủ năm chục đô, ông bạn ơi. Mai mới có đủ tiền".
- Không thể cho tới thứ Sáu. Qua bữa đó tôi còn phải giao hàng.
- Ngày mai không được sao? - Tôi hỏi có ý bỏ luôn.
- Tôi không bán tất cả số Wishky cho một mối, ông Easy à. Qua ngày mai tôi sẽ nhận thêm hai thùng và nếu bạn hàng vô tới đây hỏi mua rượu Jim Beam thì sao? Nếu không có hàng, mối sẽ bỏ đi qua hàng khác. Tôi mất ăn.
Chúng tôi thoả thuận tiền đặt cọc mười đô. Tôi mua cho Zeppo chai Harpers nửa lít, cho Jackson năm đô.
* * *
- Có chuyện gì vậy, Easy? - Zeppo vừa đi khỏi, Jacksơn hỏi tôi.
- Chả có việc gì. Cậu định nói gì vậy?
- Tớ định nói cậu có tiệc từng gì đâu. Và lại có bao giờ thấy cậu vô tiệm hớt tóc ngày thứ Tư. Chắc có vấn đề gì đây.
- Cậu nằm mơ hả? Tối thứ Bẩy làm tiệc, hân hạnh được đón tiếp cậu.
- Ờ... ờ - Hắn ngơ ngác nhìn tôi - Mà chuyện này có liên quan gì tới Frank?
Trong bụng tôi uống toàn nước đã lạnh tôi không nói ra.
- Chẳng có ăn nhập gì tới Frank Green cả, ông bạn mình. Tớ chỉ cần có rượu.
- Được, nghe được đấy. Cậu nhớ là tớ sẽ đến đúng ngày mở tiệc.
- "Hẹn gặp lại - Tôi nói. Tôi cầu mong sao cho mình còn sống tới bữa đó.
Tôi nghĩ phải làm mọi cách để được sống thêm hai mươi bọn giờ nữa chờ cho đến phiên Frank họp mặt mỗi tuần.