Hiểu được nguyên nhân Tư Mã Hào trở mặt đánh lại mình một cách kỳ lạ như thế Trác Dật Luân lấy làm hối tiếc cái kỳ diệu của mình bị phá hư và hối hận là mình đã thiếu chu đáo.
Chàng ngửng người đứng núp sau lùm cây nhìn đăm đăm theo Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân đang dắt nhau đi thẳng về phía Hồ Bắc trong lòng vừa lo vừa sợ.
Chàng lo sợ, vì chàng không thể bỏ ngang vụ này được và nếu không bỏ ngang được thì chàng cũng không biết phải tính sao?
Đối với chàng hiện giờ có tất cả bốn kẻ thù mà bất cứ kẻ thù nào cũng có thể khiến chàng vất vả khổ sở hết.
Ba kẻ thù hữu hình trong đây có hai đã ngang nhiên công kích chàng mà chàng không dám đánh lại đấy là Đông Môn Khả Nhân với Tư Mã Hào.
Còn kẻ thù thứ ba luôn luôn bí mật, tuy chàng có thể công kích hắn nhưng khéo nổi không tài nào tìm ra hắn, kẻ ấy là Hà Chưởng Thiên.
Riêng kẻ thủ thứ tư mới thật vô cùng lợi hại vì nó không màu, không sắc không biết đến từ đâu, ngộ ngỡ không may đụng nhầm phải nó thì bản tánh của chàng lập tức bị mê, và chàng sẽ bị chung một số phận như Đông Môn Khả Nhân với Tư Mã Hào ngay. Nó chính là thứ thuốc loạn thần cực độc của tên ác ma Độc Cô Trí!
Suy đi nghĩ lại, sau cùng Trác Dật Luân bỗng nghĩ ra một diệu kế khác là chàng sẽ dùng phương pháp Dĩ Độc Công Độc chế ra được một thứ thuốc mê hạ Đông Môn Khả Nhân với Tư Mã Hào cũng như Độc Cô Trí đã sai Hà Chưởng Thiên đánh thuốc loạn thần ám hại họ.
Làm như vậy chàng sẽ có hai điều lợi, thứ nhất là Hà Chưởng Thiên ắt phải xuất đầu lộ diện để tìm cách chữa khỏi bệnh cho Đông Môn Khả Nhân với Tư Mã Hào, thứ nhì là nếu như Hà Chưởng Thiên vẫn ẩn trốn không chịu xuất hiện, thì tự chàng sẽ đứng ra ngăn cản không cho Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân lên Đồng Bách sơn, để tự sa vào lưới bẫy của địch nhân một cách dễ dàng hơn.
Nghĩ như thế chàng đề khí thi triển hết khinh công bám sát theo cặp tình nhân Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân, cả hai hiện đang rơi vào lưới tình cười nói luôn mồm, vừa đi vừa ngắm sơn quang thủy sắc một cách say đắm.
Phần Tư Mã Hào với Đông Môn Khả thân, sau khi đánh bại được Bành Bạch Y giả là Trác Dật Luân, cả hai liền nghêu ngao đi thắng về hướng Hồ Bắc.
Trong óc hai người hiện giờ mỗi người chỉ khắc ghi một hình bóng và nhớ chỉ quyết một ván đề thôi, còn thì hoàn toàn không ý thức được một chuyện gì khác đã xảy ra trong quá khứ hoặc hiện tại cả.
Đông Môn Khả Nhân thì chỉ biết có một mình Tư Mã Hào và việc “muốn đi Đồng Bách sơn”.
Còn trong tâm khảm của Tư Mã Hào chàng chỉ biết có một người là Đông Môn Khả Nhân và luôn luôn nhớ việc “giết Bành Bạch Y”.
Cả hai đều mê loạn thần trí, dọc đường hai người hết ca hát, quàng xiên rồi lại vui vẻ chuyện trò, chỉ cho nhau xem phong cảnh hữu tình kỳ thú. Vì vậy mà tình họ mỗi lúc một thêm khắn khít, tuy rằng đó là một mối tình của hai kẻ trong cơn điên loạn.
Sau ba hôm khi họ vừa đi đến trước một tòa núi nhỏ, bỗng nhiên cả hai thấy một vị đạo nhân râu tóc trắng như tuyết xuất hiện, từ bên trong núi đi lần ra, đứng chắn ngang lối đi của Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân.
Tư Mã Hào thấy chỉ còn cách nhau chừng vài ba thước mà đạo sĩ vẫn cứ đứng yên không nhường lối chàng vội đứng lại cười hì hì nói :
- Đạo trưởng làm ơn tránh sang bên một chút hay có cần gì thì cứ việc nói.
Đạo nhân nghiêng đầu lễ phép thưa :
- Bần đạo định hóa duyên.
Đông Môn Khả Nhân chợt hỏi :
- Đạo trưởng định hóa duyên để tu bổ kiều lệ hay để kiến tạo chùa chiền miếu điện.
Lão đạo sĩ vẫn chắp tay cúi đầu, niệm lên một câu phật hiệu ôn tồn đáp :
- Bần đạo định hóa duyên để tu kiến trang viện.
Tư Mã Hào liền giương mắt hỏi :
- Đạo trưởng là kẻ tu hành sao lại còn kiến tạo trang viện? Thế chẳng hay bảo trang tọa lạc ở tại đâu và tên là gì?
Lãnh đạo sĩ đáp rất nhanh :
- Hồng Diệp sơn trang trong “Hoài Ngọc sơn”.
À thì ra đạo sĩ tóc bạc này không ai khác hơn là Trác Dật Luân. Chàng đã giả trang cốt để thăm dò Tư Mã Hào bị trúng độc nặng tới mức nào xem có thể quên luôn quê hương xứ sở của chàng không.
Mấy tiếng “Hồng Diệp sơn trang trong Hoài Ngọc sơn” vừa thoát khỏi miệng Trác Dật Luân, Đông Môn Khả Nhân bỗng giật mình thối lui ra sau nửa bước cau mày nói với Tư Mã Hào :
- Tam ca nghe thấy cái tên Hồng Diệp sơn trang, hình như nơi quen quen đấy.
Trác Dật Luân vội để ý quan sát thần sắc biến hóa của Tư Mã Hào ngay lúc ấy.
Không ngờ Tư Mã Hào chỉ cười giọng khô khan lắc đầu nói với Đông Môn Khả Nhân :
- Có lẽ hiền muội đã nghe qua còn ngu huynh chưa nghe trong Hoài Ngọc sơn có Hồng Diệp sơn trang bao giờ.
Trác Dật Luân nghe Tư Mã Hào trả lời như thế chàng vô cùng buồn bã, thương hại cho người anh em không may bị hoạn nạn trên bước lãng phiêu.
Đông Môn Khả Nhân chợt hỏi Trác Dật Luân :
- Tại sao đạo trưởng phải kiến bổ Hồng Diệp sơn trang, bộ nơi ấy bị hư đổ hay sao?
Mưu kế “dĩ độc công độc” của Trác Dật Luân dù sao cũng là phương pháp bất đắc dĩ, nên chàng không thể bỏ lỡ cơ hội liền gượng đáp :
- Trong Hồng Diệp sơn trang có tất cả ba cây cột, tại bần đạo vì đã sơ ý để mọt đục khoét hư mất một cây nên trang viện sợ sẽ sụp đổ, do đó bần đạo mới thưa với Đại trang chủ và Nhị trang chủ xin được vân du bốn biển, hóa mộ thiện duyên.
Đông Môn Khả Nhân cười nói :
- Một cây cột trụ có sá là bao, cần gì đạo trưởng phải vân du bốn biển một mình tiểu nữ cũng có thể quyên đủ số tiền để kiến tạo lại bảo trang nữa là.
Dứt lời nàng liền thò tay vào mình như vừa tìm kiếm vật gì cười hỏi Trác Dật Luân :
- Xin hỏi đạo trưởng nhị vị Trang chủ của đạo trưởng có tên họ là gì?
Trác Dật Luân đáp :
- Đại trang chủ tên Tư Mã Thông, còn Nhị trang chủ tên Tư Mã Minh.
Nghe qua, Đông Môn Khả Nhân bỗng cười bảo Tư Mã Hào :
- Này tam ca, kể ra cũng khéo thật, Đại trang chủ Tư Mã Thông Nhị trang chủ là Tư Mã Minh, nếu Tư Mã Hào có mặt tại “Hồng Diệp sơn trang” thì tam ca sẽ biến thành Tam trang chủ mất.
Trác Dật Luân cả mừng, nghĩ bụng mấy câu Đông Môn Khả Nhân vừa nói thật khéo léo, thể nào cũng khiến Tư Mã Hào sực nhớ tới chuyện cũ.
Nhưng chàng vừa nghĩ đến đó thì Tư Mã Hào bỗng dưng lắc đầu nói :
- Anh đâu có phước như thế.
Giọng nói của Tư Mã Hào rất lạnh nhạt hình như chàng ta đã quên mất Hồng Diệp sơn trang, quên cả Tư Mã Thông, Tư Mã Minh, những người thân tình chung huyết mạch với chàng!
Trác Dật Luận khẽ nghiến răng, chấp tay miệng niệm “Vô lượng thọ Phật” không thèm lý tới Tư Mã Hào nữa, chàng vội cúi đầu nhìn Đông Môn Khả Nhân :
- Bần đạo muốn cho nữ thí chủ biết thêm một việc hết sức lạ là đôi tai điếc của Tư Mã đại trang chủ hiện giờ đã nghe được rồi, và đôi mắt mù lòa của Tư Mã nhị trang chủ hiện cũng đã trông thấy lại rất rõ ràng.
Đông Môn Khả Nhân bật ồ lớn một tiếng hỏi Trác Dật Luân :
- Chắc họ đã may mắn gặp được thần y phải chăng đạo trưởng?
- Hiện muội bất tất phải trả lời dài dòng với ông ấy làm gì, bọn ta còn phải lên Đồng Bách sơn nữa.
Tư Mã Hào bỗng khơi lại tâm thức mê loạn khiến Đông Môn Khả Nhân vụt mơ màng đôi mắt gật đầu lẩm bẩm :
- Đúng! Bọn ta phải đi Đồng Bách sơn ngay.
Trác Dật Luân trong lòng chán nản, tự biết thế nào cũng phải dùng tới thủ đoạn sau cùng, chàng lập tức móc ra một quyển sổ quyên tiền đã dự bị sẵn cùng với bút lông và mực hai tay dâng cho Đông Môn Khả Nhân.
Đông Môn Khả Nhân nhận lấy quyển sổ lật ra xem rồi cầm bút đề vào.
“Tư Mã Hào, Đông Môn Khả Nhân hợp quyên minh châu một hột.”
Biên xong nàng liến móc ra một hột minh châu, trao luôn một lượt với quyển sổ cho Trác Dật Luân.
Trác Dật Luân giả vờ trao quyển sổ lại cho Tư Mã Hào bảo chàng ta ký tên vào luôn.
Tư Mã Hào tiếp qua đoạn không vui lắc đầu nói :
- Đạo trưởng là kẻ xuất gia sao lại tham lam quá đổi như thế? Hạt minh châu này là một bảo vật trị giá ngàn vàng, thừa sức cất lại cả một tòa trang viện chứ đừng nói cất chỉ có một cây cột mà thôi, sao đạo trưởng còn định quyên thêm.
Trác Dật Luân vội nói :
- Thí chủ không nên ngộ nhận bần đạo tham lam muốn quyên thêm tiền bạc châu báu, bần đạo muốn thỉnh thí chủ ký tên vào sổ lạc quyên để lưu làm kỷ niệm.
Tư Mã Hào ngạc nhiên kêu lên :
- Rõ ràng vừa rồi Đông Môn hiền muội đã ký giùm ta rồi kia mà?
Trác Dật Luân lắc đầu :
- Bần đạo không trông thấy.
Tư Mã Hào khẽ cau mày giật ngay lấy quyền sổ trên tay Trác Dật Luân lật ra rồi chỉ vào ba chữ “Tư Mã Hào” gắt gỏng :
- Lão đạo sĩ này hồ đồ quá đây không phải họ tên của ta là gì?
Trác Dật Luân đột nhiên thay đổi thái độ nghiêm giọng quát :
- Tư Mã Hào! Ngươi không đáng là Tư Mã Hào chút nào cả!
Tư Mã Hào sửng sốt rồi nổi giận quát lại :
- Lão đạo sĩ, ngươi nói cái gì ta không đáng chứ?
Trác Dật Luân quắc sáng cặp mắt nhìn thẳng mặt Tư Mã Hào, trầm tiếng :
- Tư Mã Hào! Ngươi là em ruột của Tư Mã Thông và Tư Mã Minh, tại sao tên anh ruột của ngươi ngươi cũng không nhớ, không hiểu là thể nào.
Tư Mã Hào hằn hộc la lớn :
- Ai bảo chúng nó là anh ruột của ta. Lão đạo sĩ khốn nạn kia ngươi là ai, sao lại dám đặt điều nói bậy bạ để kiếm chuyện với ta?
- Trác Dật Luân!
Trác Dật Luân bóc ngay bộ râu tóc giả, để hiện ra bộ mặt thật đáp lớn.
Đông Môn Khả Nhân kinh ngạc trong khi Tư Mã Hào hầm hầm tức giận, chàng ta phóng cặp mắt rực lửa nhìn Trác Dật Luân không chớp.
Trác Dật Luân lắc đầu thở dài, tiếp theo chàng buông thõng một câu :
- Ta là Bành Bạch Y!
Chàng vừa dứt lời bỗng Tư Mã Hào phản ứng tức khắc, chàng ta dựng ngược đôi mày hét lớn :
- Giết Bành Bạch Y!
Tiếp theo, Tư Mã Hào vung cao song chưởng phóng mạnh vào ngực Trác Dật Luân nhanh như chớp nhoáng.
Đông Môn Khả Nhân cũng xếch cao mày liễu vội vàng quát theo :
- Tam ca em giúp anh giết chết Bành Bạch Y.
Dứt lời, nàng giơ cao ngọc chưởng nhắm ngay vào giữa lưng Trác Dật Luân tấn công luôn.
Chuyến trước đã từng bị Tư Mã Hào, Đông Môn Khả Nhân liên thủ đánh cho xiểng niểng, lần này đáng lý Trác Dật Luân phải hoàng hồn né tránh mới phải, nào hay chàng vẫn đứng yên một chỗ không né tránh cũng không đánh lại chưởng nào.
Tư Mã Hào xuất thủ trước, nên chưởng của chàng đánh trúng ngay Thất khảm” huyệt của Trác Dật Luân “binh” một tiếng.
Nhưng thật hết sức kỳ lạ, chưởng của Tư Mã Hào đánh xuống rất mạnh, nhưng khi trúng người Trác Dật Luân không hề có một chút nội gia kình lực hào cả!
Bị trúng một chưởng, Trác Dật Luân chỉ hơi lảo đảo, mỉm cười nhìn Tư Mã Hào.
Kế đó, ngọc chưởng của Đông Môn Khả Nhân lại đáng trúng vào giữa lưng Trác Dật Luân.
Công lực của Đông Môn Khả Nhân đâu phải tầm thường, vả lại Tinh Thúc Huyệt là một đại huyệt vô cùng hiểm yếu, thử hỏi Trác Dật Luân có thể nào an nhiên vô sự được?
Thế mà, lại cũng không ngờ ngọc chưởng của nàng vừa đánh trúng Trác Dật Luân bỗng bước lên một bước, mặt mày chàng vẫn tươi cười không hề biến sắc, hình như môn võ công tinh luyện của Đông Môn Khả Nhân đã mất từ hồi nào vậy.
Một sự biến bất ngờ và ngoài sức tưởng tượng của Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân nên cả hai kinh ngạc đến thất sắc, nhất tề thối lui ra sau hai bước, nhìn trân trân đối phương không nháy mắt.
Trác Dật Luân thấy vậy nên cất tiếng cười vang lên chàng quét mắt nhìn qua hai người một lượt cố ý làm ra vẻ như khinh thường không xem cả hai ra gì cả.
Tư Mã Hào ngạc nhiên một lúc rồi lại nghiến răng định ngưng công để khi nhảy vào công kích Trác Dật Luân lần nữa, nhưng bỗng chàng ta thất kinh, đứng yên một chỗ, miệng há hốc trông như pho tượng gỗ!
Thì ra Tư Mã Hào không ngờ chàng đề khí hết nổi, vừa đề khí là cảm thấy toàn bộ huyệt mạch bị ứ động lại một chỗ, không sao có thể đề tụ chân khí nội lực theo ý muốn.
Tư Mã Hào đã như thế, Đông Môn Khả Nhân cũng không hơn gì chàng cho nên cuối cùng chỉ biết kinh ngạc nhìn nhau, không nói được tiếng nào.
Trác Dật Luân lại bật cười ha hả, chàng nhướng cao mày rồi bất thần quay người bỏ đi.
Tư Mã Hào bây giờ mới chợt tỉnh lật đật đuổi theo kêu lớn :
- Lão đạo sĩ hãy đứng lại, ngươi... ngươi định giở gì với bọn ta đây, có nói mau không?
Nhưng lúc ấy Trác Dật Luân đã đi xa ngoài bảy tám trượng nên Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân chỉ còn nghe tiếng cười kinh ngạc của chàng văng vẳng lọt vào tai mà thôi.
Trác Dật Luân ở phía trước đang thi triển tuyệt kỹ “Linh Hư bộ pháp”, còn Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân ở phía sau đuổi theo vì cả hai không còn đề nổi chân khí nữa, bây giờ họ không khác gì người thường không biết võ, nên chạy hì hục được một lát hai người không còn trông thấy bóng Trác Dật Luân đâu cả!
Chàng và nàng ráng chạy cheo thêm một đỗi nữa, tới chừng quá mệt, ai cũng ôm ngực thở hổn hển mới cùng nhau tìm chỗ ngồi không đuổi theo nữa.
Đằng này sau khi bỏ Tư Mã Hào và Đồng Môn Khả Nhân rất xa, Trác Dật Luân liền nhanh nhẹ tìm chỗ núp kín, chờ đợi hai người mà theo dõi mọi diễn biến.
Trong ba bữa nay Trác Dật Luân đã chịu khó tìm chế ra một thứ thuốc độc đem bôi nên quyển sổ quyên tiền.
Thứ độc dược của chàng chế tạo không có tác dụng mê thần, nhưng nó có thể làm cho nạn nhân tạm thời vô phương để tụ nội lực và cứ cách ba ngày là bị nóng lạnh một lần, trong người rất đổi khó chịu.
Trác Dật Luân cho rằng Độc Cô Trí sở dĩ muốn đánh lừa Đông Môn Khả Nhân lên Đồng Bách sơn là vì thấy nàng có một cường lực kinh nhân, muốn kéo nàng nhập bọn!
Còn Tư Mã Hào thì vì say mê Đông Môn Khả Nhân mà phải bị vạ lây nên bị đối phương bỏ thuốc mê lôi cuốn theo luôn.
Nếu quả thật như thế thì Hà Chưởng Thiên một khi phát hiện được nội gia chân lực của hai người tiêu tan, thế nào y cũng phải ra mặt xem xét và chỉ cần vào cho Hà Chưởng Thiên xuất đầu lộ điện, tự nhiên chàng sẽ có cơ hội quyết đấu với y một trận sống mái, may ra chàng có thể chế phục được hắn ta, hỏi cho ra thứ thuốc giải độc cho Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân.
Trác Dật Luân đoán như thế, nên chàng mới đứng nấp ở một nơi kín đáo để một mặt theo dõi Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân, một mặt chờ xem động tịnh của Hà Chưởng Thiên ra sao.
Hiện giờ, Trác Dật Luân đã cởi bỏ chiếc đạo bào, biến thành chàng thư sinh rất xinh trai phong nhã.
Nhưng hiện giờ Hà Chưởng Thiên đã rời khỏi đây rồi, hay hắn còn bí mật theo dõi hành động của Trác Dật Luân, sau khi Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân đã mất hết nội gia chân lực nên hắn chưa chịu ló mặt ra ngoài?
Còn phần Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân, sau khi bị Trác Dật Luân hạ độc, cả hai bức rức khó chịu, nhưng sau đó không lâu họ lại quen dần với cảm giác ấy và bất đầu du hồn vào nguồn tình bể ái, cứ thế mà dắt tay nhau, hễ gặp đường là đi thẳng tới, không còn phân biệt đi về hướng nào.
Trác Dật Luân vẫn mãi miết theo dõi, thấy đôi võ lâm tình tứ đắm đuối bên nhau như vậy trong bụng chàng cũng mừng thầm, nhưng có điều thỉnh thoảng họ lại buột mồm la lên, kẻ đòi “giết Bành Bạch Y”, người thì kêu hét “Ta muốn đi Đồng Bách sơn” trông không mấy đẹp mắt vậy thôi!
Trong ngày hôm ấy chẳng mấy chốc là trời sầm tối.
Nhẩm tính lại thời gian, đoán biết sơ canh đêm nay Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân thế nào cũng sẽ bị cóng lạnh vì thuốc độc hoành hành, Trác Dật Luân vô cùng áy náy, trong bụng không yên vì chàng không nỡ nhìn đôi bạn thân bị hành hạ khổ sở trong khi Hà Chưởng Thiên vẫn âm thầm bám sát theo dò xét, không chịu xuất đầu lộ diện.
Còn nếu chàng động tình ra mặt săn sóc họ, thì bao nhiêu công trình khó nhọc của chàng kể như tiêu tan trong phút chốc.
Suy đi tính lại vẫn không sao tìm ra được một thượng sách nào lưỡng toàn Trác Dật Luân phó mặc cho chuyện tới đâu hay tới đấy, chàng chỉ chuẩn bị để tùy cơ ứng biến thôi.
Hiện giờ chàng đã hóa trang thành người khác hẳn hòi đừng nói chi đến bọn Tư Mã Hào đang mê man mất trí, ngay đến Hà Chưởng Thiên, một tên ác ma gian tà giảo hoạt, cũng chưa chắc có thể nhận ra được bộ mặt thật của chàng.
Chủ ý đã định thế là chàng quyết ý trọ chung với Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân ở một khách điếm đề phòng khi có bất trắc mà giúp đỡ cho bạn.
Nhưng không ngờ chàng tính một đàng đến chừng tới việc chuyện xảy ra một nẻo, nghĩa là đêm nay Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân bỗng du hứng quá nóng cả hai đạp trăng lên đường không nghỉ lại tại khách điếm.
Mưu sự bất thành, Trác Dật Luân tức tối thiếu điều muốn kêu trời to lên cho hả tức!
Cách sau họ chừng mươi hai mười ba trượng là Trác Dật Luân, chàng chập chờn như một bóng ma bí mật theo dõi, lòng không ngớt lo nghĩ vì chưng mưu cao bất thành :
Còn theo sau Trác Dật Luân, có kẻ bí mật thứ ba nào không?
Theo sự liệu đoán của chàng thì không những phải có, mà còn chắc chắn kẻ ấy là Hà Chưởng Thiên, một nhân vật trong nhóm Vũ Trụ lục tàn, cam lòng làm trảo nha cho tên ác ma Độc Cô Trí.
Tuy nhiên sau nhiều lần bí mật quan sát, và nhiều lần ngưng thần nghe ngóng, Trác Dật Luân không thấy và cũng không nghe có động tịnh gì ở phía sau chàng.
Sau cùng đúng thế, chàng cũng phải đành theo riết đôi tình nhân mê loạn.
Đường đi mỗi lúc một đổi khác, bên là núi non trùng điệp bên là dòng Trường Giang cuồn cuộn sóng xô, trên không chiếc trăng lưỡi liềm tỏa sáng huyền ảo vào đôi tình nhân sóng vai đi bên nhau tất cả tạo nên một khung cảnh rất ư xinh đẹp!
Nhưng mưa gió thì bất định họa phước thì không chừng có ai dám ngờ một bức tranh tuyệt mỹ như thể, một phong quan kỳ tú như thế, chỉ trong chốc lát biến thành một cảnh tượng vô cùng thê thảm bao giờ?
Đi trước là Đông Môn Khả Nhân, nàng có khi hơi tỉnh táo, có khi mơ mơ màng màng còn Tư Mã Hào thi lúc nào cũng ở trong tình trạng mê hoặc ngơ ngác.
Kể ra càng không thể trách được Trác Dật Luân, vì công lực và hỏa hầu của Hà Chưởng Thiên chỉ có cao hơn chàng, hoặc ít nữa cũng ngang với chàng, nhưng nói về khinh công cước trình, thì chàng không thể nào có thể so sánh nổi với Hà Chưởng Thiên, bởi thế nếu Hà Chưởng Thiên đang bí mật theo sau chàng, thì chàng không tài nào trông thấy hắn được.
Tự cổ hễ tiệc vui là chống tàn, do hai lạc cực sinh bi, Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân đang lâm cảnh “đương cuộc giả mê” miệng họ không ngớt đời đời kiếp kiếp, anh anh em em, còn Trác Dật Luân là kẻ “bàng quang giả thanh”, chàng đoán biết “trò chơi” của chàng đã đến lúc sôi nổi hào hứng.
Quả vậy Đông Môn Khả Nhân đang lúc đạp trăng ngắm cảnh bỗng nàng lảo đảo, thân hình diễm lệ của nàng thiếu chút nữa là không sao đứng vững.
Tư Mã Hào vội giơ cánh tay gân guốc ra ôm ngay lấy chiếc lưng ong cửa nàng hỏi giọng tha thiết :
- Hiền muội em làm sao thế?
Đông Môn Khả Nhân nhướng cao mày nhoẻn cười :
- Em hơi mệt!
Tư Mã Hào hiện giờ kỳ thật cũng đã bạc đầu mệt mỏi, nhưng đứng trước mặt người yêu kẻ nam nhi đại trượng phu vẫn luôn tự phụ nên chàng vội gương mi nói lớn :
- Hiền muội anh sẽ đỡ em nếu quả thật em đi không nỗi nữa, em sẽ ngồi tạm bên đường nghỉ ngơi chốc lát.
Đông Môn Khả Nhân nghe nói liền dựa đầu vào vai Tư Mã Hào, từ từ bước về phía tảng đá mọc bên bờ sông.
Đến nơi, cả hơi đều ngồi xuống bên nhau, một làn gió mát thổi qua khiến họ rùng mình.
Đông Môn Khả Nhân bỗng rên khẽ một tiếng, rồi ngáp dài thì thầm bên tai Tư Mã Hào :
- Tam ca em! em hơi thấy lạnh.
Tư Mã Hào lập tức cởi ngay áo ngoài ra trùm kín vào người nàng. Chàng còn giơ tay ôm chặt nàng vào lòng.
Tưởng đó là hành động của kẻ anh hùng hào hiệp nào hay Tư Mã Hào cũng bắt đầu cảm thấy xương sống ớn lạnh khó chịu vô cùng.
Đông Môn Khả Nhân nhờ khoác thêm chiếc áo ngoài lại được Tư Mã Hào ôm chặt vào lòng nên nàng cảm thấy hơi đỡ lạnh. Nàng cảm động giơ tay chỉ lên mảnh trăng lơ lửng trên không và bóng trăng đang chiếu rọi rung rinh dưới mặt nước nhoẻn miệng cười nói :
- Này tam ca, tam ca hãy nhìn xem, mảnh trăng trên trời với bóng trăng dưới nước phản chiếu thành một cảnh sắc tuyệt mỹ, chỉ tiếc là hoa đẹp chóng tàn, trăng tròn mau khuyết khiến người ngắm cảnh cảm thấy sự tàn khuyết thương tâm.
Tư Mã Hào mỉm cười :
- Thiên hạ sự làm gì có thập toàn thập mỹ “thiên nhược hữu tình thiên diệc lão, nguyệt như vô hậu nguyệt trường viên”
Đông Môn Khả Nhân mỉm cười định tiếp lời bỗng nàng tự nhiên sợ lạnh vội ôm chặt lấy cổ Tư Mã Hào, thân nình nàng mỗi lúc mỗi rút sát vào lòng chàng nũng nịu :
- Tam ca, anh... có lạnh không?
Tư Mã Hào bây giờ không những lạnh ở phía ngoài, mà còn lạnh cả phía trong, nhưng một vì không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt người yêu, hai vì muốn cố làm ra vẻ tỉnh táo, như ta đây là đấng anh hùng hào kiệt, chàng cố gượng, khẽ ngâm nga :
- ...Nhớ xưa kia... Châu Công Cẩn... Tiểu Kiều mới lấy chàng... anh tư anh...
Thương thay cho Tư Mã Hào mới ngâm đến đây, hai hàm răng run động lập cập, không sao còn có thể mở miệng ngâm nổi. Tư Mã Hào đang run lật bật, Đông Môn Khả Nhân cũng không hơn gì chàng.
Thế rồi, cả hai ôm chợt lấy nhau một cục.
Chàng hữu, thiếp hữu tình, cả hai đang đắm say trong cảnh sắc tuyệt vời.
Nhưng hiện giờ cái cảnh sắc tuyệt vời ấy bỗng biến thành một cảnh tượng thê lương bởi nhiệt tính trong đáy lòng họ không kháng cự nổi sự xâm nhập của “bệnh ma”, họ đau đớn không sao chịu nổi.
Tư Mã Hào vời Đông Môn Khả Nhân cùng bị đau đớn về thể xác còn Trác Dật Luân đau đớn trong tâm can, vì chàng là người ra tay hạ độc, thâm hiểm dược tính hiện đang làm Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân buốt lạnh thấu xương, và rồi lát nữa họ sẽ bị sốt như thiêu như đốt, ít nhất phải trải qua ba lần nóng lạnh, tuần hoàn cả hai mới khỏi bệnh. Nhưng từ đó về sau, cứ ba ngày họ sẽ bị đau khổ một lần.
Thứ thuốc độc của Trác Dật Luân mạnh khôn tả, khiến Tư Mã Hào với Đồng Môn Khả Nhân hết lạnh rồi lại nóng, miệng không ngớt lẩm bẩm kê kêu “tam ca”, người gọi “hiền muôi”, một bên cứ đòi “giết Bành Bạch Y”, một bên bảo “Ta muốn đi Đồng Bách sơn”.
Ánh trăng vẫn xinh đẹp tuyệt trần, nước sông vẫn chảy cuồn cuộn, gió núi vàn thồi vụt vũ, và giữa gióng sông, đột nhiên lại có thêm một cảnh buồn xuất hiện khiến cảnh sắc càng trở nên thanh tuyệt.
Nhưng Trác Dật Luân còn lòng nào để thưởng thức cảnh sắc, chàng đứng núp trong bóng tối, quét mắt nhìn khắp mọi nơi để tìm tòi xem Hà Chưởng Thiên đã xuất hiện hay chưa.
Cổ nhân có câu “có công mài sắc, có ngày nên kim”, lúc ấy bỗng có một tiếng rú to khuấy động cảnh khuya thanh vang và liền đó từ phía sau một đảng đá, đột nhiên xuất hiện một bóng người không khác gì làn sao xẹt lao vụt tới chỗ Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân đang nằm ôm nhau co quắp.
Bóng người vừa xuất hiện, hai tay áo lủng lẳng hiển nhiên y đã cụt cả hai tay.
Không ai khác hơn là Hà Chưởng Thiên trong nhóm Vũ Trụ lục tàn.
Trác Dật Luân đoán không ra dụng ý của Hà Chưởng Thiên nên tự nhiên chẳng dám chần chờ lập tức quát to mật tiếng phóng người như bay ra chặn đường.
Trông thấy có người đón đường Hà Chưởng Thiên vội giơ cao chân mặt lập tức có ba bốn đạo thanh quang sáng loáng bay thẳng về phía Trác Dật Luân.
Không dám chậm trễ, Trác Dật Luân một mặt thi triển khinh công bay vọt lên cao hơn năm thước, một mặt ngầm vận nội gia chân khí vào cánh tay mặt xông vào công kích Hà Chưởng Thiên.
Trông thấy thân pháp tuyệt diệu của Trác Dật Luân nhưng Hà Chưởng Thiên vẫn xem thường, hắn vội nhảy sang một bên, nhẹ nhàng lướt ra xa hơn năm sáu trượng.
Trác Dật Luân thầm hiểu công kích là phương pháp phòng bị hay nhất nên chàng không chịu bỏ lỡ cơ hội vội nhún người, bằng chiêu “Bàng Bát tam thức” một “Thiên Sơn” tuyệt học đã do ân sư Túy Đầu Đà truyền thụ cho chàng ra tấn công.
Ba thứ chưởng pháp trên thật là thiên biến vạn hóa, có một uy lực vô biên, khiến Hà Chưởng Thiên phải thi triển tận lực môn tuyệt thế khinh công ra để né tránh.
Trác Dật Luân cẩn thận, và có cơ trí thật, nhưng dẫu sao chàng cũng là người còn trẻ, trông thấy Hà Chưởng Thiên một nhân vật danh liệt “Vũ Trụ lục tàn” uy trấn hoàn vũ, giờ bỗng bị mình công kích tơi bời bức lui về thế thủ, nên chàng tự đắc và mừng thầm.
Song trong lúc Trác Dật Luân thi triển tuyệt học cố sức đuổi đánh Hà Chưởng Thiên chàng đã quên phức khinh công tuyệt vời của đối phương mà trước kia chàng đã thấy qua tại Hoàng sơn Tây Hải Môn.
Theo kinh nghiệm trước kia Trác Dật Luân phải nên hiểu dẫu hiện giờ Hà Chưởng Thiên có đánh không lại chàng, chàng vẫn không nên truy kích, vì không đời nào đuổi kịp mà có thể sanh cầm hay đả thương được y mới phải.
Bởi thế cho nên chỉ độ mười lần lên xuống chàng đã đuổi Hà Chưởng Thiên khá xa, ít nhất cũng đã rời xa nơi Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân hơn bảy tám chục trượng mà vẫn không bắt kịp đối phương.
Thế rồi ngay lúc ấy, Hà Chưởng Thiên đột nhiên đứng dừng lại, chăm chú nhìn Trác Dật Luân đang linh không đuổi tới.
Trác Dật Luân ngỡ đối phương lại định thi triển môn ám khí lần nữa, chàng giật mình đề phòng không dám khinh địch vội dừng lại trước mặt cách xa độ ba trượng. Trong khi đó chân mặt của Hà Chưởng Thiên tức thời từ từ giơ lên cao và chớp mắt hơn mười ngọn độc dược phi trâm bỗng từ đầu gối bay vèo ra hóa thành một luồng thanh quang, xạ thẳng vào giữa ngực Trác Dật Luân.
Đồng thời y vụt tiền tới, phi thân đá mạnh vào người Trác Dật Luân một đá kinh hồn.
Trác Dật Luân hoảng hốt lật đật trườn người né khỏi mười mũi phi trên bay tới thì chàng chợt nghe một luồng kình phong tập kích ngay vào giữa “Đơn Điền” đài huyệt của mình.
Hóa ra người thường hay luyện môn “Phách Không chưởng” còn Hà Chưởng Thiên thì luyện được “Phách Không cước”.
Môn “Phách Không cước” không giống môn “Phách Không chưởng”, vì trước khi chân chưa đá trúng địch nhân thì một luồng kình phong đã cách không thổi đến trước rồi.
Đây là lần đầu tiên Trác Dật Luân gặp môn “Phách Không cước”, nên chàng hơi giật mình vừa né khỏi mấy mũi độc trâm là chàng vội đề chân khí giơ chưởng đánh lại tức khắc.
Vì tính hiểu kỳ muốn thử môn “Phách Không chưởng lực” có mạnh bằng môn “Phách Không cước lực” của Hà Chưởng Thiên không.
Không ngờ chàng đã tận dùng mười thành công lực phóng ra một “Phách Không chưởng” vẫn không thể nào thắng nổi luồng kình phong của đầu bàn chân của Hà Chưởng Thiên vừa đá tới mà hai bên chỉ là nửa cân tám lạng bất phân thắng phụ.
Hà Chưởng Thiên nhân lúc Trác Dật Luân thoáng giật mình mất bình tĩnh y liền chiếm ngay ưu thế, thi triển môn độc môn tuyệt học cuồng phong “Vô Ảnh cước pháp” công kích tiếp theo.
Trác Dật Luân bị Hà Chưởng Thiên công kích tơi bời nhưng nhờ có bản chất cực tốt, căn cơ thâm hậu nên lâm nguy mà chàng bất loạn thoát khỏi được nguy cơ, Môn cuồng phong “Vô Ảnh cước pháp” của Hà Chưởng Thiên có tất cả một trăm hăm ba thức, Trác Dật Luân ứng phó vừa qua được một nửa, độ chừng hơn mười, hiện tình thế bắt đầu khá trở lại.
Giữa khi ấy chiếc thuyền con thấp thoáng ngoài khơi khi nãy cũng bắt đầu cặp bến.
Vừa vào đến bờ từ trên thuyền bỗng có hai nàng nữ tỳ áo xanh tung người nhảy tới tảng đá cạnh bờ hồ kế ngay Tư Mã Hào với Đông Môn Khả Nhân đang bị nóng lạnh, mê mang như chết đem thẳng xuống thuyền.
Trác Dật Luân trông thấy thế hoảng kinh, tâm thần chàng trở nên rối loạn.
Phàm là cao thủ võ lãm đang lúc giao đấu kỵ nhất là phân thần. Trong khi giao đấu, Trác Dật Luân vừa giật mình kinh hoảng nên thân pháp hơi chậm lại, chàng liền bị Hà Chưởng Thiên đá trúng một đá vào ngang hông.
Trác Dật Luân cảm thấy bên hông rát bỏng như lửa thiếu chút nữa chàng bị ngã quay ra đất.
Hà Chưởng Thiên chưa kịp thừa cơ nhảy vào công kích Trác Dật Luân, đoạt lấy mạng chàng thì giữ giữa lúc ấy dưới ánh trăng vằng vặc từ phía xa dưới chân núi đột nhiên xuất biện một bóng đỏ tà áo phất phơ bay.
Hà Chưởng Thiên vụt biến sắc khi thoáng thấy bóng người áo đỏ, y hoảng kinh nhún mạnh hai chân thi triển khinh công tuyệt kỹ bay thẳng về phía chiếc thuyền buồm nhỏ.
Trác Dật Luân tuy đang bị trọng thương nhưng chàng không đành lòng thấy Hà Chưởng Thiên bắt cóc Tư Mã Hào và Đông Môn Khả Nhân, chàng cắn răng nhịn đau quát lớn lên một tiếng lập tức lao người đuổi vụt theo.
Lúc bình thường trong người hoàn toàn khỏe mạnh chàng cũng không tài nào đuổi cheo kịp Hà Chưởng Thiên, huống chi hiện giờ chàng bị thương bên hông đau nhức, vì vậy càng đuổi khoảng cách giữa chàng và đối phương lại càng xa hơn.
Và khi chàng cố sức đuổi tới bờ sông chiếc thuyền buồm nhỏ của Hà Chưởng Thiên đã rời xa bờ hơn năm trượng.
Trát. Dật Luân thất vọng đứng nhìn chiếc thuyền mỗi lúc một ra xa. Đang khi tức giận tột độ vì không đuổi bắt kịp tên hung nhân vô đạo chàng chợt thấy một đường sáng loé lên và từ thuyền địch đang bay vèo tới giữa cổ chàng...
Trác Dật Luân kinh hãi, không kịp suy nghĩ gì nữa, chàng nghiên đầu né tránh đồng thời giở nhanh hai ngón tay bên trái lên định kẹp lấy mũi ám tiễn.
Nhưng giữa lúc ấy chàng chưa kịp kẹp được mũi ám tiễn thì bỗng một luồng sáng lại loé lên tiếp theo không biết từ đâu bay ra, một mũi trâm cài đầu đánh văng mũi ám tiễn sang một bên rơi xuống mặt đất.
Trác Dật Luân giật mình nhìn vội về hướng mũi trâm vừa đánh tới đột nhiên tim trong ngực chàng nhảy mạnh, chàng đứng ngây người ra như tượng gỗ không nói được một tiếng nào!
Hóa ra ngay trước mặt chàng xa chỉ độ ba trượng một mỹ nhân áo đỏ, đã xuất hiện đẹp tuyệt trần!
Mỹ nhân áo đỏ không ai hơn là nàng Bào hao bồng nhan Hạ Hầu Quyên, người đẹp mà chàng ngày đêm tưởng nhớ đến ăn ngủ không yên.
Tuy bất ngờ gặp lại được người yêu, nhưng Trác Dật Luân là một trang hiệp sĩ hào hùng lúc nào cũng đặt nặng tình bạn, nhất là bạn đang thọ nạn chưa biết hiểm nguy cho số phận ra sao, nên chàng vẫn cứ ngó mông ra giữa sông hoài.
Khi ấy, chiếc thuyền buồm nhỏ chở theo Hà Chưởng Thiên, Tư Mã Hào, Đông Môn Khả Nhân đang lướt sóng như bay, dần dần biến mất giữa cảnh trời đất mênh mông xa tít!
Đến chừng đó Trác Dật Luân mới buồn bã thở dài quay lại nói với Hạ Hầu Quyên bằng giọng chán tình :
- Quyên muội... em đã... đến trễ một chút chứ nếu không là chận bắt được thuyền buồm của bọn khốn nạn ấy rồi.
Hạ Hầu Quyên gặp được tình quân trong lúc này cũng không khác gì, nàng mừng như được ai cho của quí. Thấy Trác Dật Luân mãi ngó mông ra ngoài sông, nàng yên lặng đứng chờ đến chừng chàng quay lại nói, nàng vội vàng lắc đầu đáp miệng chúm chím cười :
- Tiểu muội có đến kịp, tiểu muội cũng để mặt họ, không thèm cứu họ đâu! Đôi nam nữ kỳ hiệp sau bao ngày nhớ thương dài dòng giờ họ không còn e ấp như buổi đầu gặp gỡ nữa mà đã thực sự gọi nhau bằng tiếng nói của tình yêu tha thiết, xem nhau như đã mặn hồng ân nghĩa.
- Quyên muội, sao không muốn cứu người hoạn nạn, là thế nào?
Trác Dật Luân yêu mến hỏi.
Hạ Hầu Quyên nguýt chàng, đáp :
- Một gã thì ngông cuồng hỗn láo đã bị tiểu muội trừng trị một lần về tội khinh thị, còn một ả thì tự phụ, lúc nào cũng xem mình là thiên hạ vô địch như thế tiểu muội cứu bọn họ có ích lợi gì?
Trác Dật Luân nghe người yêu viện lý, ăn nói có quyên trong bụng lấy làm sung sướng lắm. Nhưng biết người yêu đã ngộ nhận, chàng nhẹ lắc đầu, ngọt ngào nói :
- Quyên muội em chưa nhận xét họ kỹ chứ thực ra họ khá lắm không như em tưởng vậy đâu.
Hạ Hầu Quyên vội cười bảo :
- Trác huynh hãy thong thả nói cho tiểu muội nghe xem, coi có đúng không. À, mà khoan đã để tiểu muội xem qua vết thương cho Trác huynh đã rồi hãy nói chuyện đó.
Trác Dật Luân tự nãy tới giờ vì mải nghĩ tới bạn mà quên cả sự đau đớn, bây giờ chợt nghe Hạ Hầu Quyên nhắc tới, chàng mới cảm thấy một bên hông đau đớn không sao chịu nổi, chàng nhăn mặt rồi ngồi bệt xuống tảng đá hồi nãy bọn Tư Mã Hào đã ngồi.
Hạ Hầu Quyên biết Trác Dật Luân đã bị thương rất nặng, nàng hết còn vui tươi nữa ma lo lắng hỏi :
- Trác huynh thấy trong người thế nào? Có đau đớn lắm không Trác huynh? Chuyến trước trong khi tiểu muội giao đấu với Hà Chưởng Thiên tại Hoàng Sơn hắn đã một đá vào một tảng đá to lớn vỡ tan tành nhiều mảnh, đủ biết công lực của hắn lợi hại là dường nào rồi đó. Trác huynh hãy để tiểu muội xem qua vết thương coi có việc gì không nha?
Trác Dật Luân thấy Hạ Hầu Quyên cứ đòi xem xét vết thương mà cả thẹn đến đỏ mặt bởi vết thương của chàng ở một bên hông làm sao giở ra cho nàng xem được?
Đứng trước tình cảnh khó xử, chàng ngập ngừng mãi mới nói ra lời :
- Ngu huynh đã tránh kịp luồng kình phong nên thương thế không đến nỗi nặng lắm đâu.
Vả lại ngu huynh có biết qua chút ít y học, trong túi có đem sẵn thuốc trị thương, không sao đâu Quyên muội.
Dứt lời chàng liền móc ra hai gói thuốc bột trút vào miệng đoạn mở bầu rượu chàng mang theo ra ực luôn mấy hớp.