Engywick và Atréju quay xuống hang thì Fuchur vẫn còn đang thiêm thiếp. Bà Urgl, trong khi chờ đợi, đã khiêng chiếc bàn con ra ngoài trời, bày biện đủ loại bánh mứt làm từ dâu và các thứ thảo mộc.
Bà còn bày cả những ly con và một ấm nhỏ trà thảo mộc nóng hổi thơm phức. Hai cái đèn bão nhỏ xíu đốt dầu làm cảnh trí thêm hoàn hảo.
- Ngồi xuống! Bà lùn ra lệnh. Cháu Atréju phải ăn uống vào mới lại sức được. Chỉ thuốc thôi thì không đủ đâu.
- Không được cãi! Bà Urgl thở phì phò. Hễ cháu còn ở đây thì phải làm những gì ta bảo, nghe chưa! Chất độc trong người cháu đã hết tác dụng rồi. Cháu không việc gì phải vội cả. Cháu còn nhiều thì giờ mà, muốn bao nhiêu chẳng được, thành ra cứ thư thả.
- Không phải chỉ vì cháu, Atréju nói, Nữ-thiếu-hoàng đang hấp hối. Có thể sinh mạng bà lúc này đã phải tính từng giờ rồi.
- Vớ vẩn! Bà lùn làu bàu. Vội vã chẳng đạt được gì cả. Ngồi xuống! Ăn đi! Uống đi! Nào, có nhanh lên không?
- Tốt nhất là theo ý bà ấy đi, ông Engywuck thì thào, ta có kinh nghiệm với bà ấy mà. Khi bà ấy đã muốn thì không làm không xong đâu. Vả lại hai ta, ta với cháu, còn nhiều chuyện cần nói với nhau.
Thế là Atréju ngồi xếp bằng trước cái bàn con hăng hái ăn. Cắn một miếng, uống một hớp gã đều thật sự cảm thấy như sự sống bằng vàng ấm áp chảy trong các huyết quản và bắp thịt. Bấy giờ gã mới nhận ra rằng mình đã mất sức nhiều.
Bastian thấy thèm nhỏ dãi. Nó như chợt ngửi thấy mùi món ăn thơm phức của hai ông bà lùn. Nó hỉnh mũi hít hít trong không khí, song dĩ nhiên chỉ bởi vì nó tưởng tượng thế thôi.
Bụng nó kêu nghe rõ mồn một. Nó không nhịn nổi nữa, phải lấy phần bánh và táo còn lại trong cặp ra ăn hết. Sau đó nó thấy đỡ hơn tuy còn lâu mới no.
Rồi nó chợt nhớ ra rằng đó là bữa cuối của nó. Nó hoảng quá, cố không dám nghĩ tới nữa.
- Ở đâu mà bà có những món ngon thế này, Atréju hỏi bà Urgl.
- Con ạ, bà nói, phải đi xa quanh đây mới tìm được đúng các thứ thảo mộc. Nhưng cái lão Engywuck cứng đầu lại chỉ muốn ở đây thôi, vì ba cái chuyện nghiên với cứu quan trọng của lão! Còn chuyện làm sao có thức ăn bày trên bàn thì lão mặc kệ.
- Này mụ, ông Engywuck long trọng đáp, mụ biết thế quái nào là quan trọng hay không. Đi đi để bọn ta nói chuyện!
Bà Urgl vừa đi vừa cằn nhằn; vào trong hang bà quăng chén quăng đĩa ầm ầm.
- Kệ mụ! Ông Engywuck thì thầm. Mụ là người tốt, chỉ thỉnh thoảng càu nhàu. Nghe này, Atréju! Ta sẽ giải thích cho cháu vài điều cháu cần biết về Đền Tiên tri miền Nam. Không dễ gặp được Uyulala đâu. Thậm chí hơi khó nữa đấy. Nhưng ta không thuyết trình khoa học cho cháu làm gì. Có lẽ cháu hỏi để ta trả lời thì tốt hơn, vì ta có tật dông dài chi tiết. Hỏi đi!
- Được, Atréju nói, vậy thì Uyulala là ai hoặc là cái gì?
- Quỷ quái thật! Ông Engywuck làu bàu, bực mình nhìn gã. Cháu hỏi thẳng thừng y như mụ vợ ta vậy. Không thể bắt đầu bằng gì khác được ư?
Atréju ngẫm nghĩ rồi hỏi:
- Cái cổng to với đôi nhân sư ông chỉ cháu xem đó có phải là cổng vào không?
- Hỏi thế mới được! Ông Engywuck đáp. Hỏi thế thì mình mới tiếp tục được, cổng đá đó là lối vào, nhưng sau đó còn hai cổng nữa. Uyulala ở sau cái cổng thứ ba - nếu như có thể dùng từ "ở" được.
- Thế ông đã từng đến chỗ Uyulala rồi à?
- Cháu nhầm rồi! Engywuck hơi phật ý đáp. Ta chỉ làm việc khoa học thôi. Ta đã thu thập hết mọi điều từ những người đã vào đấy, dĩ nhiên nếu họ trở ra được. Việc làm này quan trọng lắm! Ta đâu thể khinh suất mà tự vào đấy được. Nhỡ ảnh hưởng tới công việc của ta thì sao.
- Cháu hiểu, Atréju nói. Thế ba cái cổng này có gì lạ?
Engywuck đứng lên, chắp tay sau lưng, đi đi lại lại giải thích:
- Cổng đầu tiên tên là Cổng Vấn nạn lớn. Cổng thứ nhì là Cổng Gương Thần. Còn cổng thứ ba gọi là Cổng Không Chìa...
- Kỳ cục, Atréju ngắt lời ông, cháu nhìn rất xa mà chỉ thấy sau cổng đá không có gì khác ngoài một bình nguyên trống trơn. Thế hai cổng kia ở đâu?
- Im! Engywuck la át. Cháu cứ ngắt lời như thế thì ta không thể giải thích được. Mọi chuyện đều rất khó giải thích! Vấn đề là thế này: phải qua được cổng đầu tiên thì mới thấy cổng thứ hai. Rồi phải qua được cổng thứ hai thì mới thấy cổng thứ ba. Rồi phải qua cổng thứ ba thì mới thấy Uyulala. Trước đó chẳng thấy gì hết thảy, đơn giản vì không có, hiểu không?
Atréju gật nhưng im lặng để khỏi làm ông lùn bực mình lần nữa.
- Cổng đầu tiên, Cổng Vấn nạn lớn, thì cháu đã nhìn thấy qua ống nhòm rồi. Cả đôi nhân sư nữa. Cổng này luôn luôn mở, dĩ nhiên, vì nó không có cánh cổng. Ấy thế mà không ai qua nổi, trừ khi..., đến đây Engywuck giơ một ngón tay trỏ nhỏ xíu lên trời, ... trừ khi đôi nhân sư nhắm mắt. Cháu biết tại sao không? Con nhân sư nhìn hoàn toàn khác hẳn những sinh vật khác. Chúng ta nhìn thấy ngoại vật. Nhưng con nhân sư không thấy gì hết, trong một nghĩa nào đấy nó mù. Ngược lại mắt nó chiếu ra thứ khác. Cái mà mắt nó chiếu ra đó là gì? Là mọi vấn nạn trên đời. Chính vì thế mà đôi nhân sư liên tục nhìn nhau, vì chỉ con nhân sư này mới chịu nổi cái nhìn của con nhân sư kia. Cháu thử tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra cho một kẻ liều lĩnh chạy vào tầm mắt của đôi nhân sư? Y sẽ cứng đờ cả người như hóa đá ngay tại chỗ và chỉ cử động lại được sau khi đã giải hết mọi vấn nạn trên đời này. Khi nào cháu tới đó sẽ thấy vết tích của những gã đáng thương kia.
- Nhưng ông chẳng nói rằng thỉnh thoảng đôi nhân sư kia nhắm mắt là gì? Atréju ngắt lời. Đôi khi chúng cũng phải ngủ chứ nhỉ?
- Ngủ à? Engywuck cười rung cả người. Trời đất ơi, nhân sư mà ngủ. Không, thật sự không. Cháu đúng là ngây thơ. Nhưng câu hỏi của cháu không hoàn toàn sai. Đấy chính là điểm mấu chốt mà ta nghiên cứu. Ở một số người đôi nhân sư nhắm mắt để họ qua. Câu hỏi đến nay chưa ai giải đáp được là: tại sao chúng để người này qua mà người khác lại không? Vì rõ ràng không phải chúng chỉ cho bậc hiền nhân, kẻ dũng cảm, người lương thiện qua còn kẻ ngu đần, phường hèn nhát, quân gian ác thì không. Ngược lại! Chính mắt ta đã quan sát, nhiều lần nhé, thấy chúng cho một tay ngu ngốc dở hơi hoặc một gã lưu manh đểu cáng qua, trong khi những người đàng hoàng rất mực, biết điều rất mực thường phải chờ uổng công cả tháng, cuối cùng thất bại bỏ về. Dù họ tìm đến Đền Tiên tri vì nguy khốn hay do bức bách hay chỉ vì đùa nghịch đều như nhau tất.
- Thế còn các nghiên cứu của ông, Atréju hỏi, không cho được tí cơ sở nào hay sao?
Tức thì đôi mắt Engywuck lại bừng giận dữ.
- Cháu có nghe ta nói không đấy? Ta vừa mới bảo rằng cho đến nay chưa ai trả lời được điều này mà. Dĩ nhiên trong nhiều năm ta cũng có được vài lý thuyết. Mới đầu ta cho rằng điểm mấu chốt để lũ nhân sư quyết định có lẽ là những đặc điểm của cơ thể, như chiều cao, sắc đẹp, sức khỏe hay sao đó. Nhưng chẳng bao lâu sau ta phải bỏ cái lý thuyết này. Rồi ta thử xác định một tương quan về con số như thế nào đấy, chẳng hạn trong năm người thì luôn luôn có ba người không qua lọt, hay chỉ những ai với số thứ tự là số nguyên tố[1] mới vào được. Lý thuyết này rất đúng với những gì đã xảy ra, nhưng khi dự đoán lại sai bét. Cho đến bây giờ ta lại nghĩ rằng quyết định của đôi nhân sư hoàn toàn ngẫu nhiên chứ không theo quy luật nào. Nhưng mụ vợ ta lại quả quyết rằng nghĩ như thế là phạm thượng, hơn nữa chẳng hay ho gì và chẳng còn liên quan gì đến khoa học nữa.
[1] Số nguyên tố: số nguyên lớn hơn 1 và chỉ chia chẵn được cho 1 và chính nó (thí dụ: 3, 5, 7,…)
- Lão lại kể lể lăng nhăng chứ gì? Tiếng bà vợ lùn la lối trong hang. Thật xấu hổ! Chỉ vì bộ óc hạt đậu trong đầu lão khô kiệt nên lão tưởng có thể đơn giản phủ nhận những điều bí ẩn lớn lao ấy được à, hở lão già ngu ngốc?
- Thế còn tấm bùa của Nữ-thiếu-hoàng thì sao? Atréju hỏi. Ông có nghĩ rằng đôi nhân sư sẽ tuân phục nó không? Dẫu sao thì chúng cũng là những sinh vật của vương quốc Tưởng Tượng?
- Thì vẫn, Engywuck lắc lư cái đầu nhỏ như quả táo đáp, nhưng muốn thế thì chúng phải thấy được tấm bùa cái đã. Mà chúng lại chẳng nhìn thấy gì cả. Trong khi đó thì tia mắt của chúng sẽ chạm vào cháu. Ta cũng không chắc là lũ nhân sư phục tùng Nữ-thiếu-hoàng. Có khi địa vị của chúng còn cao hơn Nữ-thiếu-hoàng chưa biết chừng. Ta không biết, không biết. Dẫu sao cũng đáng lo ngại lắm.
- Thế ông khuyên cháu nên làm gì? Atréju hỏi.
- Cháu sẽ phải làm như mọi người thôi, ông lùn đáp. Đó là chờ xem đôi nhân sư quyết định thế nào - mà không biết lý do tại sao chúng lại quyết định như thế.
Atréju trầm ngâm gật đầu.
Bà Urgl bước ra khỏi hang, kéo theo một chậu con đựng một thứ chất lỏng bốc hơi nghi ngút, tay kia kẹp mấy bó thảo mộc khô. Bà lẩm bẩm một mình, lại chỗ con Phúc long vẫn còn đang ngủ như chết. Bà leo lên mình nó, thay những miếng thuốc dán. Bệnh nhân khổng lồ của bà chỉ thở một hơi dài khoan khoái, duỗi thẳng mình chứ có vẻ không biết tí gì rằng nó đang được điều trị.
- Lão có thể làm chút gì ích lợi hơn được không, bà nói với ông Engywuck khi quay trở vào trong bếp, thay vì ngồi loanh quanh ở đây tán chuyện vớ vẩn.
- Tôi làm chuyện rất có ích, ông nói chõ theo bà vợ, có khi còn ích lợi hơn mụ đấy, nhưng chẳng đời nào mụ hiểu nổi đâu, mụ già thiển cận ạ!
Rồi ông quay qua Atréju nói tiếp:
- Mụ chỉ biết nghĩ chuyện thực tiễn thôi. Những chuyện bao quát lớn lao thì mụ không thích.
Tháp đồng hồ điểm ba tiếng.
Nếu thật sự bố lưu tâm đến nó thì bây giờ là trễ nhất bố phải nhận thấy Bastian chưa về nhà. Bố có thấy lo không? Biết đâu bố sẽ chẳng chạy đi tìm nó. Có thể bố đã báo cảnh sát rồi ấy chứ. Và cuối cùng thì thông báo tìm nó đã được truyền đi trên đài phát thanh rồi. Bastian thấy đau nhói chỗ xương mỏ ác.
Nếu thế thật thì họ sẽ tìm nó ở đâu? Trong trường chăng? Có khi trên kho chứa đồ này chưa biết chừng?
Sau khi từ nhà vệ sinh về nó đã khóa cửa chưa? Không nhớ nữa. Nó đứng dậy kiểm tra lại. Có, cửa đã khóa và gài rồi.
Ngoài trời đã bắt đầu nhá nhem. Ánh sáng rọi qua cửa tò vò cũng đã yếu dần tuy khó nhận thấy.
Bastian chạy quanh trong kho một lúc để hết lo. Trong lúc chạy nó khám phá ra một mớ đồ đúng ra chẳng liên quan gì đến các học cụ trong kho này cả. Chẳng hạn một máy quay đĩa có loa đã cũ, móp méo. Ai mà biết khi nào và người nào đã mang cái máy này lên đây? Ở một góc phòng có dựng nhiều bức họa với những khung mạ vàng được bào soi rất cầu kỳ. Hầu như không còn nhận ra nổi tranh vẽ gì, trừ chỗ này chỗ kia có một gương mặt nhợt nhạt, nghiêm nghị hiện ra mờ mờ phía sau. Có cả một giá cắm nến bảy nhánh[2] đầy gỉ sét, trên mỗi nhánh vẫn còn cắm một mẩu nến to dính sáp chảy dài ngoằng.
[2] Có lẽ tác giả muốn nói giá cắm nến 7 nhánh thẳng hàng như của đạo Do Thái, tượng trưng cho 7 ngày Chúa Trời “sáng thế”.
Chợt Bastian hốt hoảng vì thấy trong một xó tối có bóng người đi lại. Nhìn lần nữa Bastian mới nhận ra một tấm gương lớn đã mờ dựng ở đó và hình người không rõ nét kia là của chính nó. Nó xích lại gần, ngắm nghía một lúc. Quả thật nó không đẹp với thân hình mập ú, chân vòng kiềng và khuôn mặt nhợt nhạt. Nó chậm chạp lắc đầu kêu lớn:
"Không!"
Rồi Bastian quay lại đống nệm. Bây giờ nó phải kề quyển sách sát vào mắt mới đọc tiếp được.
- Mình nói đến đâu rồi? Ông Engywuck hỏi.
- Tới cái Cổng Vấn nạn lớn, Atréju nhắc.
- Phải rồi! Giả thử rằng cháu qua được cổng này. Sau đó - chỉ sau đó thôi - cổng thứ hai sẽ hiện ra với cháu. Đó là cổng Gương Thần. Điều ta nói đây không phải từ những gì chính ta quan sát được, mà chỉ từ những báo cáo ta đã thu thập, cổng thứ hai này vừa mở lại vừa đóng. Nghe thật điên khùng, nhỉ? Có lẽ nói thế này đúng hơn: nó không đóng cũng không mở, tuy rằng nói như thế cũng điên khùng không kém. Nói ngắn gọn: đây là một tấm gương lớn hay sao đó, tuy không phải bằng thủy tinh hay kim loại. Nó làm bằng chất gì, không ai nói được cho ta biết. Dẫu sao khi đứng trước nó thì nhìn thấy mình, nhưng không phải như trong một tấm gương bình thường, dĩ nhiên rồi. Người ta thấy không phải hình dáng bề ngoài, mà thấy được chân tướng. Ai muốn đi qua cổng này thì phải - tạm diễn đạt là - đi vào trong chính mình.
- Dù sao, Atréju nói, cháu thấy đi qua cổng Gương Thần dễ hơn qua cổng đầu tiên.
- Nhầm! Engywuck kêu lên và lại bồn chồn chạy tới chạy lui. Nhầm to, bạn ạ! Ta đã từng thấy chính những kẻ tự cho là rất mực đàng hoàng không thể chê được đã vừa bỏ chạy vừa la rầm trời trước con quái vật nhe răng múa vuốt gầm gừ nhìn họ trong gương. Thậm chí có những kẻ bọn ta đã phải chữa trị hàng tuần lễ mới tạm đủ sức trở về.
- Bọn ta! Bà Urgl làu bàu. Bà đang xách một chậu nước mới đi ngang qua. Tôi cứ nghe lão nói "bọn ta". Lão đã chữa trị cho ai nào?
Ông Engywuck chỉ phẩy tay chứ không trả lời.
- Có những kẻ khác, ông kể tiếp, hẳn là còn thấy nhiều thứ kinh hoàng hơn, nhưng vẫn can đảm đi qua. Cũng có những kẻ ít bị kinh hoàng hơn nhưng ai cũng đều phải cố kiềm chế hết. Thật khó nói việc này ảnh hưởng thế nào đến họ. Mỗi người một khác.
- Vâng, Atréju nói, tuy nhiên người ta có thể đi qua tấm gương thần chứ gì?
- Có thể, ông lùn đáp, dĩ nhiên là có thể rồi, nếu không thì nó đâu phải là cổng nữa. Hợp lý không nào?
- Người ta cũng có thể đi vòng cổng này được chứ? Atréju hỏỉ.
- Được, ông Engywuck lặp lại, được tất! Nhưng rồi sau cổng này sẽ chẳng gặp gì hết thảy, cổng thứ ba chỉ có đó khi người ta đã đi qua cổng thứ hai. Ta còn phải nhắc cháu bao nhiêu lần điều này nữa!
- Còn cổng thứ ba có gì đặc biệt?
- Cái cổng này mới thật gay go đây! Cái Cổng Không Chìa vốn khóa kín. Khóa kín. Xong! Không có nắm đấm hay ổ khóa, tuyệt đối không! Theo thuyết của ta thì cái cánh cửa duy nhất khóa kín không một kẽ hở này phải làm bằng chất Sélen-độc-đáo[3]. Có lẽ cháu biết rằng không có gì hủy hoại, làm cong hay hòa tan chất Sélen-độc-đáo này được. Nó tuyệt đối không hủy hoại nổi.
[3] Đây không phải chất Selen (một bán-kim loại) có trong tự nhiên.
- Nghĩa là hoàn toàn không đi qua nổi cổng này?
- Từ từ, từ từ, cậu bé! Đã có người đi vào được và trò chuyện với Uyulala, đúng không? Nghĩa là người ta có thể mở được cổng này chứ.
- Nhưng bằng cách nào?
- Nghe đây: số là chất Sélen-độc-đáo này phản ứng với ý muốn của chúng ta. Chính ý muốn của chúng ta đã khiến nó cứ lỳ ra. Hễ càng cứ muốn vào thì cánh cửa càng đóng chặt. Còn nếu ai quên nổi hết mọi ý định, không muốn gì hết nữa thì cửa sẽ tự động mở trước người đó.
Atréju cúi nhìn xuống khẽ nói:
- Nếu thật thế... thì cháu làm sao qua nổi? Làm sao cháu không muốn qua được chứ?
Ông Engywuck gật đầu thở dài.
- Thì ta đã nói rồi: cổng Không Chìa là khó nhất.
- Nhưng giả dụ cháu qua được, Atréju lại hỏi, thì cháu tới được Đền Tiên tri phía Nam à?
- Ừ, ông lùn đáp.
- Và cháu có thể nói chuyện với Uyulala được?
- Được, ông lùn nói.
- Uyulala là ai hay là gì?
- Ta không rõ, ông lùn đáp, mắt ánh nét giận dữ, không một kẻ nào đã gặp Uyulala chịu tiết lộ với ta điều cháu vừa hỏi. Làm sao ta có thể hoàn thành công trình khoa học được khi ai nấy đều cứ giữ kín như bưng, hả? Tức đến muốn vặt cả tóc - nếu như ta còn tóc. Atréju này, nếu cháu gặp được Uyulala thì cháu có chịu cho ta biết không? Chịu không? Ta sẽ chết vì thèm được biết mà không ai, không ai chịu giúp ta. Cháu làm ơn hứa sẽ cho ta biết đi!
Atréju đứng lên nhìn về phía Cổng Vấn nạn lớn đang im lìm dưới ánh trăng vằng vặc.
- Cháu không thể hứa được, ông Engywuck ạ, gã khẽ nói, dù cháu rất muốn, để tỏ lòng biết ơn của cháu đối với ông. Nhưng một khi không ai tiết lộ Uyulala là ai hay là gì thì ắt phải có lý do. Thành ra trước khi biết lý do này, cháu không dám quyết định có thể để cho một người không tự mình đứng trước mặt Uyulala được phép biết hay không.
- Vậy thì xéo ngay đi! Ông lùn lớn tiếng la, mắt long lên giận dữ. Thật là vong ân bội nghĩa! Vì lợi ích chung mà mình tận tụy cả đời để nghiên cứu điều bí mật kia. Nhưng chẳng được giúp đỡ gì. Lẽ ra ta không nên chăm lo cho mày mới phải!
Rồi ông chạy vào hang, từ bên trong vang ra tiếng sập cửa thật mạnh.
Bà Urgl đi tới, khúc khích cười nói với Atréju:
- Lão teo đầu ấy không nghĩ thế thật đâu, cháu ạ. Chẳng qua thỉnh thoảng lão lại thất vọng tràn trề về mấy chuyện nghiên cứu vớ vẩn của lão thôi. Chỉ vì lão rất mong là kẻ giải được vấn nạn lớn này. Để trở thành ông lùn Engywuck nổi tiếng. Đừng giận lão!
- Cháu không giận đâu, Atréju nói, bà làm ơn chuyển lời cám ơn chân thành của cháu về mọi điều ông đã làm cho cháu. Cháu cũng cám ơn cả bà nữa. Nếu được phép thì cháu sẽ tiết lộ với ông điều bí mật kia... trong trường hợp cháu trở về được.
- Cháu muốn bỏ bọn ta mà đi à? Bà già Urgl hỏi.
- Cháu phải đi, Atréju đáp, cháu không được để mất thì giờ. Bây giờ cháu sẽ đi vào Đền Tiên tri. Chào tạm biệt bà! Trong khi chờ đợi, bà chăm sóc con Phúc long Fuchur cho cháu nhé!
Dứt lời gã quay người nhắm Cổng Vấn nạn lớn đi tới.
Bà Urgl nhìn theo dáng đi thẳng người của Atréju với cái áo khoác phất phới khuất giữa những tảng đá. Bà chạy theo gọi:
- Atréju, chúc cháu nhiều may mắn!
Nhưng bà không biết gã có còn nghe thấy không. Rồi bà vừa lệt bệt quay vào hang vừa lẩm bẩm bâng quơ:
- Nó cần may mắn... thật đấy, cần nhiều may mắn.
Atréju đến cách cái cổng đá khoảng năm mươi bước chân thì dừng lại. So với thấy từ xa thì nó to hơn nhiều. Phía sau cổng là một vùng đất bằng hoang vu hoàn toàn, khiến như nhìn vào quãng không, vì mắt không có gì để bám víu vào được. Trước cổng và giữa hai cây cột la liệt những sọ và bộ xương của biết bao người thuộc nhiều chủng loại khác nhau của vương quốc Tưởng Tượng đã thử đi qua cổng này và bị hóa đá trước tia mắt của đôi nhân sư.
Nhưng Atréju dừng lại không phải vì cảnh tượng ấy. Gã dừng lại vì thấy đôi nhân sư.
Trong cuộc đại tìm kiếm gã đã thấy nhiều thứ, tuyệt đẹp có, khủng khiếp có, song cho đến giờ phút này gã không hề biết có cả hai gộp làm một, rằng vẻ đẹp đồng thời có thể là khủng khiếp được.
Ánh trăng chiếu lênh láng trên hai sinh vật to kềnh càng. Trong lúc gã từ từ lại gần thì chúng như lớn vô tận. Gã thấy như hai cái đầu của chúng cao vọt tới tận mặt trăng và vẻ mặt chúng nhìn nhau như thay đổi theo từng bước Atréju tiến lại gần. Qua hai thân hình vươn cao, nhất là qua hai bộ mặt giống người kia tuôn chảy và lóe lên những dòng sức mạnh vô hình đáng sợ - khác nào đôi nhân sư không chỉ hiện diện ở đây như hai khối cẩm thạch bình thường, mà bất cứ lúc nào chúng cũng sẵn sàng biến mất, đồng thời cũng lại sẵn sàng tự tạo mới từ chính chúng mà ra. Và có lẽ vì thế mà chúng trông thật hơn mọi khối đá bội phần.
Atréju thấy sợ.
Đó không hẳn là nỗi sợ trước mối hiểm nguy đang đe dọa gã mà là một nỗi sợ vượt hẳn chính gã. Gã không hề sợ rằng nếu trúng phải tia mắt của đôi nhân sư thì sẽ mãi mãi bị chôn chân và phải đứng như hóa đá. Không, gã sợ trước cái điều không thể hiểu nổi, trước sự vĩ đại vượt mọi chuẩn mực, trước thực tại của sức mạnh vô biên. Nỗi sợ này khiến chân gã cứ nặng nề thêm cho tới lúc gã cảm thấy như chì xám lạnh.
Tuy nhiên Atréju vẫn tiếp tục đi. Gã không nhìn lên nữa, mà ngó xuống đất, bước rất chậm chạp, bàn chân nối bàn chân, tới cổng đá. Nỗi sợ càng lúc càng như một sức nặng muốn đè gã xuống đất. Gã không rõ đôi nhân sư nhắm hay mở mắt. Gã không được để mất thì giờ. Vào được hay không cũng mặc! Hoặc vào được hoặc đến đây là chấm dứt cuộc đại tìm kiếm của mình.
Rồi chính lúc Atréju nghĩ rằng mọi nghị lực của mình cũng không đủ để cất nổi một bước chân tới trước nữa thì gã nghe tiếng bước chân mình vang bên trong cổng đá. Đồng thời mọi sợ hãi biến sạch, sạch sành sanh, khiến gã cảm thấy từ nay trở đi sẽ không còn bao giờ biết sợ nữa, bất kể điều gì xảy ra.
Atréju ngẩng nhìn, Cổng Vấn nạn lớn đã ở sau lưng gã. Đôi nhân sư đã để gã đi qua.
Trước mặt gã, cách chỉ độ hai mươi bước, nơi mới đây là đất bằng trơ trụi mênh mông giờ là Cổng Gương Thần, to tròn như một mặt trăng thứ hai (vì mặt trăng thật vẫn lung linh trên bầu trời cao) và rực rỡ như bằng bạc bóng lộn. Thật khó tin rằng người ta có thể đi xuyên qua cái mặt phẳng kim loại này, nhưng Atréju không ngần ngại một giây. Atréju dự trù, như ông lùn Engywuck đã tả, sẽ thấy một hình ảnh gây kinh hoàng nào đó của chính gã trong gương, nhưng - vì đã hết sạch sợ hãi - gã thấy chẳng có gì đáng quan tâm.
Nhưng trái lại, thay vì một hình ảnh kinh hoàng Atréju lại thấy một hình ảnh khác mà gã hoàn toàn không ngờ tới và không hiểu nổi: gã thấy một thằng nhỏ mập tròn, mặt mũi xanh xao trạc tuổi mình đang ngồi xếp bằng trên đống nệm, đọc một quyển sách. Nó quấn quanh người những tấm chăn xám rách teng beng. Đôi mắt thằng nhỏ to và đượm buồn.
Atréju thấy trong ánh sáng nhá nhem phía sau nó vài con vật đứng bất động: một con đại bàng, một con cú và một con cáo, xa hơn nữa có vật gì lóng lánh như một bộ xương người, chứ không thật rõ.
Bastian co rúm người lại khi biết mình vừa mới đọc thấy gì. Thằng nhỏ kia chính là nó! Mọi chi tiết đều giống hết. Quyển sách trong hai tay nó run lên bần bật. Thế này thì quá lố! Hoàn toàn không thể nào mà trong một quyển sách lại có những điều đúng y boong như cảnh của chính nó trong giây phút này được! Bất cứ ai khác đọc đến đây thì cũng sẽ thấy y hệt những điều đó thôi. Không thể là gì khác ngoài sự trùng hợp ngẫu nhiên vớ vẩn, tuy hết sức lạ thường.
"Bastian, nó luôn mồm nói to một mình, mày đúng là điên khùng. Bình tĩnh đi chứ!"
Nó cố nói với giọng hết sức nghiêm khắc nhưng tiếng vẫn hơi run, vì nó không thật tin rằng đó chỉ là ngẫu nhiên.
"Thử hình dung mà xem, nó nghĩ, nếu ở vương quốc Tưởng Tượng kia họ thật sự biết gì đó về mày thì tuyệt biết mấy."
Nhưng nó không dám nói to.
Trên môi Atréju chỉ khẽ hé một nụ cười ngạc nhiên khi gã đi vào tấm hình trong gương. Gã hơi lấy làm lạ sao mình thành công dễ dàng thế, trong khi người khác lại không vượt qua nổi. Tuy vậy khi đi qua tấm hình kia gã lại cảm thấy rùng mình như bị kiến bò. Gã không biết chuyện này đã xảy đến với mình:
Số là khi sang được bên kia Cổng Gương Thần thì Atréju quên hết mọi ký ức về mình, về đời mình từ trước đến nay, về mục đích chuyến đi và những ý định của gã. Gã không còn nhớ đến cuộc đại tìm kiếm đã đưa mình tới nơi đây, không còn biết đến cả tên mình nữa. Gã giống như một đứa trẻ mới sinh.
Gã thấy cái Cổng Không Chìa chỉ vài bước ngay trước mặt, nhưng Atréju không còn nhớ cổng này tên gì nữa, cũng quên luôn cả ý định đi qua cổng để đến Đền Tiên tri phía Nam. Gã hoàn toàn không còn biết mình muốn gì, cần gì ở đấy và vì sao đến đây. Gã thấy vui vui nên tự dưng cười, đơn giản thế thôi.
Cái cổng đóng kín trước mặt gã nhỏ và thấp như một cái cửa bình thường, chơ vơ trên vùng đất hoang vu, không có tường bao quanh.
Atréju ngắm nhìn. Cổng như làm bằng một thứ vật liệu óng ánh màu đồng. Trông thì đẹp nhưng sau một lúc Atréju thấy chán. Gã đi vòng quanh cổng rồi đứng ngắm nghía từ mặt sau, nhưng cảnh trí chẳng khác gì mặt trước. Cửa không có nắm đấm, cũng không có lỗ khóa. Xem chừng cánh cửa không phải để mở, vả lại mở làm gì, vì nó không dẫn tới đâu mà chỉ đứng trơ đó thôi. Phía sau cổng chỉ là vùng đất bằng mênh mông hoàn toàn trơ trụi.
Atréju quay lại Cổng Gương Thần, ngắm nhìn một lúc mà chịu không hiểu thế nghĩa là gì, bèn quyết định bỏ đi.
"Đừng, đừng, đừng bỏ đi! Bastian nói to. Quay lại đi, Atréju. Bạn phải đi qua cái cổng Không Chìa!"
Nhưng rồi gã lại quay lại cái Cổng Không Chìa. Gã muốn ngắm nhìn vẻ lấp lánh màu đồng lần nữa. Thế là gã lại đứng trước cửa, thích thú nghiêng sang trái rồi sang phải. Gã dịu dàng vuốt nhẹ lên thứ vật chất lạ lùng kia. Nó ấm và thậm chí sống động nữa. Chợt cánh cửa hé ra một chút.
Atréju thò đầu vào, bấy giờ gã mới thấy cái cảnh phía sau mà lúc nãy, khi đi vòng, gã lại không thấy. Gã lại rút đầu ra, nhìn vòng ra sau cổng: lại vẫn chỉ thấy vùng đất bằng hoang vu. Rồi gã lại nhìn qua khe cửa thấy một hành lang dài với biết bao cây cột trụ to tướng. Kế đó là những bậc thềm, rồi sân với những cột to khác, rồi lại bậc thềm và cả một rừng cột nữa. Nhưng trên các cột trụ không thấy mái, chỉ thấy khung trời đêm.
Atréju bước qua cửa, sửng sốt nhìn quanh. Sau lưng gã cánh cửa kia đóng lại.
Tháp đồng hồ điểm bốn tiếng.
Ánh sáng mờ mờ rọi qua cửa tò vò càng lúc càng ít đi. Tối quá không đọc tiếp được nữa. Bastian đã phải vất vả lắm mới đọc được trang cuối. Nó đặt quyển sách qua một bên.
Nên làm gì bây giờ?
Chắc chắn có đèn điện trong kho này chứ. Bastian lần mò trong bóng tối ra cửa, sờ soạng tìm trên tường. Không thấy nút bấm điện nào. Phía tường bên kia cũng không nốt.
Bastian móc túi quần lấy bao diêm (nó luôn luôn có diêm vì thích nghịch lửa), nhưng diêm bị ẩm nên đến que thứ tư mới cháy. Nó tìm nút bấm điện dưới ánh lửa nhỏ nhoi này nhưng không thấy.
Thật không ngờ! Tưởng tượng sẽ phải ngồi suốt buổi chiều và suốt đêm trong bóng tối om om nó ớn lạnh vì sợ. Nó tuy không còn bé bỏng gì nữa, ở nhà hay một nơi nào đó quen thuộc thì nó chẳng sợ gì bóng tối, nhưng ở đây trong cái kho mênh mông này với bao thứ lạ lùng là chuyện khác hẳn.
Que diêm làm phỏng ngón tay khiến nó vội quẳng đi.
Nó chỉ biết đứng đó nghe ngóng. Mưa đã ngớt, chỉ còn gõ nhè nhẹ trên tấm tôn lớn.
Chợt Bastian nhớ tới giá cắm nến bảy nhánh gỉ sét đã phát hiện trong đống đồ cũ. Nó lần mò tìm rồi lôi lại chỗ đống nệm.
Nó châm luôn cả bảy mẩu nến, tức thì một ánh sáng vàng tỏa ra. Những ngọn lửa khẽ kêu lách tách và rung nhẹ trong làn gió lùa.