Học viện Bloor bàng hoàng. Chắc chắn đã có chuyện xảy ra với Tancred Torsson. Nhưng rất ít người biết chính xác đó là chuyện gì. Đám trẻ hậu duệ của Vua Đỏ biết nhưng chúng không tiết lộ.
Có một trận bão. Phòng Điêu khắc bị ngập lụt, trường mất điện tối thui hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Những tấm biển treo trên các phòng để áo khoác bị cháy sém, mùi khét lẹt vương vãi khắp tiền sảnh.
Những lời đồn đại ùn ứ lên đến mức bội thực. Có đứa nói Tancred đã bị chết đuối. Bọn trẻ đều tránh xa Dagbert Endless. Giáo viên vẫn thực hiện bổn phận của mình, nhưng hầu hết bị phân tâm. Thầy thì quên bài giảng, cô thì quên sách và thỉnh thoảng còn có giáo viên vô lộn lớp.
Lysander Sage lâm vào nguy cơ nổ tung thành bạo lực. Tâm trí anh hỗn loạn, đầy ắp những ý nghĩ trả thù cho người bạn vừa mới vong mạng của mình. Xúc cảm như vậy chỉ chực triệu tập những tổ tiên tâm linh của anh, thành thử Lysander đi tới đâu tiếng trống đi theo anh tới đó. Giáo sư Bloor biết rằng tốt hơn đừng đả động tới anh người châu Phi này bởi vì điều đó chỉ tổ làm cho tình hình xấu đi mà thôi.
Chỉ có mụ Tilpin, trong những căn phòng tầng hầm lụt lội của mụ, là đe dọa “sẽ làm gì đó” với Lysander Sage. Dưới chân thì nước lấp xấp và trên đầu thì tiếng trống rậm rịch, mụ kêu rên với Manfred rằng mụ sắp phát điên lên rồi. “Khi đó thì anh định liệu thế nào?” mụ gục gặc.
Manfred bảo mụ cứ chịu khó chờ thời cơ.
Giáo sư Salweather càng ngày càng dành nhiều thời gian tới căn-tin xanh da trời. Thầy thường xuyên bị bắt gặp đi cùng bà bếp trưởng. Trông cung cách thì xem ra họ đang bàn luận với nhau về điều gì đó đến bơ phờ cả người.
Hai ngày sau trận bão sấm, Gabriel và Fidelio đến căn-tin xanh da trời sớm năm phút. Đúng như chúng hy vọng, bà bếp trưởng và giáo sư Saltweather đang ngồi bên một cái bàn ở góc phòng. Họ mải mê chuyện trò và không nhận ra hai thằng bé đi vô căn-tin. Bà bếp trưởng quay lưng về phía bọn chúng. Fidelio khẽ ho lên một tiếng khi cậu tiến đến cái bàn trong góc. Cậu không muốn làm bà bếp trưởng giật mình hoảng sợ.
Giáo sư Saltweather ngước lên và nói “Các trò muốn gì thế? Các trò sớm năm phút.”
“Chúng con muốn hỏi thầy một chút ạ,” Gabriel nhìn ngoái qua vai để bảo đảm không ai đi theo chúng.
Bà bếp trưởng vội xoay mặt lại rồi mỉm cười thở phào. “Ta mừng thì ra là hai con.”
“Tụi con biết chuyện xảy ra với Tancred rồi,” Fidelio nghiêm trang. “Emma đã kể cho tụi con nghe. Điều đó tồi tệ đủ để...”
“Đó là điều tồi tệ nhất từng xảy ra.” Gabriel gạt lọn tóc rủ xuống cho nó khỏi che mắt. “Và con vẫn không thể nào tin nổi. Vô số tin đồn tràn lan. Nhưng điều tụi con không thể nghĩ ra được là...”
“Đã có chuyện gì xảy ra với Charlie ạ, thưa thầy?” Fidelio hấp tấp nói. “Thứ Hai nó đã ở đây, sau đó nó bị đưa lên gặp hiệu trưởng rồi kể từ đó tụi con không còn gặp nó nữa.”
“Cậu ta bị đuổi học rồi,” giáo sư Saltweather nở một nụ cười gượng. “Vì tội đã làm hỏng một bức tranh quý. Nhưng cậu ta sẽ đi học lại vào tuần tới.”
“Đừng lo các con. Dagbert chưa làm hại gì nó đâu.” Bà bếp trưởng bất thần chộp lấy cánh tay Gabriel. “Có lẽ ta phải hỏi con điều này. Con có biết chuyện gì xảy ra với Billy Raven bé bỏng của ta không?”
Gabriel nhìn Fidelio rồi mới nói. “Dạ biết. Emma cũng đã nói với tụi con. Charlie nghĩ Billy đang ở xứ Badlock.”
“Cái gì?” bà bếp trưởng đứng bật dậy và nhìn xoáy vô Gabriel. “Không thể là thật được. Billy đâu phải là người chu du vô tranh. Với lại làm sao Charlie biết là như vậy?”
“Có một bức tranh ở trong tầng hầm nhà Charlie,” Gabriel giải thích cho bà. “Bà cô của nó đã để bức tranh vô đấy. Đó là bức tranh xứ Badlock, Charlie nói, cái bóng sống ở đó. Billy đã đi xuống tầng hầm... và không bao giờ Tancredở lên.”
Bà bếp trưởng và giáo sư Saltweather lộ vẻ choáng váng, Fidelio vội thêm, “Giáo sư Bloor bảo rằng Billy đã trở lại đây, nhưng tụi con chưa nhìn thấy nó.”
“Ta cũng chưa thấy.” Bà bếp trưởng bị hụt hơi đến nỗi gần như không ai nghe được tiếng bà nói gì. “Ta cũng không thấy.”
“Chúng ta sẽ làm gì ạ, thưa thầy?” Gabriel hỏi giáo sư Saltweather.
Ông thầy dạy nhạc đứng lên, nói, “Hãy luôn thông báo đầy đủ tin tức cho ta. Đó là tất cả những gì ta yêu cầu. Hãy cho ta biết tất cả những gì mà các trò nghĩ rằng ta nên biết, và ta sẽ làm hết sức mình để tìm hiểu xem chúng ta đang lầm vào hoàn cảnh như thế nào.”
Giáo sư Saltweather đi như duyệt binh ra khỏi căn-tin, đúng vừa lúc đám đông học trò khoa Nhạc ùa vô. Chúng bắt đầu xếp hàng bên cạnh quầy và bà bếp trưởng quẩy quả đi vô bếp.
Fidelio và Gabriel ra nối vào cuối hàng. Hai thằng chẳng đứa nào muốn đứng ngay sau Dagbert Endless. Fidelio lùi dần cho tới khi nó tạo ra một khoảng trống cách Dagbert gần chục bước.
“Gì vậy?” Dagbert quay lại và thảy cho Fidelio một trong những tia nhìn lạnh băng của nó. “Tao đã làm gì?”
“Mày tự biết,”Fidelio hiên ngang thu ngắn khoảng cách lại.
Dagbert nhún vai và nhích lên.
Không đứa nào muốn ngồi ăn chung với Dagbert. Nhưng thằng này cũng không màng. Nó mang đĩa mì ống ra góc xa và cắm cúi xúc ăn. Từ đầu tới cuối bữa nó không ngẩng lên lần nào. Mới ăn xong món đầu tiên nó đã hộc tốc ra khỏi căn-tin, mặc dù vẫn còn món bánh pudding tẩm mật. Dagbert đã bị thầy Giám sát Tài phép triệu hồi. Nhưng nó không muốn ai biết điều đó. Dù biết mình sẽ bị trễ, nhưng nó chả thấy lý do gì mà phải đi ngay khi chưa có chút mì ống bỏ bụng để duy trì sức lực.
Manfred ở trong thư phòng của hắn, đang ăn, khi Dagbert gõ cửa.
“Mày đến trễ,” Manfred buộc tội. “Vô đi, Dagbert.”
“Ta bảo mi đến trước bữa trưa mà,” Manfred nói, không ngó lên khỏi cái đĩa đồ ăn.
“Đáng ra tôi đã lỡ món mì ống.” Dagbert ngó miếng bánh pudding trên đĩa của Manfred. “Dù sao tôi cũng đi mà không kịp ăn bánh pudding.”
“Đừng nghĩ mày có thể ăn bánh của ta.” Manfred ném cho Dagbert một cái nhìn độc địa. “Đi mà không ăn trưa là một phần hình phạt dành cho mày.”
“Hình phạt?” Dagbert coi bộ bị xúc phạm tột cùng. “Tôi đã làm gì?”
“Mày ngu như bò.” Manfred đút miếng bánh cuối cùng vô miệng và chiêu bằng một ly nước.
Dagbert chờ, trong lòng bốc khói, nhưng không đủ tự tin để bộc lộ ra.
“Trận lụt,” Manfred cuối cùng nói. “Mày không nên đi quá xa như vậy. Fairy Tilpin rất giận dữ. Nước ngầm khắp phòng của bà ta. Giờ thì bà ta đòi chỗ ở.”
Đôi mắt băng giá của Dagbert đảo khắp phòng của Manfred. “Đây là một tòa nhà lớn. Tôi chắc chắn ngài có thể xếp cho bà ta một phòng ở chái phía Tây.”
“Không đủ phòng tắm. Ta và cha ta không thích chung đụng.”
“Bà ta chỉ cần một bồn tắm và một...”
“Dẹp lải nhải về phòng tắm đi.” Manfred dộng mạnh nắm đấm xuống bàn. “Tao thất vọng về mày, Dagbert. Tao tưởng mày hiểu biết chứ. Tao e là mày sẽ bị cấm túc. Ông hiệu trưởng đã ra lệnh như vậy rồi. Không được về nhà vào thứ Bảy.”
Dagbert mỉm cười. Nó đã chán ngấy cái ngôi nhà tạm của nó ở tiệm cá, nơi một bà vú già nấu cho nó những món nhạt toẹt, giặt đồ cho nó, ngáy ầm ĩ trên giường và không bao giờ nói chuyện với nó.
“Thôi đi, không được cười,” Manfred gắt. “Mày đã dìm chết người. Đáng ra mày không được làm thế. Mày chỉ được trông chờ là hù dọa cho chúng sợ thôi. Cái quỷ gì ám mày hả?”
Dagbert cụp ánh mắt cho nó tượt xuống chân mình. Dù không sợ Manfred, nhưng nó biết thầy Giám sát Tài phép vẫn có thể thôi miên nó nếu hắn muốn. “Tôi không thể kìm được. Tôi nghĩ tôi đang cố chứng minh tôi mạnh hơn cha tôi.”
“Hừ, lời nguyền gia đình,” Manfred hướng mày lên. “Thế mày cũng tin à?”
Dagbert dời đổi chân. “Tôi phải tin. Nó đã được ghi trong kỷ yếu phương Bắc, mà họ thì không bao giờ nói dối. Khi con trai đầu lòng của Chúa tể Grimwald được mười ba tuổi, nó sẽ đạt tới sức mạnh đầy đủ và khi ấy thì nó hoặc cha nó sẽ phải chết. Trong tám trăm năm lời tiên tri đó đã không bao giờ sai. Mẹ tôi đã cho tôi những linh vật biển để giúp tôi vượt qua được cha tôi.” Dagbert ngẩng đầu lên và mắt nó nhóe tia cuồng nộ.
“Nhưng Tancred Torsson đã chọc tức tôi, nó quấy rầy tôi, đã ăn cắp một linh vật biển của tôi. Nó.. nó... phải bị tiêu diệt.”
Thầy Giám sát Tài phép lắng nghe Dagbert và nở ra một nụ cười làm ẻo lả những đường nét trên gương mặt cằn cỗi của hắn. “Mày không nên làm thế. Mày sẽ phải sửa chữa thiệt hại cho Fairy Tilpin.”
Dagbert nhún vai. “Tôi sẽ lau dọn phòng cho bà ta; dọn đồ của bà ta lên lầu nếu ngài muốn.”
“Hay đấy. Ta khẳng định bọn ta sẽ tìm ra một chỗ trên gác mái. Xem ra mụ này thích bóng tối.” Manfred lại mỉm cười, lần này với chính mình. “Mày đi được rồi.” Hắn phẩy tay.
“Cảm ơn, ngài.” Dagbert bước ra cửa thì quay lại Manfred, nói thêm. “Tôi luôn cố làm những gì ngài muốn... luôn luôn.”
“Tao biết. Sẽ chẳng bao lâu nữa đâu mày sẽ được viện tới để thực thi nhiệm vụ khó khăn nhất cuộc đời mày. Cho tới lúc đó, mày phải để mắt trông chừng Charlie Bone.”
“Thằng chu du vô tranh?” Dagbert xì ra vẻ khinh bỉ. “Nó thì làm được gì?”
“Đừng đánh giá thấp nó.” Một vẻ căm hờn xoẹt qua mặt Manfred. “Có máu của thầy pháp xứ Wales chạy trong huyết quản của Charlie Bone. Và có gì đó mách bảo tao rằng nó đã phục hồi lại được đũa phép của nó rồi.”
Charlie bị cầm tù trong nhà gần một tuần. Nó ao ước được nói chuyện với bạn bè và lo phập phồng cho đống bài vở bị mất ở trường. Làm sao nó theo kịp học trình khi trở lại học viện Bloor? Thể nào nó cũng phải học đêm học ngày cho coi nếu không muốn bị cấm túc.
Vào sáng thứ Sáu, nội Bone bưng một chồng sách vô phòng Charlie. Đính kèm từng quyển sách là những lời dặn dò dài lê thê của các giáo viên từng môn.
“Mày phải làm xong tất cả trước thứ Hai,” mụ nói, thả ình chồng sách xuống bàn Charlie.
Charlie nhìn những mẩu thư nhắn đó mà thở dài. Đủ cả, từ thầy Carp dạy tiếng Anh tới thầy Pope dạy lịch sử; từ cô Tessier dạy tiếng Pháp đến cô Fortescue dạy sinh vật. “Cái này nhiền hơn con thường hay làm trong một tuần nhiều. Sao con làm cho hết nổi!”
“Phải hết,” nội Bone thẳng thừng và dậm bước đi ra.
Charlie ngồi xuống bàn và bắt đầu bằng môn lịch sử. Có biết bao ngày tháng phải ghi nhớ. Nó cần sự trợ giúp thôi.
“Claerwen!” Charlie khẽ gọi.
Con bướm trắng bay xuống khỏi màn gió và đậu trên cổ tay Charlie.
“Helpu fi,” Charlie nói, dùng tiếng xứ Wales mà con bướm trắng thích hơn. “Giúp tớ với.”
Claerwen bò nhẹ từ cánh tay Charlie lên đậu trên vai nó, ngay phía dưới tai phải. Charlie đọc những ngày tháng năm một lần, hai lần, ba lần, rồi nhắm mắt lại, và để cho sự hiện diện dịu dàng của Claerwen thấm vô óc. Mở mắt ra, nó lấy tay che tập lại chỉ chừa còn mỗi câu hỏi. Nó thấy mình nhớ rõ từng mốc ngày tháng lịch sử.
“Cảm ơn, Claerwen.” Charlie đóng tập lại, mỉm cười. Không phải đây là lần đầu tiên nó thắc mắc về tổ tiên người xứ Wales của nó, thầy pháp đã làm nên cây đũa phép bằng gỗ tần bì, một cây đũa phép khôn ngoan đến mức có thể biến đổi hình thể và sống sót qua mọi ác tâm muốn hủy hoại nó.
Cánh cửa trước đóng sầm lại và Charlie ngó ra cửa sổ. Nội Bone đang bước hùng hổ trên đường Filbert. Mụ đội cái mũ đi mua hàng và kéo cái giỏ đen to có bánh xe.
“Tớ nghĩ đã đến lúc hai tụi mình đi tìm Billy,” Charlie nói với con bướm trắng.
Ngoại Maisie ở trong bếp với cái tivi vặn âm lượng hết cỡ. Thật khó mà thuyết phục được bà cho phép nó thử giải cứu Billy, dù chỉ một lần nữa. Dù sao Charlie cũng phải làm bà phân tâm để còn lấy chìa khóa tầng hầm. Nhưng rồi tim nó chìm nghỉm khi nhớ ra nội Bone đã cất chìa khóa đi rồi. Nó vừa định mở cửa nhà bếp thì Claerwen bất giác rời khỏi cánh tay nó và bay xuôi hành lang về phía tầng hầm.
“Gì đó?” Charlie đi theo con bướm trắng.
Tần hầm xem ra đang mở, he hé. Có lẽ đó là một lời mời mọc cho Charlie đi vô bức tranh một lần nữa để rồi sẽ bị kẹt ở đó mãi mãi. Hoặc nội Bone biết cái bóng sẽ khóa chặt mọi cố gắng nào muốn tìm kiếm Billy, thành ra việc khóa tầng hầm là một sự cẩn thận không cần thiết?
Charlie đứng ở đầu cầu thang tầng hầm, phân vân. Nó đi xuống một bậc, hai bậc, rồi ba bậc và ngó xuống không gian tối om của căn phòng sặc mùi mốc. Hình như có gì đó đã thay đổi. Nó đi xuống thêm ba bậc nữa cho tới khi thấy rõ toàn bộ tầng hầm.
Bức tranh đã mất tiêu.
“Không!” Charlie chạy lên cầu thang và chạy dọc theo hành lang, kêu thất thanh. “Ngoại Maisie, nó đi rồi. Nó đã đi đau vậy, ngoại?”
Charlie đâm bổ vô nhà bếp, nơi ngoại Maisie đang ngồi trong cái ghế bành yêu thích, đắm mình vào một bộ phim sướt mướt.
“Cái gì đi?” bà lầm bầm, vội lau nước mắt do coi phim.
“Bức tranh!” Charlie hét. “Bức tranh trong tầng hầm í! Nó đâu rồi, ngoại Maisie?”
“Làm sao bà biết?” bà nói, vẫn dán mắt vô màn hình.
“Nhưng con không thể vô được xứ Badlock!” Charlie thét.
“Theo ý bà thì,” ngoại Maisie thở dài, “như thế là tốt nhất.”