Con tàu “Bí mật” của Gray rẽ sóng; bọt tung lên vạch trên đại dương một vệt trắng và tắt dần trong ánh lửa đêm lấp loáng của thị trấn Lis. Tàu thả neo cách ngọn đèn biển không xa. Mười ngày liền người ta dỡ vải đũi, cà phê, chè từ tàu “Bí mật” xuống bến. Ngày thứ mười một, các thủy thủ lên bờ nghỉ ngơi, vui chơi. Đến ngày thứ mười hai Gray hết sức buồn rầu mà không có lý do nào, anh không hiểu tâm trạng của mình.
Ngay buổi sáng sau khi thức dậy, Gray cảm thấy rằng ngày hôm nay sẽ bắt đầu dưới những đám mây đen. Anh uể oải mặc quần áo, miễn cưỡng ăn sáng, quên cả đọc báo, rồi lấy thuốc ra hút liên miên, đắm mình trong cái thế giới căng thẳng không mục đích khó tả. Những ước muốn chưa được chấp nhận lởn vởn giữa những ý định vừa nảy sinh một cách mơ hồ, rồi gạt bỏ lẫn nhau bằng những cố gắng ngang nhau. Anh quyết định làm việc.
Cùng với một thủy thủ trưởng, Gray đi kiểm tra tàu, cho buộc căng dây buồm, nới cáp lái, cọ sạch lỗ dẫn cáp, thay buồm, quét nhựa boong tàu, thông gió hầm tàu, lau la bàn. Nhưng công việc không làm cho Gray khuây khỏa. Cả ngày hôm đó Gray cảm thấy bồn chồn, lo âu pha lẫn nỗi bực bội dường như có ai đã hẹn anh đi đâu đấy nhưng anh lại quên khuấy mất ai hẹn và hẹn đi đâu.
Buổi tối, anh ngồi trong buồng tàu, lấy sách ra đọc, ghi bên lề sách những ý kiến phản bác lại tác giả. Trò tiêu khiển bằng cách nói chuyện với người chết có quyền lực ở dưới nám mồ chỉ làm anh thú vị được một lúc. Sau đó anh lại lấy tẩu thuốc ra, thả mình theo làn khói xanh, trầm ngâm giữa những đường viền huyền ảo hiện ra trong lớp khói bồng bềnh.
Thuốc lá có sức mạnh ghê gớm, như dầu đổ xuống những con sóng đang vọt lên, làm dịu đi cơn điên loạn của chúng. Thuốc lá giảm bớt sự kích động của tình cảm, đưa chúng về với nhịp điệu tháp hơn, để chúng vang lên nhịp nhàng hơn và có nhạc điệu hơn. Vì vậy, sau khi hút ba tẩu thuốc, nỗi buồn của Gray chuyển thành sự lơ đãng trầm tư. Cảm giác ấy kéo dài chừng một giờ đồng hồ. Khi những phút mơ màng đã qua đi, thuyền trưởng chợt bừng tỉnh, anh muốn đi đi lại lại và bước ra boong tàu. Đêm đã xuống từ bên kia mạn tàu, trong làn nước đen thẫm lấp lánh những vì sao và những ánh đèn trên cột buồm. Bầu không khí ám áp đậm đà hương biển. Gray ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn một vì sao. Trong giây lát, vượt qua triệu triệu cây số, ánh sáng vì sao xa hiện ra trong ánh mắt anh. Tiếng ồn ào xa xa của bến cảng ban đêm đã vang lên rõ nét trong vụng biển. Thỉnh thoảng có câu nói từ trên bờ lướt theo gió, truyền lan trên làn nước nhạy cảm, vọng đến tưởng như tiếng người nói ở ngay trên boong; nó vang lên rồi tắt đi trong tiếng kẽo kẹt của dây chão. Phía mũi tàu có ánh diêm bật lên, soi rõ bàn tay, đôi mắt tròn và bộ ria mép. Gray huýt sáo; đốm lửa bật ở tẩu thuốc chuyển động, tiến lại gần anh. Một lát sau thuyền trưởng nhận ra trong bóng tối gương mặt và đôi tay người trực nhật. Gray nói:
- Anh nhắn Lechica lát nữa đi theo tôi. Bảo anh ta nhớ đem theo cần câu.
Anh trèo xuống chiếc thuyền nhỏ bên mạn tàu, ngồi chờ ở đấy chừng mười phút. Lechica, một chàng trai nhanh nhẹn, ranh mãnh, đưa xuống cho Gray đôi mái chèo. Sau đó anh ta cũng xuống thuyền, đặt túi đựng thức ăn lên sàn. Gray ngồi vào chỗ lái.
- Thuyền trưởng ra lệnh đi đâu đây ạ? - Lechica vừa hỏi vừa đảo mũi thuyền bằng cách khỏa mạnh một bên mái chèo xuống nước.
Thuyền trưởng im lặng. Lechica hiểu ngay rằng không nên hỏi thêm câu gì, anh im lặng chèo mạnh.
Gray lái thuyền ra khơi, sau đó anh bơi về phía bên trái. Đối với anh, thuyền đi về phía nào cũng được.
Chỉ có tiếng mái chèo khỏa xuống nước, tiếng bánh lái rẽ nước, còn xung quanh là biển đêm yên lặng.
Trong một ngày trời, con người đã gặp biết bao án tượng, biết bao ý nghĩ, lời nói, mà nếu ghi lại chắc sẽ thành không phải chỉ một cuốn sách dày. Gương mặt mỗi ngày có những đường nét nhất định. Nhưng hôm nay Gray đã bất lực khi cố bắt lấy dáng hình của nó. Những tình cảm mơ hồ khó có tên gọi hiện lên trên gương mặt ấy. Dù có gọi chúng bằng từ ngữ gì thì cuối cùng chúng vẫn mơ hồ, mông lung như hương thơm của loài hoa. Lúc này, Gray cũng đang ở trong tâm trạng đó; thực ra anh có thể nói rằng: “Tôi đang chờ, tôi đang thấy và sắp được biết...” - nhưng ngay cả những lời này cũng chẳng nhiều nhặn gì hơn những bản vẽ chi tiết đối với một ý đồ kiến trúc. Trong những xu hướng đó còn có cả sức mạnh của sự hưng phán tươi tắn.
Phía bên trái con thuyền họ đang bơi, bờ biển hiện ra thấp thoáng sau màn đêm gợn sóng. Phía trên những tấm kính cửa sổ sáng đèn, các tàn lửa bắn lên từ các ống khói. Đó là làng Caperna. Gray nghe loáng thoáng có tiếng người cãi vã nhau và tiếng chó sủa. Ánh lửa trong làng trông xa tựa như cánh cửa lò với những lỗ thủng mà qua đó có thể thấy than đang cháy hồng. Phía bên phải là biển yên lặng như một người đang ngủ. Qua làng Caperna, Gray cho thuyền ghé vào bờ. Sóng đều đều vỗ nhẹ vào bờ. Châm đèn bão lên, Gray nhìn thấy một chỗ trũng, bên trên là bờ vách nhô ra cheo leo. Anh cảm thấy thích.
- Ta sẽ câu cá ở đây thôi. - Gray vừa nói vừa vỗ vai Lechica.
Người thủy thủ “hừm” một tiếng rồi làu bàu: “Lần đầu tiên mình đi biển với một thuyền trưởng như thế này. Ông ta thạo việc, nhưng kỳ cục làm sao. Thật là một thuyền trưởng quá cầu toàn. Nhưng mình vẫn yêu mến ông ta”.
Anh ta cắm mái chèo xuống bùn để neo thuyền lại, rồi cả hai người bám vào những mỏm đá lởm chởm phía dưới đầu gối và khuỷu tay để trèo lên cao. Một cánh rừng rậm trải dài tới bờ vách ấy. Lechica lấy rìu đẵn mấy cành cây khô rồi nhóm lửa trên bờ. Những cái bóng và ngọn lửa phản chiếu dưới nước chuyển động. Cỏ xanh và cành lá sáng lên trong bóng tối bị đẩy lùi. Phía trên đống lửa, không khí quện khói láp loáng, run rẩy. Gray ngồi bên đống lửa.
- Nào, - anh vừa nói vừa chìa chai rượu ra, - nào ta uống đi, anh bạn Lechica, uống vì sức khỏe của tất cả những người không nghiện rượu. À, mà cậu đem đi rượu gừng, chứ không phải là rượu canhkina rồi.
- Xin lỗi thuyền trưởng, - người thủy thủ vừa đáp vừa thở mạnh, - cho phép tôi nhắm với thứ thức ăn này... - anh ta gặm ngay nửa con gà con, rồi nhè miếng cánh ra, nói tiếp. - Tôi biết thuyền trưởng thích rượu canhkina, nhưng vì lúc ấy tối quá mà lại vội nữa nên tôi lấy nhầm phải chai rượu gừng. Thuyền trưởng biết đấy, gừng làm con người ta ngổ ngáo. Khi nào cần phải đánh nhau, tôi đều uống rượu gừng.
- Thưa thuyền trưởng, có thật là thuyền trưởng xuất thân từ một gia đình quyền quý không?
- Cái đấy chẳng có gì đáng lưu tâm cả, Lechica ạ. Cầm cần câu mà câu đi, nếu cậu muốn.
- Còn thuyền trưởng thì sao?
- Tôi ấy à? Không biết. Cũng có thể. Nhưng mà... chốc nữa sẽ hay.
Lechica lấy cần câu ra, rồi theo thói quen, ứng khẩu một tràng thành vần (điều thường vẫn làm bạn bè thán phục):
- Cước đây ta buộc vào cần, lưỡi câu buộc tiếp lần lần ta câu. - Anh ta lấy mồi giun trong hộp ra rồi đọc tiếp. - Chú mày ẩn dưới đất sâu, cuộc đời kỳ thú còn rầu nỗi chi. Bây giờ chịu móc câu đi, chốc nữa tụi cá nó ghì nó ăn. - Cuối cùng anh ta vừa đi vừa nghêu ngao. - Đêm đen vắng lặng, rượu ngon tuyệt vời. Cá chiên cuống cuồng, cá trích chết giấc - kìa Lechica, hắn đang đợi ta!
Gray nằm lại bên đống lửa, nhìn ánh lửa in hình dưới làn nước. Anh miên man nghĩ ngợi, không để lý trí can dự vào. Trong trạng thái này, ý nghĩ chỉ lờ mờ lưu giữ thực tại, thấy nó một cách mơ hồ. Ý nghĩ đó lao vút lên như một con ngựa trong đám đông chật chội, vừa chèn, vừa xô, vừa ngăn chặn. Sự trống rỗng, sự bối rối và sự ngưng đọng lần lượt đến với nó. Nó lang thang trong linh hồn của sự vật, vội vàng chuyển từ xúc động mạnh sang bóng gió thầm kín; nó lượn quanh trái đất và bầu trời, chuyện trò sôi nổi với các nhân vật tưởng tượng, xóa đi và tô điểm cho những kỷ niệm. Trong sự chuyển động mơ hồ này, mọi cái đều sinh động, rõ ràng, và mọi cái đều thiếu mạch lạc như hoang tưởng. Và nhận thức được buông lơi luôn mỉm cười khi thấy, chẳng hạn ta đang suy nghĩ về số phận bỗng dưng lại nghĩ đến một hình ảnh hoàn toàn không thích hợp: một cành cây gãy cách đây hai năm. Nằm bên đống lửa, Gray suy nghĩ, nhưng anh “ở đâu ấy” chứ không phải đang ở đây.
Khuỷu tay dùng để tựa, cánh tay dùng để nâng đầu đã bị ướt và tê đi. Các vì sao tỏa sáng nhợt nhạt. Bóng tối thêm dày, báo trước buổi rạng đông. Thuyền trưởng thiu thiu ngủ, nhưng anh không hề biết điều đó. Anh bỗng thấy thèm uống rượu, anh nhoài người với chiếc túi, lần cởi ra trong mơ. Sau đó anh không nằm mơ nữa mà ngủ rất say. Hai giờ sau đó đối với Gray cũng chẳng dài hơn những giây phút anh ngả đầu xuống bàn tay. Trong khoảng thời gian đó, hai lần Lechica quay về chỗ đống lửa, hút thuốc và tò mò nhìn vào miệng những con cá câu được xem có gì không. Nhưng dĩ nhiên là chẳng có gì.
Khi tỉnh dậy, trong giây lát Gray quên mất không biết vì sao mình lại ở chốn này. Anh ngạc nhiên thấy những tia nắng sớm mai vui tươi, bờ biển dựng đứng và những tán lá rực rỡ, xa xa bừng sáng một màu xanh. Trên đường chân trời và cũng là phía trên chân anh lơ lửng những cành dẻ. Phía dưới bờ vách, dường như ở ngay dưới lưng anh, là tiếng sóng vỗ rì rầm. Những giọt sương thấp thoáng trên cành lá rơi xuống khuôn mặt ngái ngủ của anh, mát lạnh. Anh đứng dậy. Xung quanh chan hòa ánh sáng. Những cành khô cháy dở chỉ còn leo lét khói. Mùi khói làm cho khoái cảm được thở hít không khí của rừng cây có thêm một vẻ đẹp hoang dã.
Lechica không có đấy. Anh ta đã đi câu say sưa như một con bạc khát nước, mồ hôi đầm đìa. Gray bước ra khỏi cánh rừng, đi về phía những bụi cây thấp mọc trên sườn đồi thoai thoải, cỏ bốc hơi âm ám. Những bông hoa ướt đẫm trông như bọn trẻ con bị tắm nước lạnh. Thế giới màu xanh thở hít bằng vô vàn cái miệng nhỏ xíu làm vướng chân Gray trong cảnh đua chen náo nức. Thuyền trưởng bước ra một chỗ trống, cỏ hoa sặc sỡ, và nhìn thấy một cô gái đang ngủ.
Anh nhẹ nhàng gạt cành lá trước mặt sang một bên rồi dừng lại với cảm giác là vừa tìm ra một cái gì đó nguy hại. Cách anh chưa đầy năm bước là Axon đang nằm nghiêng, chân duỗi, chân co, đầu gối lên cánh tay, vẻ mệt mỏi. Tóc cô để xõa, chiếc cúc áo phía trên không cài để lộ làn da trắng mịn, chiếc váy xòe ra để hở đến đầu gối. Hàng mi dài, món tóc màu sẫm che một phần thái dương; ngón út bên tay phải cô gối đầu lên, bị gập lại dưới gáy. Gray quỳ xuống ngắm nhìn cô gái, và không ngờ rằng lúc ấy trông chàng giống như thần Faunus[10] trong tranh của Arnold Bucklin[11].
[10] Faunus: Vị thần trông coi đồng ruộng, rừng cây theo thần thoại La Mã.
[11] Arnold Bucklin (1827 – 1901): họa sĩ Thụy Sỹ.
Có thể là trong một lúc nào khác, Gray chỉ nhìn thấy cô gái bằng đôi mắt thường, nhưng lúc này anh nhìn thấy cô một cách khác. Lòng anh nôn nao, xao động. Đương nhiên anh không hề biết cô là ai, không biết tên, càng không biết vì sao cô ngủ bên bờ biển, nhưng anh cảm thấy rất hài lòng. Anh yêu thích những bức tranh không có lời giải thích nội dung, ấn tượng từ bức tranh như thế bao giờ cũng mạnh mẽ hơn nhiều, không bị ràng buộc bởi từ ngữ. Nội dung của nó trở nên sâu xa vô tận, khẳng định mọi ý nghĩ, mọi dự đoán.
Mặt trời đã lên cao mà Gray vẫn trong tư thế ngồi không thuận ấy. Cô gái ngủ say đến mức dường như từ mái tóc đến làn áo, đến cây cỏ xung quanh cũng đều ngủ theo cô. Tràn trề ấn tượng, Gray như hòa mình vào làn sóng ấm áp đang dâng lên trong anh và bơi theo sóng. Đã từ lâu Lechica gọi: “Thuyền trưởng ơi, anh ở đâu?” - nhưng thuyền trưởng vẫn không nghe tiếng.
Cuối cùng, khi Gray đứng dậy, bản tính ưa thích những chuyện khác thường đã xâm chiếm anh một cách bất ngờ với thái độ cương quyết và hăng hái của một người phụ nữ nổi giận. Anh trầm ngâm tháo chiếc nhẫn cổ quý giá khỏi ngón tay, không hề suy nghĩ rằng chưa chừng cái vật này đang mách bảo cho cuộc sống một cái gì đó thực quan trọng. Anh nhẹ nhàng lồng chiếc nhẫn vào ngón tay út của cô gái để lộ ra bên gáy. Ngón tay bất giác động đậy rồi thõng xuống. Nhìn gương mặt cô lần nữa, Gray quay đi và bỗng thấy Lechica đứng sau bụi cây, đôi lông mày nhướng lên. Lechica há hốc miệng kinh ngạc theo dõi cử chỉ vừa rồi của Gray.
- Lechica đấy à! - Gray nói. - Cậu thử nhìn cô ta xem. Thế nào, đẹp đấy chứ?
- Thật là một bức tranh tuyệt vời! - Chàng thủy thủ thích nói văn hoa khẽ thốt lên. - Tôi câu được con cá và một con gì to tròn như cái bong bóng.
- Khẽ chứ, Lechica. Ta đi khỏi đây thôi.
Hai người đi về phía bụi cây. Lẽ ra lúc này họ phải quay về chỗ để thuyền, nhưng Gray chần chừ đưa mắt xa xa về phía bờ biển thấp, nơi có những làn khói ban mai của làng Caperna tỏa ra bên trên cây cối và nền cát. Anh lại thấy hình ảnh cô gái hiện ra qua làn khói. Lúc ấy, Gray bèn đi thẳng về hướng làng. Lechica không hỏi vì sao lại thế, chỉ lặng lẽ bước theo sau. Lechica cảm thấy rằng những phút phải im lặng lại đến. Một lát sau, khi đến gần những ngôi nhà đầu tiên, Gray bỗng cất tiếng hỏi:
- Lechica, với kinh nghiệm của cậu, cậu thử xác định xem nhà nào có thể là quán rượu?
- Chắc là cái nhà mái đen kia, - Lechica phỏng đoán, - mà cũng có thể không phải nó.
- Thế cái nhà mái đen ấy có gì đặc biệt?
- Chính tôi cũng không biết, thưa thuyền trưởng. Đó chỉ là do trái tim mách bảo thôi.
Hai người đi đến ngôi nhà đó; quả thật, đó là quán rượu của Khin Menec. Trên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ mở toang có thể nhìn thấy một chiếc chai; cạnh đó có một người đang đưa những ngón tay đen bẩn mân mê bộ ria mép ngả màu bạc trắng. Mặc dù còn sớm, trong quán rượu đã có ba người. Ngồi cạnh cửa sổ là bác thợ đốt than có bộ ria vừa được nhắc đến. Ở quãng giữa quầy hàng và cửa bên trong quán là hai người dân chài đang uống bia và ăn trứng rán. Khin Menec là một gã trẻ tuổi cao lêu đêu, gương mặt buồn tẻ đầy tàn hương, đôi mắt hấp háy, cử chỉ nhanh nhẹn một cách ranh mãnh như vẫn thường thấy ở bọn người chuyên buôn bán. Y đang đứng sau quầy lau bát đĩa. Dưới ánh mặt trời buổi sáng, bóng song cửa sổ in trên nền nhà bẩn thỉu. Gray vừa bước vào gian phòng đầy khói thì Khin Menec đã lễ phép cúi chào rồi bước ra khỏi quầy. Y lập tức đoán ra Gray là một thuyền trưởng thật sự - loại khách chẳng mấy khi ghé vào quán rượu của y. Gray gọi rượu rum. Trải trên bàn tấm khăn đã ngả màu cháo lòng, Khin Menec đem chai rượu đến, đưa lưỡi liếm thử vào chỗ nhãn chai và bóc ra. Sau đó у quay trở vào sau quầy, lúc thì nhìn Gray chăm chú, lúc thì nhìn lên chiếc đĩa, lấy móng tay cậy miếng gì khô khô bám vào đấy. Khi Lechica đang cầm cốc rượu bằng cả hai tay, khẽ nói chuyện với Gray và nhìn ra ngoài cửa sổ thì anh vẫy tay gọi Khin Menec lại. Khin Menec ngồi ghé lên chiếc ghế, thích chí ra mặt vì được một người sang trọng như Gray gọi đến và nhất là lại gọi bằng cách ra hiệu như thế.
- Chắc anh biết tất cả dân làng ở đây chứ? - Gray bình thản hỏi. - Tôi muốn biết tên cô gái choàng khăn, mặc áo hoa đỏ, tóc sẫm màu hạt dẻ, người tầm thước, tuổi trạc mười tám, đôi mươi. Tôi vừa thấy cô ấy cách đây không xa. Tên cô ấy là gì?
Anh nói những lời này với giọng giản dị, dứt khoát, khiến người nghe không lẩn tránh được trả lời. Khin Menec hơi cảm thấy khó chịu, thậm chí còn cười thầm; nhưng у không dám để lộ ra. Tuy nhiên trước khi trả lời, у dừng lại nghĩ một lát - chẳng qua chỉ vì cố đoán mà biết được chuyện gì đã xảy ra.
- E hèm, - Khin Menec cát giọng, mắt ngước lên trần, - chắc là con Axon “Tàu thủy” đấy mà. Không thể có ai khác. Nó bị dở người đấy.
- Nói rõ hơn xem nào? - Gray lạnh nhạt hỏi, uống thêm một ngụm rượu đầy. - Chuyện thật là thế nào?
- Nếu ông muốn, xin ông nghe đây.
Và Khin Menec đã kể cho Gray nghe câu chuyện cách đó bảy năm khi cô bé Axon gặp một ông già chuyên đi sưu tầm truyện dân gian ở ngoài bờ biển. Thật ra thì câu chuyện đó, kể từ khi người ăn mày khẳng định thêm trong quán rượu này đã bị xuyên tạc méo mó đi nhiều, nhưng cốt lõi của nó vẫn còn nguyên vẹn.
- Từ dạo ấy dân làng bèn gọi nó là Axon “Tàu thủy”. - Khin Menec kết thúc câu chuyện.
Gray bất giác liếc nhìn Lechica lúc này vẫn khiêm nhường ngồi im. Sau đó anh đưa mắt nhìn ra ngoài con đường đất bụi chạy qua quán rượu. Đúng vào lúc đó, anh bỗng cảm thấy đầu óc và trái tim mình choáng váng. Trên con đường ấy, anh chợt thấy đi ngược lại phía anh chính là cô gái Axon “Tàu thủy” mà tên chủ quán vừa khinh bỉ nhắc đến. Gương mặt đẹp tuyệt vời của cô giống như sức mạnh bí ẩn trong những lời nói giản dị đầy xúc động của con người. Gương mặt cô hài hòa tuyệt diệu với ánh mắt trong sáng. Lechica và chủ quán đều ngồi im quay lưng lại cửa sổ. Để cho họ tình cờ không quay lại nhìn Axon, Gray đã có đủ can đảm nhìn sang đôi mắt màu hung của Khin Menec. Ngay sau khi anh nhìn thấy ánh mắt Axon, những lời đơm đặt xấu xa của chủ quán đã lập tức bị xua tan. Lúc ấy, không hay biết điều gì vừa xảy ra, Khin Menec nói tiếp:
- Có thể cho ông biết thêm rằng bố cô ta là một tên đê tiện. Chính lão ta đã dìm chết bố tôi như dìm một con mèo. Lạy Chúa, lão ta...
Bỗng một tiếng rống lên bất ngờ từ phía sau cắt ngang lời y. Cặp mắt long lên dữ tợn, người thợ đốt than như chợt tỉnh cơn say, cát giọng hát ồ ồ làm mọi người phải giật mình.
- Ờ, lão lại say rồi, lão già khốn kiếp! - Khin Menec quát lên. - Cút.
Nhưng ông già đốt than vẫn nghêu ngao hát tiếp như không có chuyện gì xảy ra, rồi để cả ria mép nhúng vào cốc rượu.
Khin Menec tức giận nhún vai:
- Thật là đồ bỏ đi chứ không phải là người nữa. - Y nói với vẻ tự đắc của một tên keo kiệt. - Lần nào cũng vậy!
- Anh không thể kể thêm gì nữa chứ? - Gray hỏi y.
- Tôi ấy à? Thì tôi vừa nói với ông rồi, bố cô ta là một tên vô lại. Vì nó mà, thưa ông, tôi đã bị mồ côi, ngay từ nhỏ đã phải tự mình kiếm sống...
- Mày nói láo! - Bất ngờ ông thợ đốt than lên tiếng. - Mày nói láo ghê tởm, giả dối đến mức làm tao tỉnh cả rượu.
Khin Menec chưa kịp mở mồm thì ông già đã quay sang nói với Gray:
- Hắn nói láo đấy ông ạ. Bố nó cũng là đồ dối trá, mẹ nó cũng cùng một giuộc. Cả họ nhà nó thế mà, ông có thể hoàn toàn yên tâm: cô ta chắc chắn cũng khỏe mạnh, bình thường như chúng ta cả thôi. Tôi đã nhiều lần nói chuyện với cô ta. Cô ta đã ngồi nhờ xe ngựa của tôi tám mươi tư lần hay ít hơn một chút. Mỗi khi cô gái đi bộ từ thị trấn về, còn tôi thì đã bán xong than, thế nào tôi cũng cho cô gái đi nhờ xe về làng. Cứ để cho cô ta ngồi. Tôi biết, cô ta là người phúc hậu. Điều đó thật quá rõ. Tất nhiên cô ta không thèm nói với mày nửa lời, Khin Menec ạ. Nhưng đối với tôi, thưa ông, trong công việc làm than thoải mái, tôi khinh thường miệng thế, điều ong tiếng ve. Cô ta nói năng như người lớn nhưng kỳ quặc lắm ông ạ. Xem ra thì cô ấy cũng nói những điều như chúng ta nói cả thôi, nhưng lại không hẳn giống thế. Chẳng hạn như khi cô ta kể lại công việc của mình. “Bác ạ, cháu kể cho bác nghe nhé, - cô ta vừa nói vừa bá vào vai tôi, như con bướm đậu vào gác chuông, - công việc của cháu cũng không đến nỗi tẻ, nhưng cháu vẫn muốn nghĩ ra một cái gì đó đặc biệt. Cháu muốn con tàu mà cháu làm bơi được, các tay chèo khỏa nước như thật; sau đó họ cho tàu vào bờ, cập bến rồi ngồi ăn như thật”. Tôi cười khà khà và trả lời cô ta: “Này, Axon, nghề của cháu là thế nên cháu nghĩ thế, nhưng mà cháu thử nhìn xung quanh xem: mọi người làm việc như điên”. Cô ta nói: “Không bác ạ, cháu biết điều gì cháu nói. Khi người dân chài đánh cá thì họ nghĩ rằng họ sẽ bắt được con cá to nhất, chưa từng ai bắt được”. – “Thế bác thì sao?” - Cô ta cười: “Bác ấy à, bác thì khi xếp than vào giỏ, chắc là bác nghĩ chúng sẽ nở thành hoa”. Đấy, cô ta đã nói những lời như thế. Trong giây phút đó, tôi bất giác nhìn vào cái giỏ trống không. Tôi thấy hình như có những chồi non mọc lên ở nan giỏ; chúng nở tung, nảy lá khắp giỏ và biến mất. Tôi đã tỉnh rượu một chút! Còn Khin Menec hắn nói dối đấy. Nói dối không mất tiền. Tôi biết hắn.
Cho rằng câu chuyện đã đi đến chỗ xúc phạm ghê gớm, tên chủ quán bèn đưa mắt lườm ông già rồi lỉnh vào sau quầy hàng, cay đắng hỏi vọng ra:
- Ông có cho gọi thêm gì không ạ?
- Không. - Gray trả lời, rút tiền trong ví ra. - Đi thôi, Lechica, cậu ở lại đây nhé và đừng nói gì cả, đến chập tối hãy về tàu. Cậu gắng tìm hiểu mọi chuyện rồi kể lại cho mình. Cậu hiểu chứ?
- Thưa thuyền trưởng tốt bụng, - Lechica trả lời với giọng hơi suồng sã, có lẽ vì ngấm hơi rum, - chỉ có thằng điếc mới không hiểu điều đó thôi ạ.
- Tốt lắm. Cậu nên nhớ rằng, trong trường hợp nào cậu cũng không được nói đến mình hay nhắc đến tên mình, nghe chưa? Thôi, tạm biệt.
Gray bước ra khỏi quán. Từ lúc đó anh luôn có cảm giác như phát hiện được điều gì thật khác thường, tựa hồ tia lửa trong cối thuốc súng của Bertond - một trong những cú sụt lở tâm hồn mà từ đó bật lên một ngọn lửa rực sáng. Ý nghĩ phải hành động ngay lập tức chi phối anh. Mãi đến khi ngồi vào thuyền, anh mới tĩnh tâm và tập trung suy nghĩ được. Anh vừa cười vừa ngả lòng bàn tay hứng ánh nắng mặt trời, như anh đã từng làm thuở bé trong hầm rượu. Sau đó anh khỏa mạnh mái chèo xuống nước, cho thuyền lướt nhanh về bến.