Ngô Hán truyền quân sĩ nghỉ ngơi, ăn uống, rồi cho lấy bùn trát lên lá chắn. Y nói với các tướng:
– Một cái thành Đức-xương nhỏ bé như vậy. Chỉ có năm nghìn quân trấn
đóng, mình tới năm vạn, mà không vào được, thì thực vô lý. Ta hẹn nội
trong hai giờ, phải vào thành. Nếu không các tướng cấp lữ, sư đều bị xử
tử.
Vừa lúc đó, thám mã từ thành Tây-xương về báo:
– Cáp Diên công thành Tây-xương, bị Thần-nỏ bắn xuống. Binh tướng chết
nhiều quá. Có tin nói Công-tôn Thi làm phản, xua quân chiếm Hán-nguyên,
Mi-sơn, Đông-sơn, Cửu-long.
Ngô Hán lắc đầu:
– Không thể có truyện đó.
Thình lình tiếng quân reo, ngựa hí vang dội. Quân báo:
– Tượng-quận vương Hàn Bạch vượt sông Kim-sa-giang cùng với đội
Thần-tượng, định đánh vào phía sau quân mình. Tư đồ Tượng-quận Vương
Hồng dàn quân vượt Độ-khẩu, tiến đánh vào mặt nam. Quân, tướng náo loạn. Xin Đại tư-mã quyết định.
Ngô Hán truyền quân lui lại. Bỏ đánh thành Đức-xương. Chuẩn bị nghinh chiến. Y giận run người lên nói:
– Con tiện tỳ Phùng Vĩnh-Hoa hỗn thực. Quân của chúng bất quá chưa tới
mười vạn mà dám hỗn láo. Ta thiết kế tinh vi như vậy, mà y thị cũng biết được, thực là quá.
Đến đó, quân sĩ la hoảng lên, cùng hướng mắt nhìn về Cửu-long. Ngô Hán
nhìn theo: Khói bốc lên mịt mờ. Y chưa biết truyện gì xảy ra. Truyền án
binh bất động. Đến chiều. Tế tác báo cho biết:
– Công-tôn Thi bí mật liên lạc với Vương Nguyên. Hai bên đem quân đánh
chiếm Mi-sơn, Đông-sơn. Phùng Vĩnh-Hoa đang đêm đánh úp mặt Cửu-long.
Lương thảo của chúng ta bị chiếm mất.
Ngô Hán gọi Lưu Thương truyền lệnh:
– Ngươi lĩnh năm vạn binh, lập đồn, trấn giữ ở đây. Người cố cản quân Hàn Bạch, Vương Hồng. Để ta trở về tái chiếm Cửu-long.
Ngô Hán truyền đại tướng Nguyễn Nghi, Đỗ Trí:
– Các ngươi dẫn kị binh đi trước. Trở về cứu viện Cửu-long khẩn cấp.
Lại gọi đại tướng Phạm Phú, Ngô Trường:
– Mỗi người dẫn ba vạn binh, đi bảo vệ cánh phải, cánh trái.
Vừa lúc đó trống thúc liên hồi, quân reo rung động trời đất. Có tin báo:
– Quân Việt từ Độ-khẩu, Hòa-bình, do Hàn Bạch, Vương Hồng đến cứu viện
Đức-xương. Quân thế hùng tráng. Chỉ còn cách khoảng ba dậm nữa.
Binh tướng náo loạn lên. Ngô Hán rút kiếm quát:
– Giữ nguyên vị trí. Ai làm náo loạn hàng ngũ, ta chém liền.
Y truyền các tướng dàn trận chuẩn bị đối phó. Một lát sau tiền đạo quân
Lĩnh-Nam tới. Đạo quân tuy chỉ có hơn vạn, mà hùng khí ngất trời. Vương
Hồng đi đầu. Cạnh ông phất phới lá cờ Tượng-quận Tam-anh vương. Quân
Việt đến nơi, tự dàn trận thế uy nghi. Vương Hồng gò ngựa đứng trước.
Ông thấy Lưu Thương, nghiêng mình hành lễ:
– Tại hạ Vương Hồng, đất Lĩnh-Nam xin kính chào Quân-hầu. Gần đây Quân-hầu vẫn mạnh khỏe?
Lưu Thương đáp lễ:
– Ngươi có phải Đô-sát Trường-sa, ở dưới trướng Mã Anh đó không? Ngươi thấy chúa tướng cũ, sao không xuống ngựa rập đầu?
Vương Hồng cười lớn:
– Năm xưa, Tượng-quận Tam-anh, vì mưu cầu phục quốc, phải đầu quân tại
Trường-sa. Chứ chúng tôi không phải bán thân cho Quang-Vũ. Trước kia tôi ở dưới trướng của người. Nay thì khác. Tôi vì Lĩnh-Nam. Quân-hầu vì
Hán. Trận tiền gươm đao vô tình. Xin Quân-hầu miễn chấp.
Vừa lúc đó, một đạo quân nữa tới, dẫn đầu bằng hai trăm thớt voi. Khí
thế muốn nghiêng trời lệch đất. Tượng-quận vương Hàn Bạch ngồi trên voi. Hàn Bạch nghiêng mình chào Lưu Thương. Ông cho quân dàn trận.
Lưu Thương chột dạ hỏi:
– Còn Trấn viễn tướng quân Chu Thanh đâu?
Có tiếng cười lớn:
– Có Chu Thanh đất Lĩnh-Nam đây.
Lưu Thương chỉ vào trận Hán:
– Ba anh em ngươi, đem một đạo quân ô hợp thế kia. Tổng số chưa quá bốn vạn, mà đối địch với mười vạn hùng binh của ta ư?
Hàn Bạch lễ phép thưa:
– Chúng tôi có bốn vạn người cũng dám nghênh chiến với mười vạn binh. Vì nước quên mình. Đâu xá gì nguy hiểm?
Trong khi Hàn Bạch nói truyện với Lưu Thương. Ngô Hán cùng các tướng đã tới. Y nhìn trận thế Lĩnh-Nam, nói:
– Chúng nó kéo hết quân Độ-khẩu, Hòa-bình, Vĩnh-nhân về. Như vậy chúng
quyết chiến với ta rồi đây. Các tướng phải tiêu diệt đám quân này. Mới
hy vọng sống sót. Y nhìn trận thế Lĩnh-Nam. Đứng trước trận, hai trăm
thớt voi, chia làm hai mươi đội. Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn cầm cờ
xanh phất lên. Mỗi đội chia ra bên phải năm thớt. Bên trái năm thớt. Ở
giữa, một dàn Thần–-nỏ.
Ngô Hán quay lại nói với Lưu Thương:
– Lập tức đem các dàn chống Thần-nỏ lên ngay.
Quân Hán lui lại. Từ phía sau, các đội quân cầm dàn chống tên dàn phía
trước. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương nói nhỏ với Hàn Bạch:
– Ngô Hán dùng rơm nhét vào các mắt một cái vỉ, chống Thần-nỏ. Bây giờ
cháu cho Thần-phong lên trước tấn công. Giữa lúc chúng rối loạn, quăng
vỉ xuống. Sư bá cho Thần-tượng với Thần-nỏ đánh liền. Phải đánh mau, để
chúng không kịp đốt lửa chống Thần-phong.
Ngô Hán gò ngựa đến trước trận nói với Hàn Bạch:
– Các ngươi tưởng Thần-nỏ vô địch ư? Ta đã chế ra lá chắn. Thần-nỏ vô dụng rồi. Các ngươi có nhìn thấy không?
Y cầm roi chỉ một cái. Một toán quân đi trước, cầm vỉ chắn tiến lên. Phía sau, đội kị mã xung vào trận Lĩnh-Nam.
Phạm Nga-Nương cầm tù và thổi lên một hồi. Hàng triệu con ong bầu, từ
các xe chở tổ ong phía sau trận Lĩnh-Nam bay lên. Chúng bay u u, nhào
xuống trận Hán tấn công. Đám quân mang vỉ, đội kị mã đi đầu không phòng
bị kịp. Bị ong đốt. Chúng bỏ vỉ chắn, ôm đầu chạy lui trở lại. Ngô Hán
quát lớn:
– Đốt lửa lên mau.
Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn phất cờ. Thần-tượng tiến lên hộ tống.
Các dàn Thần-nỏ xung vào trận Hán buông tên. Chỉ hai loạt đầu, hàng vạn
kị mã đổ xuống. Ngựa trúng tên. Người ngã ngựa. Ngựa dẫm lên người. Trên đầu ong đốt. Phía dưới Thần-nỏ tác xạ. Thần-tượng xung vào trận.
Ngô Hán, Lưu Thương tả xung hữu đột. Hai người có tài đại tướng, ứng phó nhanh chóng. Họ cho quân lui về núp trên ngọn đồi lập trận. Đồi dốc,
voi không leo lên được. Thần-nỏ bắn không tới.
Ngô Hán bảo Lưu Thương:
– Ngươi cùng bản bộ quân mã cố thủ ở đây. Để ta trở về đánh chiếm lại Cửu-long đã.
Về phía Lĩnh-Nam. Hàn Bạch quân ít, xuất khởi Độ-khẩu, Vĩnh-nhân đến
tiếp viện cho Đức-xương đã gan lắm rồi. Ông không dám bỏ thành trống
đuổi theo giặc. Trong thành Đức-xương, Trần Đạm-Nương đứng trên dịch lâu nhìn rất rõ. Bà sai mở cửa thành ra gặp Hàn Bạch. Bà nói:
– Hàn sư bá đến tiếp viện kịp thời. Cháu những tưởng không giữ nỗi
thành. Bây giờ Ngô Hán rút về chiếm lại Cửu-long. Sư bá với cháu quân
ít, không thể đuổi theo. Chúng ta cứ cầm cự với Lưu Thương, hầu chia bớt lực lượng chúng. Sư bá mau cử sứ giả khẩn cấp báo tình hình cho sư tỷ
Phùng Vĩnh-Hoa.
.....
Hai đại tướng Nguyễn Nghi, Đỗ Trí dẫn kị binh hướng Cửu-long. Từ
Đức-xương đến Cửu-long khoảng trăm dặm. Hai người đến Hà-tây, thì gặp
đạo quân của Cáp Diên. Đỗ Trí nói:
– Thưa Quân-hầu. Anh em chúng tôi được lệnh đem kị binh về cứu viện Cửu-long. Tình hình Tây-xương thế nào?
Cáp Diên thở dài:
– Dường như trong quân ta có gian tế của giặc. Khi ta đem quân tới
Tây-xương. Giặc đã biết trước. Con nhỏ Trần Hồng-Nương phòng thủ cực kỳ
chu đáo. Ta cho đánh thành. Chúng dùng Thần-nỏ bắn xuống. Chúng ta thiệt mất trên vạn quân. Giữa lúc đó, bọn Công-tôn Thi sai Ngụy Đảng, Sử Hùng đem quân tới cứu viện. Hai bên đánh nhau chưa phân thắng bại. Ta được
lệnh phải rút binh về Cửu-long. Cũng may chúng không đuổi theo.
Hai bên họp binh làm một, hướng Cửu-long. Đến khu rừng rậm rạp. Quân báo:
– Phía trước, có cờ Lĩnh-Nam treo trên chót vót cây cao. Gần đó, các cây cao khác đều treo cờ Ngũ-hành. Không rõ truyện gì?
Cáp Diên gật đầu. Truyền quân tiếp tục lên đường. Thình lình một tiếng
tù và rúc lên. Rồi hàng trăm tiếng thú gầm. Đoàn báo từ trên các cây
nhảy xuống chụp kị mã. Người kêu, ngựa hí inh ỏi. Đoàn kị mã chưa kịp
phản ứng. Đoàn Thần-báo lại biến vào rừng mất.
Cáp Diên kiểm lại, hơn ba trăm kị mã bị chết cùng với ngựa. Quân sĩ đã
bắt đầu mất tinh thần. Đoàn người ngựa lại tiếp tục lên đường.
Thình lình một hồi tù và thổi lên. Cáp Diên cho kị mã chuẩn bị tác
chiến. Thì chỉ thấy gần ven rừng, một đoàn khỉ đứng trên cây. Cổ mỗi con quàng một cái khăn. Chúng khọt khẹt, tay cầm đá liệng xuống.
Quân kị dùng cung tên bắn lên. Chúng chạy vào rừng mất. Trời tối dần. Quân sĩ báo với Cáp Diên:
– Chỉ còn lương thực đủ ăn bữa tối nay mà thôi. Nếu mai không có lương, ắt chết đói hết.
Bỗng đâu đó tù và thổi liên hồi. Rồi khỉ, trong rừng lại truyền cành cây tới ném đá. Trong rừng, báo gầm lên, từ trên cao nhảy bổ xuống đội hình kị mã. Thoáng một cái, chúng biến vào rừng mất. Hơn trăm kị mã. vừa
chết, vừa bị thương.
Cáp Diên cùng các tướng cho quân hạ trại giữa rừng. Truyền canh gác cẩn
thận. Vì sợ bị báo, khỉ tấn công bất thần. Cáp Diên thở dài:
– Từ sáng đến giờ. Đến một tên quân Lĩnh-Nam. Ta cũng không thấy mặt, mà hơn năm vạn binh của ta, nào bị thương, nào bị chết có đến hơn vạn.
Quân sĩ thì kinh hoảng mất tinh thần. Bọn Lĩnh-Nam thực đáng sợ.
Quân sĩ nấu cơm, vừa định ăn, thì tiếng trống thúc vang dội, tiếng
chiêng đánh inh tai. Cáp Diên cùng các tướng đốc thúc quân sĩ chuẩn bị
tác chiến. Song chỉ thấy trống thúc, chiêng kêu. Không thấy một người
nào cả.
Cáp Diên bảo các tướng:
– Thây kệ. Chúng dùng nghi binh. Ta cứ ăn cơm.
Quân sĩ ngồi ăn cơm. Vừa lúc đó từ trên trời đoàn Thần-ưng xuất hiện.
Chúng nhào xuống tấn công. Trong đêm tối, quân Hán không nhìn thấy
Thần-ưng, trong khi Thần-ưng nhìn rất rõ. Trại Hán náo loạn lên.
Thình lình, tiếng báo gầm. Rồi báo từ ngoài tấn công vào trong trại.
Trên trời Thần-ưng đánh xuống. Tại chỗ cột ngựa, ngựa bị đoàn khỉ tới
cắt dây cột, dùng gậy đánh túi bụi. Chúng hí lên. Bỏ chạy vào rừng.
Cáp Diên cùng các tướng quát tháo thế nào cũng không được. Quân sĩ bỏ
trại, chạy toán loạn. Y truyền lui binh trở lại. Gặp trại quân Ngô Hán
đóng phía sau. Cáp Diên tường trình mọi truyện.
Ngô Hán than:
– Ta biết Phùng Vĩnh-Hoa dùng binh không bằng ta. Song y thị mưu kế thần sầu quỉ khốc. Không biết đâu mà lường được. Chúng ta tạm chờ trời sáng
sẽ trở về Cửu-long sau.
Sáng hôm sau. Ngô Hán truyền quân sĩ tiến về Cửu-long. Y tiến rất chậm.
Song không gặp một biến cố gì. Đám tàn quân của Cáp Diên lại tụ tập về
được. Quân sĩ cho biết: Hôm qua chỉ có ba tướng trẻ. Một là Lê
Đông-Giang chỉ huy sư Thần-hầu. Hai là Vũ Lăng chỉ huy sư Thần-ưng. Ba
là Cao Chiêu-Hựu chỉ huy sư Thần-báo. Còn ngoại giả không thấy quân
Lĩnh-Nam đâu.
Ngô Hán truyền an dinh hạ trại. Y cùng các tướng đến chân thành
Cửu-long. Cửa thành đóng kín mít. Trên thành không một bóng người. Không một ngọn cờ. Cáp Diên bàn:
– Phùng Vĩnh-Hoa mưu mô xảo trá khôn lường. Không biết tình hình trong
thành ra sao? Quân mã, Thần-ưng, Thần-hầu, Thần-báo đi đâu? Dường như y
thị kéo dài thời giờ, đợi quân ta hết lương, rồi mới tấn công.
Ngô Hán bàn với các tướng:
– Đỗ Trí khẩn cấp đem binh phù của ta đến Càn-định, Nhã-giang. Truyền hai thái thú phải cung ứng lương thảo gấp.
Y truyền các tướng:
– Dù gì chăng nữa. Chúng ta cũng đánh chiếm lại Cửu-long.
Vừa lúc đó, ba tiếng trống vang dội. Trên mặt thành, cờ xí dựng lên uy
nghiêm. Quân sĩ đi lại hùng tráng. Phùng Vĩnh-Hoa ngồi trên vọng lâu.
Tay cầm ống tiêu. Bà tấu bản Động đình ca. Thái độ phong lưu tiêu sái.
Tấu nhạc xong bà nói vọng xuống.
– Ngô Đại tư-mã. Từ Dương-bình-quan cách biệt. Thấm thoát đã mấy năm rồi. Đại tư-mã vẫn mạnh khỏe a?
Ngô Hán ngửa mặt lên đáp:
– Phùng cô nương! Ngươi với ta đã từng bên nhau đánh quân Thục. Hồi đó
ngươi phản ta trợ Thục. Khiến ta khốn khổ. Bây giờ lại làm khó dễ ta thế này ư?
Phùng Vĩnh-Hoa đáp:
– Ngô Đại tư-mã hiểu cho. Giữa Ngô Hán với Phùng Vĩnh-Hoa không thù
không oán. Tiểu nữ đâu dám làm khó dễ Đại tư-mã ? Chẳng qua tiểu nữ tuân chỉ của hoàng-đế Lĩnh-Nam mà làm. Hai chúng ta ai cũng vì giang sơn của mình cả. Tiểu nữ ở thế bất đắc dĩ mà thôi.
Ngô Hán quát lên:
– Quân sĩ trong thành Cửu-long của cô nương bất quá năm vạn. Ta hiện có
mười lăm vạn. Liệu cô nương có địch lại chăng? Ta khuyên cô nương mau
rút về Tượng-quận. Ta hứa không làm khó dễ cô nương.
Phùng Vĩnh-Hoa cười:
– Ngô Đại tư-mã sao hủ lậu lắm vậy? Nếu Đại tư-mã đánh được ta. Người đã làm rồi. Người cất quân vượt Ô-giang, Xích-thủy, Kim-sa-giang đánh
Lĩnh-Nam. Ta chỉ trở tay một cái, đánh chiếm được Cửu-long, Đông-sơn,
với Mi-sơn, Nga-biên. Đại quân Vương Nguyên tiến về Thành-đô. Giờ này
không chừng Thành-đô thất thủ rồi cũng nên. Thôi, ta nể tình cũ, để cho
Ngô Đại tư-mã đem quân về Nhã-giang. Ngươi cứ đi đi. Ta không làm khó dễ đâu.
Bà cầm mũi tên bẻ làm đôi thề:
– Nếu ta cho quân rượt theo, hoặc phục kích, sẽ như mũi tên này.
Vừa lúc đó, quân của Lưu Thương về tới. Ngô Hán truyền Đỗ Trí, Nguyễn Nghi đi đoạn hậu. Còn tất cả rút về Nhã-giang.
Trong thành, Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng vỗ tay cười:
– Quả đúng như chúng ta dự tính.
Nguyên đêm qua, Phùng Vĩnh-Hoa sai sư trưởng Thần-hầu Lê Đông-Giang, sư
trưởng Thần-ưng Vũ Lăng, sư trưởng Thần-báo Cao Chiêu-Hựu dàn quân làm
nghi binh, cản đường tiến quân của Cáp Diên, Ngô Hán. Bà dự tính rằng
sau một đêm mệt mỏi, thì lương hết. Hôm sau Ngô Hán về tới Cửu-long, y
sẽ không đủ sức tái chiếm thành. Y phải rút lui về Nhã-giang. Như vậy bà mới có thể về tiếp ứng cho mặt trận Ô-giang, Xích-thủy của Đào
Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống và Đào Tam-Lang. Vì có tin báo, mặt trận này
quân Việt thất bại.
Đợi quân Ngô Hán rút rồi. Phùng Vĩnh-Hoa nói với Vương Nguyên:
– Ngô Hán mất hết lương thảo. Qua trận vừa rồi, y bị thất bại, hao quân
tổn tướng. Giữa Vương Bá với Ngô Hán có sự chia rẽ trầm trọng. Ngô sẽ
tâu về triều đình rằng: Vương Bá dùng gian tế Lĩnh-Nam Chu Tái-Kênh,
Trần Năng, Đinh Xuân-Hoa làm mất bốn thành Cửu-long, Đông-sơn, Mi-sơn,
Nga-biên. Còn Vương Bá sẽ tâu về triều: Ngô Hán không biết dùng binh,
mạo hiểm đánh xuống Lĩnh-Nam, trong khi Ích-châu còn bảy thành trong tay Thục, vì vậy mới bị bại. Ngô không biết đề phòng Công-tôn Thi, bị Thi
phản. Trong khi họ đổ lỗi cho nhau chạy tội, không còn tinh thần giao
chiến. Vậy tôi xin trao các thành trì lại cho sư thúc. Xin sư thúc tiến
đánh gấp những phần đất còn lại, phục hồi Thục.
Đến đây, có sứ giả của Đào Chiêu-Hiển tới, xin vào yết kiến. Phùng Vĩnh-Hoa nhìn qua nét mặt tươi tỉnh của sứ giả. Bà cười:
– Ba tướng họ Đào đại thắng rồi phải không? Hiện quân họ ở đâu?
Sứ giả bái lạy:
– Khải tấu Công chúa. Cả ba đạo đều đại thắng. Ba đại tướng quân hiện
dồn quân ở bến Bồ-lăng. Vì sợ quân Hán tràn sang Lĩnh-Nam. Còn sư bá Hàn Đức dẫn sư-trưởng Thần-ngao Vũ Dương giao chiến với Chu Á-Dũng ở
Vĩnh-thiên. Quân Hán đông gấp năm quân sư bá Hàn Đức. Chu cho quân tấn
công đồn. Y bị Vũ Dương từ phía sau dùng Thần-ngao đánh tập hậu. Giao
chiến ba ngày, quân Việt tử thương quá nhiều. Giữa lúc đó Vương Lộc đem
đại quân Thục tiếp viện. Một bên quân Hán đông, cùng đường, tử chiến.
Một bên liên quân Việt, Thục tuy ít, quyết đuổi giặc đến cùng. Trận
chiến kéo dài hơn hai ngày. Quân Hán bị giết chết hết. Quân Thục, Việt
cũng chỉ còn hơn bốn ngàn người. Sư thúc Hàn Đức, sư huynh Vương Lộc bị
thương nặng. Giữa lúc đó Ngô Tiến-Hy dẫn một đạo binh ba vạn tráng đinh
đến đánh. Vũ Dương dùng Thần-ngao cản đường, trong khi quân rút về
Bồ-lăng. Ngô Tiến-Hy đuổi theo rất gấp. Trong khi cái chết chỉ đường tơ
kẽ tóc, một đạo Thiết– kị khoảng nghìn người xông vào trận. Viên tướng
đi đầu chỉ đánh ba chưởng khiến Ngô Tiến-Hy phun máu miệng. Y lui lại
đốc quân giao chiến.
Vĩnh-Hoa hỏi:
– Người đó là ai vậy?
– Thưa là Long-biên công Đặng Đường-Hoàn. Người đang trấn tại Long-biên. Nhân nghe tin Tượng-quận sắp có đánh lớn. Người xin vua Trưng đi tiếp
viện. Trưng-đế chuẩn tấu. Người mang một nghìn đệ tử theo. Người đến nơi vừa kịp. Người đẩy lui Ngô Tiến-Hy rồi cùng đệ tử về Bồ-lăng. Vì vậy
đất Vĩnh-thiên bị giặc chiếm.
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi:
– Lê lấy đâu ra quân đông đảo như vậy?
– Y chiêu mộ được hơn mười Lạc-hầu gốc người Hán làm phản. Lạc-hầu đốc
xuất toàn bộ tráng đinh nam, nữ kéo cờ Bình man qui Hán. Trên đường rút
quân sư thúc Hàn Đức, sư huynh Vương Lộc kiệt lực, tuẫn quốc.
Vương Nguyên nghe tin con tử trận. Ông ôm mặt bật lên tiếng khóc.
Phùng Vĩnh-Hoa cúi mặt, ôm đầu, thở dài:
– Không ngờ sư thúc Hàn Đức, sư đệ Vương Lộc anh hùng một đời, mà sớm
tuẫn quốc. Chúng ta thắng thì thắng thực, song mất đi hai đại tướng tài. Còn mặt trận Bồ-lăng...
.......
Đinh Xuân-Hoa, Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà dùng thuyền lớn, chở sư Thần-hổ đi dọc sông Trường-giang hướng về Bồ-lăng. Sắp tới Bồ-lăng, gặp Thủy quân
Hán chặn lại hỏi. Đinh Xuân-Hoa đứng trên mũi thuyền lên tiếng:
– Ta muốn được gặp tướng chỉ huy.
Viên tướng chỉ huy đoàn tuần tiểu lên mui thuyền. Y tự giới thiệu:
– Ta là Cổ Minh đô-đốc lĩnh trách nhiệm trấn giữ Bồ-lăng. Các người là
ai? Tại sao lại chở nhiều cọp thế này? Có thẻ bài của thái thú không?
Đinh Xuân-Hoa lắc đầu:
– Chúng tôi không có thẻ bài của thái-thú. Mà chỉ có lệnh bài của Hoài-dương hầu lĩnh ấn tổng trấn Thành-đô, Vương Bá.
Cổ Minh nghe đến Vương Bá, lời lẽ y khách sáo hơn:
– Xin bà cho coi lệnh bài.
Đinh Xuân-Hoa trình lệnh bài ra. Cổ Minh cầm lại xem xét rồi hỏi:
– Bà chở cọp đi đâu nhiều thế này?
Đinh Xuân-Hoa đưa tấm lệnh bài có khắc con phụng ra nói:
– Mã thái-hậu truyền Hoài-dương hầu Vương tướng quân mua thực nhiều cọp, rồi trao cho chúng tôi chở về Kinh-châu giao cho Mã Viện.
Cổ Minh biết Mã Viện là cháu Mã thái-hậu. Y trả lệnh bài cho Đinh Xuân-Hoa:
– Xin bà cho thuyền nghỉ lại đây. Sáng mai hãy lên đường. Vì chiều nay
quân Vương Hữu-Bằng, Lý Thái-Hiên xuất phát đánh Lĩnh-Nam. Ghe thuyền
đóng chặt giòng sông. Sáng mai chiến thuyền đi bớt, rồi các vị lên đường cũng vừa.
Đinh Xuân-Hoa cho thuyền đậu trên sông.
Sáng hôm sau, quân Vương, Lý xuất phát hết. Cổ Minh báo cho Đinh Xuân-Hoa biết. Đinh Xuân-Hoa nói:
– Xin Đô-đốc cho phép chúng tôi dắt cọp lên bờ nghỉ ngơi nửa buổi. Cọp giam dưới thuyền đã mấy ngày. Chúng gầy yếu quá rồi.
Cổ Minh đồng ý. Cao Đà ra lệnh. Cứ mười Thần-hổ, do một Hổ-tướng chỉ
huy, dẫn chúng lên bờ. Cổ Minh đứng nhìn đoàn Thần-hổ, y hỏi Đinh
Xuân-Hoa:
– Phu nhân làm cách nào, dậy cọp ngoan ngoãn như chó thế kia?
Đinh Xuân-Hoa chưa kịp trả lời, thi đoàn Thần-hổ đã lên bờ, dàn thành
trận. Đào Chiêu-Hiển vẫy tay. Từ dưới thuyền, hơn ba trăm dũng sĩ quyết
tử xông lên. Ông hô một tiếng. Cao Đà cầm cờ phất, đoàn Thần-hổ gầm gừ
rung chuyển trời đất, xung vào trại Hán. Phía sau đoàn dũng sĩ cảm tử
tiến lên.
Cổ Minh ngớ ngẩn hỏi:
– Cái gì? Thế này là thế nào?
Đinh Xuân-Hoa phóng cho y một chưởng. Người y vốn mảnh khảnh. Bị một
chưởng, bay tung lên cao, rơi xuống sông. Y dãy dụa mấy cái, người chìm
nghỉm.
Đoàn Thần-hổ, dũng sĩ cùng Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà xung vào trại Hán.
Quân trong trại rối loạn. Đám dũng sĩ đánh lửa lên đốt lương thảo. Phút
chốc trại Hán khói lửa ngụt trời. Đám quân Hán không tập trung lại được. Đào Chiêu-Hiển chỉ huy đoàn dũng sĩ đốt cháy khắp nơi. Trong khi đoàn
Thần-hổ đuổi đánh quân canh.
Thấy đã thành công. Đào Chiêu-Hiển bảo Cao Đà:
– Chúng ta cho Thần-hổ vượt sông, phục sẵn ở ven rừng. Có thể quân của Vương Bằng, Lý Thái-Hiển trở về.
Quả nhiên đến chiều, từ xa xa, đoàn quân Hán đang rút trở về. Đinh Xuân-Hoa nói:
– Quân Hán trở về bơ phờ thế kia. Chắc trúng phục binh của Đào Đô-Thống với Đào Tam-Lang rồi.
Đào Chiêu-Hiển bảo Cao Đà leo lên ngọn cây quan sát tình hình. Cao Đà vâng lệnh, leo lên cây. Nó nói vọng xuống:
– Thưa sư bá, đằng trước, quân Hán đang tháo chạy. Quân Lĩnh-Nam rượt
theo. Các dàn Thần-nỏ của ta đi trước. Quân Hán ngã từng loạt một.
Một lát quân Hán rút tới. Đào Chiêu-Hiển vỗ tay một cái. Cao Đà rú lên
ba tiếng. Đoàn Thần-hổ từ trong rừng gầm lên rung chuyển trời đất. Chúng xông ra chặn mất đường đi của quân Hán. Vương Hữu-Bằng, cầm kiếm đi
đầu. Đào Chiêu-Hiển từ trên cây nhảy xuống. Ông cầm kiếm phóng vào ngực
y. Miệng nói lớn:
– Vương Hữu-Bằng, thành Bồ-lăng ta đã chiếm mất rồi. Lương thảo đốt sạch. Bây giờ ta lấy đầu ngươi đây.
Vương Hữu-Bằng vung kiếm xả vào mặt Đào Chiêu-Hiển. Thế là một đánh thục mạng, tìm đường chạy, một quyết giết giặc không tha. Hai người quay
tròn, đấu với nhau.
Lý Thái-Hiên đứng ngoài, y rút kiếm tấn công Đào Chiêu-Hiển. Đinh
Xuân-Hoa từ trên cao đáp xuống. Bà khoanh kiếm, cản Lý Thái-Hiên. Hai
bên thi diễn cuộc đấu. Kể ra kiếm thuật Lý cũng vào loại hiếm có. Song
võ công Đinh Xuân-Hoa là võ công Cửu-chân, khắc chế võ công
Trung-nguyên. Chỉ hơn ba mươi hiệp y luống cuống rõ rệt. Choang một
tiếng. Kiếm của Lý bay bổng lên cao. Đinh Xuân-Hoa chỉa kiếm vào cổ y:
– Đầu hàng, ta sẽ tha mạng cho.
Lý vội vàng quì xuống:
– Tiểu tướng xin phu nhân tha mạng.
Đinh Xuân-Hoa thu kiếm lại. Thình lình Lý Thái-Hiên vung tay một cái.
Hơn mười mũi phi đao nhỏ bay vào người bà. Bà khoa kiếm gạt, chỉ được
sáu lưỡi. Còn bốn lưỡi ghim vào ngực, bụng bà. Ánh thép lóe lên, bà đưa
một lưỡi kiếm. Đầu Lý Thái-Hiên rơi xuống đất. Phẫn chí, bà đưa một nhát nữa, Vương Hữu-Bằng đang đấu với Đào Chiêu-Hiển, cũng bị đứt làm hai
khúc.
Đào Chiêu-Hiển kêu lên:
– Sư bá, có sao không?
Đinh Xuân-Hoa cúi gập người. Bà nghiến răng nhổ bốn lưỡi phi đao ra. Bà
trúng đao không sâu, chỉ bị ngoại thương, tạng phủ vô sự. Cao Đà lấy
thuốc rịt vết thương, băng bó cho bà.
Vừa lúc đó quân của Đô-Thống, Tam-Lang đuổi tới. Chỉ mấy loạt Thần--nỏ, đám tàn quân Hán ngã hết.
.....
Phùng Vĩnh-Hoa nói với Chu Tái-Kênh:
– Khi sang đây trấn nhậm. Trưng-đế có nói với cháu: "Anh em họ Đào tuy
ba là một. Chiêu-Hiển khí phách. Đô-Thống mưu mẹo. Tam-Lang trung liệt.
Cả ba đều có tài đại tướng". Cứ như trận này thì rõ.
Bỗng Thần-ưng từ xa mang thư tới. Phùng Vĩnh-Hoa mở ra đọc. Bà bỏ thư vào túi, nói với Vương Nguyên:
– Quân Ngô Hán mới bị vỡ. Xin sư thúc giúp Thái-tử chiếm lại Thành-đô,
tái lập nước Thục. Chúng tôi phải trở về Tượng-quận ngay. Các thành
Độ-khẩu, Mễ-dịch, Đức-xương, Tây-xương chúng tôi có ba vạn quân, cùng
Trần-gia tam-nương cũng rút về. Xin sư thúc đề phòng cẩn thận.
Bà dẫn Chu Tái-Kênh, Trần Năng khẩn cấp rút về Lĩnh-Nam qua Độ-khẩu.
Dọc đường Chu Tái-Kênh hỏi:
– Tình hình Lĩnh-Nam ra sao, mà chúng ta đang thắng, công chúa phải cho rút về?
Phùng Vĩnh-Hoa đáp:
– Tôi được tin Thần-ưng của sư bá Hàn Bạch báo: Trong thời gian
Tượng-quận tam-anh dốc hết quân trợ Thục. Thầy trò Lê Đạo-Sinh cùng với
các Lạc-hầu, Lạc-tướng người Hán, dùng tráng đinh nổi dậy. Chúng ta phải trở về ngay. Nếu không e Tượng-quận lâm nguy. Tượng-quận Tam-anh cùng
với Trần-gia tam-nương rút về trước rồi. Lê Đạo-Sinh đang công hãm thủ
đô Tượng-quận.
Bà thở dài:
– Ngô Hán bị tôi đánh bại trên đất Trung-nguyên. Song y thắng tôi ở
Tượng-quận. Quang-Vũ chỉ dụ cho y, để Lê Đạo-Sinh dùng người Lĩnh-Nam
đánh với người Lĩnh-Nam. Sau đó y mới xua quân Hán tham chiến. Ngô đổi
ngược lại dùng quân Hán đánh trước, rồi xua người Lĩnh-Nam đánh sau.
Giỏi! Y lừa được tôi.
Ba người truyền Thần-hầu, Thần-ưng, Thần-báo khẩn cấp triệt thoái. Dọc
đường qua các thành Đức-xương, Tây-xương, Mễ-dịch, được tin Trần-gia
tam-nương cùng các đạo quân Việt đã rút về Tượng-quận hết rồi.
Trưa hôm sau, ba người tới Độ-khẩu, qua sông đổ vào Vĩnh-nhân. Vừa sang
đến nơi, đoàn Thần-ưng đồng kêu ré lên trên không. Chúng lao tới phía
trước. Vũ Lăng, sư trưởng Thần-ưng nói với Vĩnh-Hoa:
– Chị Vĩnh-Hoa! Phía trước có quân mình đang giao tranh với địch. Đoàn
Thần-ưng trông thấy. Chúng bay theo yểm trợ. Để em đi trước xem sao.
Vũ Lăng ngồi trên bành con voi. Chàng thúc voi tiến tới. Phía sau Phùng
Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng phi ngựa theo. Phi được hơn năm dặm,
Vũ Lăng chỉ về phía trước:
– Kìa Trần-gia tam-nương đang giao chiến với hai người nam, một người
nữ. Đạo quân của ba bà cùng đạo quân lạ đang chém giết nhau.
Trần-gia tam-nương yếu thế lắm rồi. Chu Tái-Kênh nhận ra Đạm-Nương đấu
với Đức-Hiệp. Thanh-Nương đấu với Vũ Hỷ. Hồng-Nương đấu với Vũ
Phương-Anh. Đức-Hiệp đánh liền ba chưởng. Đạm-Nương nhảy lui liên tiếp.
Trong khi đó Vũ Hỷ đẩy lui Thanh-Nương đến một gốc cây lớn.
Chu Tái-Kênh vọt người lên cao, vượt qua đầu đám quân sĩ. Còn lơ lửng
trên không, bà vung tay xuất hai chưởng, hướng vào Đức-Hiệp, Vũ Hỷ. Hai
người bỏ Đạm-Nương, Thanh-Nương xoay lại đỡ chưởng của bà. Binh, binh
hai tiếng. Hai người bật lui đến hơn trượng. Chu Tái-Kênh đã đứng trước
mặt họ. Bên cạnh bà, Trần Năng dùng Lĩnh-Nam chỉ đẩy lui Vũ Phương-Anh.
Đức-Hiệp vẫy đồng bọn, lui lại, đứng trước hàng quân, mắt gườm gườm nhìn Chu Tái-Kênh. Y đã nhận ra bà.
Hồi Chu Tái-Kênh còn theo Lê Đạo-Sinh. Bà che dấu bản lĩnh của mình.
Thành ra bọn Đức-Hiệp chỉ biết bà giỏi về khoa huấn luyện binh lính.
Chúng tuyệt không ngờ bà có bản lĩnh cao cường, đến độ chỉ một chiêu,
đánh bay y với Vũ Hỷ.
Đức-Hiệp hỏi:
– Chu lão bà! Thì ra ngươi. Bấy lâu nay ngươi ẩn thân trong Thái-hà
trang, mà sư phụ ta không biết võ công ngươi cao đến trình độ này.
Chu Tái-Kênh cười nhạt:
– Thầy trò mi có mắt như mù. Võ công của ta cao hơn Lê Đạo-Sinh nhiều,
mà y không biết. Hôm nay bọn mi biết, đã chậm trễ rồi. Ngươi có biết ta
là ai không mà dám buông lời hỗn láo?
– Sư đệ! Để ta giới thiệu cho mi biết. Vị này chính là sư nương của ta. Ngươi mau bái kiến đi.
Vũ Hỷ ngang tàng:
– Ta không tin. Từ xưa đến giờ, có nghe nói sư bá lấy vợ đâu? Nay tự
nhiên mọc ra mụ này, thế mà mi bắt ta cúi đầu, e còn khó hơn bắc thang
lên trời.
Thấp thoáng thân hình. Chu Tái-Kênh đã tát cho Vũ Hỷ hai cái bốp, bốp.
Động tác nhảy tới, tát, nhảy lui nhanh như chớp. Rõ ràng Vũ Hỷ trông
thấy, mà phản ứng không kịp. Y bị tát đau quá. Nước mắt dàn dụa ra.
Đức-Hiệp kêu lên:
– Sư bá! Thì ra ngươi thuộc phái Long-biên.
Chu Tái-Kênh không nói, không rằng. Bà xuất chiêu Ngưu tẩu như phi hướng Đức-Hiệp. Đức-Hiệp thấy chưởng lực hùng mạnh, y hoảng hốt, nhảy vọt lên cao. Chưởng của Chu Tái-Kênh trúng xuống đất đến bùng một cái. Đất sụt
xuống một lỗ trũng. Cát bụi bay mịt mờ.
Đức-Hiệp mở to mắt ra. Vì chưởng lực của bà muốn mạnh hơn Lê Đạo-Sinh.
Chu Tái-Kênh hất hàm hỏi:
– Các ngươi có chịu ra mắt ta không?
Bọn Đức-Hiệp, vội vàng chắp tay:
– Đệ tử kính cẩn ra mắt sư bá.
Chu Tái-Kênh hỏi Trần Đạm-Nương:
– Tại sao các cháu lại giao chiến với bọn này?
Đạm-Nương đáp:
– Bọn chúng khích động một số Lạc-công, Lạc-hầu nổi dậy Bình man qui
Hán. Chúng đem quân cản đường Tượng-quận Tam-anh với bọn cháu.
Tượng-quận Tam-anh đem sư Thần-phong, Thần-tượng cùng đội kị binh trở về Côn-minh trước, để bọn cháu cản hậu. Lúc đầu quân của chúng ít, rồi dần dần, chúng kéo đến đông như thế này đây.
Phùng Vĩnh-Hoa nhớ lại : Trước đây Tượng-quận Tam-anh đã gửi tấu chương
về triều rằng: Đất Tượng-quận cứ bảy người Hán mới có ba người Việt.
Suốt hai trăm năm người Hán đô hộ, người Việt bị coi như trâu như chó,
không được học hành, không được tập võ, không có ruộng đất. Hóa cho nên
bây giờ Lĩnh-Nam phục hồi, người Hán vẫn làm chủ. Sau cuộc suy cử
Lạc-hầu, Lạc-công, hầu hết người Hán nắm các chực chưởng then chốt, các
phú gia đều là người Hán. Nay Lê Đạo-Sinh cùng đám đệ tử, tìm đến đám
quan lại người Hán hồi xưa, chúng đang ẩn trong dân, đem chiếu chỉ của
Quang-Vũ phong cho họ. Người nào cũng được phong chức tước lớn. Ông muốn bắt giết các Lạc-hầu, Lạc-công người Hán, mà không dám. Vì sợ dân
chúng, quân sĩ nổi loạn. Tình hình Tượng-quận cực kỳ căng thẳng.
Tượng-quận Tam-anh theo dõi thầy trò Lê Đạo-Sinh rất kỹ. Ngặt vì chúng ở trong bóng tối. Nay hiện, mai ẩn. Tam-anh biết rõ mối nguy hiểm ẩn
tàng. Mà không có cách nào trị được.
Trong khi Ngô Hán chia binh làm năm đạo đánh xuống Lĩnh-Nam. Phùng
Vĩnh-Hoa mải ứng phó. Tượng-quận Tam-anh dồn quân lên Độ-khẩu, Vĩnh-nhân nghinh địch. Thầy trò Lê Đạo-Sinh thấy vậy, ra lệnh cho đám Lạc-công,
Lạc-hầu nổi dậy. Có đến phân nửa các Lạc-công, Lạc-hầu theo Hán. Lê
Đạo-Sinh sai đệ tử tập trung tráng đinh của đám Lạc-hầu, Lạc-công phản
loạn, đánh chiếm các huyện cùng trang ấp không theo chúng.
Tượng-quận Tam-anh được tin đó, giữa lúc các ông đang đuổi theo quân của Vương Thường, Ngô Hán, Cáp Diên. Ba ông lập tức viết thư báo cho Phùng
Vĩnh-Hoa biết. Một mặt rút quân về dẹp loạn. Các ông cũng lệnh cho
Trần-gia tam-nương rút quân theo, đem quân về cứu thủ đô Côn-minh của
Tượng-quận đang bị Lê Đạo-Sinh vây hãm. Trần-gia tam-nương đi cản hậu,
vừa về đến giữa đường thì gặp Đức-Hiệp, Vũ Hỷ, Vũ Phương-Anh chặn đánh.
Trong khi ba bà đang gặp nguy hiểm, Chu Tái-Kênh về tới, kịp thời tiếp
cứu.
Đức-Hiệp thấy tình hình bên mình yếu thế. Y chắp tay chào Chu Tái-Kênh:
– Đã có mặt sư bá ở đây. Chúng cháu xin rút lui.
Lê Đông-Giang, sư trưởng Thần-hầu, trực tiếp thống lĩnh quân đoàn sáu Tây-vu cười nhạt:
– Đâu có dễ dàng như vậy! Các ngươi tưởng chạy được ư?
Đức-Hiệp nhìn ra: Đạo quân của y đã bị Phùng Vĩnh-Hoa cho Thần-hầu,
Thần-báo, cùng quân của Trần-gia tam-nương vây kín từ lúc nào. Vũ Lăng
đứng trên bành voi cầm cờ chỉ huy Thần-ưng trong tư thế sẵn sàng tác
chiến.
Đức-Hiệp cười nhạt:
– Phùng Vĩnh-Hoa. Mi tưởng với đạo quân thú vật của mi, có đủ khả năng
giết bọn ta ư? Ta nói cho ngươi biết, dân chúng Tượng-quận, mười người,
đến chín người Hán. Họ đồng nổi dậy Bình man qui Hán cả rồi. Các ngươi
muốn giết ta, cứ giết. Nhưng liệu các ngươi có cứu được Tượng-quận về
với Lĩnh-Nam chăng? Hãy nhìn, đạo quân của ta gồm tráng đinh mười trang
ấp. Họ kéo cờ Hán, trở về với Hán. Nếu ngươi có tài, cứ giết hết dân
Tượng-quận đi. Ngươi có đất, mà không có dân.
Đến đó, có tiếng quân reo, ngựa hí. Hai đạo quân từ phải, trái do Hoàng
Thái-Tuế, Ngô Tiến-Hy kéo tới. Phùng Vĩnh-Hoa truyền quân lui lại dàn
trận thế, sẵn sàng chiến đấu.
Vũ Lăng nói với Phùng Vĩnh-Hoa:
– Chúng ta chỉ có một vạn người, với sư Thần-hầu, Thần-báo, Thần-ưng.
Trong khi bên chúng có tới hơn năm vạn người. Vậy sư tỷ cùng Chu sư bá,
Trần sư tỷ hãy về thủ đô Côn-minh hợp với Tượng-quận Tam-anh đối phó.
Bọn em xin đi cản hậu.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
– Không phải chúng ta sợ chúng, mà sợ nếu để hai bên đánh nhau, dù quân
chúng ta chết, dù tráng đinh chết, nhân lực Lĩnh-Nam cũng hao tổn. Vậy
các em chỉ cần cản hậu. Đừng giết người nhiều quá.
Bà nói với Chu Tái-Kênh, Trần Năng:
– Hai vị trổ thần oai đánh bọn Đức-Hiệp, mở vòng vây. Chúng ta về Côn-minh, để các em dùng Thần-ưng, Thần-báo, Thần-hầu cản hậu.
Chu Tái-Kênh hú lên một tiếng. Bà phóng chưởng đánh Đức-Hiệp, Vũ Hỷ.
Trần Năng đánh Vũ Phương-Anh. Chỉ mấy chiêu. Hai người đánh dạt bọn
chúng sang một bên, rồi dẫn đầu cho đạo quân Trần-gia tam-nương xung vào trân địch. Từ hai bên hông, sư Thần-báo, Thần-hầu đánh kẹp lại. Vũ Lăng chỉ huy Thần-ưng từ trên đánh xuống. Trận tuyến bọn Đức-Hiệp rối loạn
hẳn lên. Phút chốc đạo quân Trần-gia tam-nương cùng Phùng Vĩnh-Hoa xông
khỏi vòng vây. Quân Đức-Hiệp hầu hết tráng đinh của các trang lẻ tẻ.
Đông, thì đông thực. Song dàn trận, phối hợp không quen. Vì vậy đạo quân Trần-gia tam-nương vượt ra dễ dàng.
Bấy giờ Đừc-Hiệp mới biết rõ ý định của Phùng Vĩnh-Hoa. Chúng dẫn đầu,
phía sau, các Lạc-hầu người Hán, lùa tráng đinh đuổi theo.
Cao Chiêu-Hựu đứng trên bành voi, tay cầm cờ phất. Đạo quân ba trăm
Thần-báo chỉ có ba mươi người chỉ huy. Trận tuyến dàn ra nghiêm chỉnh.
Trên trời Thần-ưng bay lượn theo lệnh Vũ Lăng. Tráng đinh phản loạn dừng lại, không dám tiến lên. Hai bên trong tư thế gờm nhau.
Đức-Hiệp nói với Vũ Hỷ:
– Ba chúng ta phải xông vào trận. Nếu không, bọn Phùng Vĩnh-Hoa trở về
Côn-minh thì đạo quân của sư phụ bị đánh tập hậu. Nguy lắm.
Ba người đồng múa vũ khí xông vào trận. Cao Chiêu-Hựu phất cờ xanh. Mỗi
người trong bọn Vũ Hỷ bị mười Thần-báo vây vào giữa. Tránh con này, thì
con kia xung vào trận. Vũ Lăng cầm cờ phất. Trên đầu bọn Vũ Hỷ lại bị
một đội Thần-ưng đánh xuống. Ba người múa tít kiếm hộ thân.
Các Lạc-hầu phản loạn, xua quân lao vào trận. Đoàn Thần-báo gầm lên cùng nghênh chiến, trên trời Thần-ưng lại lao xuống tấn công. Có bốn Lạc-hầu đi đầu bị Thần-báo cắn chết. Đám tráng đinh kinh hoảng, vội lui trở
lại. Bọn Đức-Hiệp tả xung hữu đột một lúc, mới làm cho năm Thần-báo bị
thương.
Chúng cùng hô lên một tiếng, lui về trận.
Cao Chiêu-Hựu, Vũ Lăng phất cờ cho Thần-báo, Thần-ưng hưu chiến, cũng dàn trận, chờ đợi.
Bỗng Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang phi ngựa đến nói:
– Hai em mau đem Thần-báo, Thần-ưng tiếp viện sư tỷ Phùng Vĩnh-Hoa. Sư
tỷ đang giao chiến với bọn phản loạn cách đây mười dậm. Để ta với đoàn
Thần-hầu cản hậu được rồi.
Vũ Lăng, Cao Chiêu-Hựu vội phi ngựa, dẫn Thần-báo, Thần-hổ đuổi theo
Phùng Vĩnh-Hoa. Đi hơn giờ, đã thấy phía trước một đạo quân phản loạn
đang bao vây Phùng Vĩnh-Hoa, cùng mọi người vào giữa. Vũ Lăng tinh mắt,
chỉ vào sườn đồi gần đó, nói với Cao Chiêu-Hựu:
– Kìa! Không biết tên nào đứng trên núi, cầm cờ chỉ huy quân phản loạn bao vây chúng mình. Để tao giết nó trước.
Phía sườn đồi, một người cầm cờ Ngũ sắc, chỉ huy. Các Lạc-hầu phản loạn trông theo hiệu kỳ, bao vây bọn Phùng Vĩnh-Hoa.
Vũ Lăng hú lên một tiếng dài. Một toán hơn trăm Thần-ưng bay tới, nhào
xuống tấn công người cầm cờ. Y phải buông cờ, cầm vũ khí chống cự. Các
đội quân phản loạn vốn không thống nhất. Nay mất người chỉ huy, hàng ngũ rối loạn. Giữa lúc đó Vũ Lăng cho Thần-ưng đánh xuống. Cao Chiêu-Hựu
cho Thần-báo xung vào trận. Quân phản loạn vội rút vào sườn núi. Vòng
vây mở rộng. Đạo quân Trần-gia tam-nương qua hai trận đánh, tổn thất khá nhiều, đã mệt mỏi lắm rồi.
Chu Tái-Kênh, Trần Năng xung sát, người đầy máu. Phùng Vĩnh-Hoa thở dài:
– Sư tỷ Trưng Trắc vẫn thường nói: Giặc ngoài dễ đánh, giặc trong khó
phòng. Nay ta mới nếm mùi cay đắng. Hơn hai mươi vạn quân Ngô Hán, chúng ta đuổi chạy tan tác. Không ngờ... không ngờ giữa lúc ta thắng trận, bị bọn Lê Đạo-Sinh đánh phía sau. Bây giờ các Lạc-hầu Tượng-quận theo Hán
hết cả. Chúng ta có dẹp được họ, thì quân chết nhiều, mà các trang ấp
cũng điêu tàn. Vậy phải làm gì? Không biết tình trạng Tượng-quận Tam-anh ra sao? Hiện họ ở đâu? Bây giờ chúng ta mở đường máu, rút sang Quế-lâm, rồi tìm cách an định Tượng-quận sau vậy.
Bà truyền lệnh Trần-gia tam-nương:
– Đạo kị binh trừ bị Tượng-quận đóng cách đây không xa. Ba em mau đến đó, điều động họ tiếp viện bọn ta.
Bà truyền lệnh mọi người dẫn quân sĩ, dựa lưng vào ngọn đồi dàn trận, cố thủ, chờ quân Trần-gia tam-nương.
Có Thần ưng từ xa bay tới. Vũ Lăng gọi xuống. Nó cầm thư đưa cho Phùng Vĩnh-Hoa. Phùng Vĩnh-Hoa cầm thư đọc, thở dài:
– Thế là xong!
Chu Tái-Kênh hỏi:
– Cái gì đã xảy ra?
Phùng Vĩnh-Hoa rơi nước mắt:
– Tượng-quận Tam-anh cùng đạo quân rút về tới thủ đô Côn-minh, lập tức
bị Lê Đạo-Sinh xua năm vạn tráng đinh gốc Hán tiến đánh. Ba ông không
muốn cho quân sĩ giết tráng đinh, truyền rút vào trong thành cố thủ. Đêm đến, binh tướng gốc người Hán làm phản. Chúng nổi dậy, mở cửa thành cho Lê Đạo-Sinh vào. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương dùng Thần-phong
đánh. Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn tung Thần-tượng giải vây. Đánh đến sáng. Thần-tượng chết hết. Thần-phong cũng tuyệt. Phạm Nga-Nương,
Nghiêm Đôn tự tử. Tượng-quận Tam-anh cũng tự tử theo.
Chu Tái-Kênh, Trần Năng nhìn Phùng Vĩnh-Hoa. Người người ngớ ngẩn, không biết giải quyết sao.
Thình lình có tiếng ngựa hí, quân reo. Phía sau bọn Đức-Hiệp, Vũ Hỷ đã
đuổi tới. Quân phiến loạn hai đạo hợp làm một đông đến bảy tám vạn
người.
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi Vũ Lăng:
– Lê-Đông-Giang với đạo Thần-hầu đâu? Dường như họ bị giết hết rồi, nên bọn Đức-Hiệp mới tới đây được.
Vũ Lăng đáp:
– Thưa không phải thế. Chiến thuật của Thần-hầu thường ẩn trong rừng. Thình lình đánh vào phía sau địch.
Trần Năng bàn:
– Đạo quân Đào Chiêu-Hiển, Đô-Thống, Tam-Lang hiện đóng gần đây. Chúng
ta cho Thần-ưng mang thư cầu cứu. Một mặt chúng ta rút về phía đó.
Phùng Vĩnh-Hoa cầm bút viết thư, sai Thần-ưng đi liền. Mọi người ngồi nhắm mắt dưỡng thần.
Đến nửa đêm, có tiếng khỉ kêu trên núi. Lê Đông-Giang cùng đoàn Thần-hầu đã về tới. Chàng nói:
– Em chịu tội với chị. Đội Thần-hầu chỉ có ba trăm con. Em cố sức cản được chúng hơn giờ. Sau đành rút vào rừng, trở về đây.
Phùng Vĩnh-Hoa an ủi Hắc-hầu tướng mấy câu.
Trời gần sáng. Lê Đông-Giang lên núi nói với Phùng Vĩnh-Hoa:
– Sư tỷ. Đêm qua, quân sĩ gốc người Hán bỏ hàng ngũ chạy theo Đức-Hiệp
hết. Khi rời Độ-khẩu, ta có một vạn người. Tổn thất hai trận còn tám
ngàn. Hiện chúng bỏ đi gần hết. Chỉ còn hơn hai ngàn binh sĩ gốc người
Việt mà thôi. Bây giờ chúng ta phải làm gì?
Phùng Vĩnh-Hoa gọi Cao Chiêu-Hựu:
– Em cho Thần-báo phục trong rừng. Cản quân phản loạn. Còn chúng ta rút
về phía Bắc, gặp Đào Chiêu-Hiển, rồi sẽ liệu. Bây giờ, các trang ấp
người Hán đều theo Lê Đạo-Sinh cả. Bốn bề toàn quân thù. Đành phải rút
vậy.
Đoàn người âm thầm rút trong đêm. Trưa hôm sau Phùng Vĩnh Hoa gặp đạo
quân của Đào Chiêu-Hiển. Đặng Đường-Hoàn nhìn Phùng Vĩnh-Hoa, ông thở
dài:
– Phép dùng binh thì cần thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Chúng ta không
có thời, Công-tôn Thi mới hàng Hán. Nhân hòa, chúng ta không có, vì dân
toàn dân Hán. Người Hán ở khắp nơi, họ luôn tự cho mình là con trời. Cho dù mình có hậu đãi đến đâu, họ vẫn quay đầu về cố quốc. Cháu cứ bình
tĩnh rút về Quế-lâm cùng Đào Kỳ báo phục sau. Sư thúc cùng các sư đệ
quyết chiến một trận, rồi chết cũng đành.
Trần Năng rất quan tâm đến bệnh tình Đinh Xuân-Hoa. Bà cầm mạch, rồi nói:
– Không sao. Thái sư mẫu chỉ bị ngoại thương thôi.
Phùng Vĩnh-Hoa tường trình mọi biến cố cho Đinh Xuân-Hoa với ba anh em họ Đào nghe. Đào Đô-Thống nói:
– Phía trước chúng ta đối diện với gần mười vạn quân Hán. Bốn bên trang
ấp đều nổi dậy. Phía sau hơn mười vạn tráng đinh theo phe phản nghịch.
Bây giờ chúng ta phải rút về Quế-lâm, rồi hãy định liệu.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu đồng ý.
Bỗng quân vào báo:
– Có một tướng Thục, xưng là Vương Thọ, bị thương nặng. Đến xin cầu kiến công chúa.
Phùng Vĩnh-Hoa kinh hoảng, vội chạy ra ngoài trướng. Vương Thọ người đầy thương tích. Y thấy Phùng Vĩnh-Hoa, oà lên khóc:
– Công chúa! Đất Thục thôi rồi! Còn gì nữa đâu?
Đào Chiêu-Hiển đỡ Vương Thọ đặt lên tấm nệm cỏ. Trần Năng chẩn mạch. Bà
vận Lĩnh-Nam chỉ, điểm mấy cái. Vương Thọ tỉnh táo hơn. Bà lấy vải băng
bó các vết thương cho y, cùng bôi thuốc cầm máu. Vương Thọ vừa khóc vừa
thuật:
– Sau khi Công chúa Vĩnh-Hoa với các vị về Tượng-quận, thi Công-tôn Thi
truyền bắt các tướng theo cha tôi phải giao quân mã lại cho các tướng
của y. Cha tôi không chịu, xảy ra cuộc cãi vã. Cuối cùng đi đến dụng võ. Cha tôi giết chết Công-tôn Thi tại chỗ. Các tướng chia làm hai phe đánh nhau mù trời. Trong các thành thuộc Thục, quân tướng cũng chia hai giết nhau. Thình lình Ngô Hán, Vương Bá đem quân đánh úp. Chỉ một ngày một
đêm, lấy hết các thành Thục. Tôi cùng một số vệ sĩ chạy về Độ-khẩu tìm
công chúa. Được biết Tượng-quận Tam-anh tuẫn quốc. Tôi tìm đến đây báo
cho công chúa biết mọi sự.
Phùng Vĩnh-Hoa bật thành tiếng than:
– Chao ôi! Từ khi mới đến Dương-bình quan gặp thái tử Công-tôn Tư. Trong lòng tôi nảy ra ý liên kết với Thục. Đất Thục nhiều nhân tài. Thiên-sơn thất hùng chí khí hơn đời. Chỉ vì nội loạn Công-tôn Thi mà mất nước.
Chúng tôi cũng chỉ vì Lê Đạo-Sinh mà khôn đốn thế này. Nào chúng ta hãy
rút về Quế-lâm.
Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang tán thành:
– Vậy Chu, Đặng sư bá với các sư huynh, sư tỷ rút quân đi.
Trần Năng hỏi:
– Các em đi cản hậu à?
Lê Đông-Giang rút kiếm chỉ lên trời nói:
– Chúng em xuất thân là đệ tử Tây-vu. Võ công Tây-vu không cao. Văn học
Tây-vu không giỏi. Nhưng có một điều, khi chúng em học, thường ngày luôn miệng nhắc. Là đệ tử Tây-vu. Đầu có thể rời. Xác có thể tan nát, máu có thể nhuộm đất. Chứ không bao giờ nhường đất cho giặc. Các sư tỷ rút lui về Quế-lâm đi. Bọn em nguyện chết với đất Tượng-quận.
Phùng Vĩnh-Hoa quát:
– Ta làm chúa tướng. Các em phải nghe lệnh ta, rút lui, bảo tồn chủ lực.
Vũ Lăng ứa nước mắt nói:
– Quân đoàn sáu Tây-vu được lệnh trấn Tượng-quận. Tượng-quận là quân
đoàn sáu. Quân đoàn sáu là Tượng-quận. Hôm nay đệ tử Tây-vu nhất định
chết với Tượng-quận. Chúng em sẽ đánh đến hơi thở cuối cùng.
Sư-trưởng Thần-long Cao Nguyệt-Nương khóc nức nở:
– Chúng em không trông rộng nhìn xa bằng sư tỷ. Chúng em không phải đại
tướng quân. Chúng em được đặt dưới quyền Tượng-quận Tam-anh. Hoàng-đế
truyền chỉ dặn chúng em hai nhiệm vụ: Trấn thủ Tượng-quận, hỗ trợ Thục.
Việc hỗ trợ Thục chúng em làm trọn vẹn. Không ngờ Tượng-quận xảy ra vụ
Lê Đạo-Sinh. Đất Lĩnh-Nam mất Tượng-quận, đất tổ mất một phần sáu. Thôi, bao nhiêu công lao chúng em lập được với Lĩnh-Nam coi như bỏ hết, đổi
lấy việc chúng em không tuân lệnh chị.
Nàng khóc oà lên:
– Chúng em chọn cái chết. Bến Bồ-lăng là nơi chôn xác bọn em. Tấm thân
của chị đáng giá vạn cổ xe. Chị hãy rút về Quế-lâm, cùng Bắc-bình vương
Đào Kỳ, chỉnh bị binh mã trả thù cho bọn em.
Sư trưởng Thần-ưng Vũ Lăng cầm kiếm chỉ lên trời:
– Trời hỡi trời. Đất nước Lĩnh-Nam chúng ta không thiếu anh tài. Không
thiếu những đứa con hiếu, sẵn sàng chết cho Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Chúng ta
thua chẳng qua đất chúng ta hẹp. Dân chúng ta ít! Chị Vĩnh-Hoa, sau vụ
nổi loạn Tượng-quận, thế nào Lê Đạo-Sinh cũng sẽ làm tương tự ở Quế-lâm, Nam-hHải. Chúng em quyết tử một trận, làm cho hàng ngũ giặc hao tổn.
Chúng không thừa thế kéo sang Quế-lâm nổi.
Phùng Vĩnh-Hoa lắc đầu:
– Các em nói không đúng. Lê Đạo-Sinh mang chiếu chỉ của Quang-Vũ thăng
quan cho bọn cựu quan lại Hán. Phong chức tước cho bọn Lạc-hầu, Lạc-công gốc người Hán. Y lại hứa cho dân chúng khỏi thuế. Họ nhẹ dạ nghe theo
Hán. Chúng ta cứ tạm rút đi. Khi quyền vào tay, Quang-Vũ sẽ trở mặt, cử
quan lại mới tới. Y sẽ bỏ chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng, bắt dân chúng đóng
thuế nặng, sung tráng đinh làm lính. Bấy giờ người Hán mới mở mắt ra.
Chúng ta chỉ truyền một tờ hịch. Tượng-quận lại trở về với Lĩnh-Nam.
Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang nói:
– Chúng em có sáu đại tướng. Sư trưởng Thần-ngao Vũ Dương đã tuẫn quốc
cùng với sư bá Hàn Đức. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương, sư trưởng
Thần-tượng Nghiêm Đôn tuẫn quốc cùng với Tượng-quận tam-anh. Tại đây
chúng em còn sư hầu, hổ, báo, ưng, long. Tuy tổn thất nhiều, cũng nhất
quyết đánh một trận kinh thiên động địa, rồi chết với Tượng-quận. Chúng
em không thể tuân lời chị. Thôi chị hãy rút đi. Bọn em đã quyết rồi.
Phùng Vĩnh-Hoa nhớ lại, hồi trước nàng sống cạnh Hồ Đề, nàng đã nghe nói nhiều về phương pháp huấn luyện của đệ tử Tây-vu. Trong khi tập, họ chỉ học tiến mà không học thoái, vì võ đạo Tây-vu không chấp thuận lui
trước địch quân. Bây giờ nàng có truyền lệnh nghiêm đến đâu, đám tướng
soái này chắc cũng khôing chịu lùi.
Đến đây, có tiếng quân reo, ngựa hí. Lê Đông-Giang bám lấy cây, thoắt cái, chàng đã lên đến ngọn. Chàng nói vọng xuống:
– Phía nam có một đạo quân hàng lối không chỉnh. Chắc quân của Lê
Đạo-Sinh. Phía tây có đạo thủy quân, theo sông Ô-giang tới. Trên bờ còn
đoàn kị binh rất hùng tráng, kéo cờ Hán.
Đào Chiêu-Hiển cùng các em chuẩn bị đối phó. Ông nói:
– Quân cần có quân phong, quân thế, quân khí. Nay cả ba đều không còn.
Quân sĩ người Hán có muốn trung thành với mình cũng không được. Bởi
trang ấp của họ, nơi cha mẹ, vợ, con họ ở đã thuộc về Hán. Họ đâu còn
tinh thần chiến đấu nữa?
Phùng Vĩnh-Hoa thở dài não nuột. Bà truyền lệnh:
– Chúng ta cùng tử chiến. Hôm nay là ngày chúng ta chết cho Lĩnh-Nam đây. Lê Đông-Giang, em điều động đi.
Lê Đông-Giang truyền lệnh:
– Sư đệ Vũ Lăng chia Thần-ưng làm ba. Một lữ đánh đạo quân Hán. Một lữ
đánh đạo quân Lê Đạo-Sinh. Một lữ bay trên đầu bảo vệ các chúa tướng.
Vũ Lăng leo lên ngọn cây. Nó cầm tù và thổi lên tiếp ba hồi dài. Các
tướng Thiên-ưng cùng leo lên cây, cầm cờ. Thần-ưng bay lượn trên trời.
Lê Đông-Giang tiếp:
– Sư muội Cao Nguyệt-Nương dàn sư Thần-long trên các cây ven rừng.
Chàng tiếp:
– Sư đệ Cao Đà dàn sư Thần-hổ bên trái. Sư đệ Cao Chiêu-Hựu dàn sư Thần-báo bên phải. Ta sẽ dàn sư Thần-hầu phía sau.
Chàng ngồi trên lưng ngựa. Hai bên hơn trăm đười ươi cầm đao đứng hộ vệ. Trên đầu, lá cờ Lĩnh-Nam bay phất phới.
Đạo quân Hán tới trước. Người đi đầu là Vương Bá. Phía sau y, là hai sư
đệ Hà Chi, Phạm An đi hai bên. Vương Bá tới gần trận Lĩnh-Nam. Y gò
cương ngựa lại hỏi:
– Ta muốn gặp công chúa Phùng Vĩnh-Hoa.
Lê Đông-Giang đáp:
– Công chúa Nguyệt-Đức không có mặt ở đây. Chẳng hay Quân-hầu muốn gặp mặt sư tỷ của tôi có việc gì?
Vương Bá đáp:
– Phùng Vĩnh-Hoa hợm mình mưu thần chước thánh. Chỉ mười vạn quân đánh
tan hai mươi vạn quân Ngô Hán. Thế sao không đầy tháng qua, Thục bị đánh tan, Tượng-quận bị mất. Nay phải trốn chạy? Các ngươi còn nhỏ tuổi. Hãy mau xuống ngựa đầu hàng. Trước toàn mạng sống. Sau không mất phú quí.
Cao Đà cười nhạt:
– Đất Lĩnh-Nam của tôi dân ít, mới phục hồi, chứ chúng tôi không thiếu
người tuấn kiệt. Thục thua Hán vì có Công-tôn Thi. Lĩnh-Nam thua Hán vì
có thầy trò Lê Đạo-Sinh. Tuy vậy. ở đây chúng tôi còn không quá sáu trăm đệ tử Tây-vu, cũng xin nghinh tiếp Quân-hầu.
– Ba chúng bay là gian tế Lĩnh-Nam. Bọn bay hèn hạ đánh lừa chúng ta,
chiếm được bốn thành. Song lưới trời lồng lộng, rút cuộc tụi bay cũng bị bại.
Chu Tái-Kênh cười:
– Binh thư nói: Việc binh cần phải dối trá. Huống hồ chúng tôi vì việc nước. Mong thái thú miễn chấp.
Có tiếng quân reo, ngựa hí ầm ầm. Đạo quân Lê Đạo-Sinh đã tới. Đi trước y một lá cờ Hán bay phất phới, có hàng chữ:
Lĩnh-Nam công, Lê.
Phía sau y, bên phải có Đức-Hiệp. Bên trái có vợ chồng Phong-châu song quái, cùng mấy chục Lạc-hầu người Hán.
Lê Đạo-Sinh thấy Chu Tái-Kênh, chỉ mặt mắng:
– Ngươi bất quá là con nô tỳ của Thái-hà trang. Hà cớ gì dám xưng vợ của Trần sư huynh? Mi phải biết rằng đất Tượng-quận này thuộc Lĩnh-Nam.
Kiến-Vũ thiên tử đã phong cho ta làm Lĩnh-nam công. Ngươi mau đầu hàng,
ta sẽ tha cho.
Chu Tái-Kênh quát lên một tiếng phóng chưởng tấn công Lê Đạo-Sinh.
Chưởng cực kỳ hùng hậu. Lê chỉ chậm trễ một chút, chưởng phong đã bao
trùm người y. Y vội vọt người lên cao, chưởng trúng con ngựa của Lê cỡi. Binh một tiếng, con ngựa hí lên một tiếng thê thảm, bay ra xa, dẫy dụa
vài cái, rồi nằm im.
Lê Đạo-Sinh giận cành hông. Y xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Chu
Tái-Kênh cười nhạt. Bà cũng xuất chiêu Ác ngưu nan độ, bà vận âm kình.
Chưởng của Lê Đạo-Sinh gió lộng ào ào, gặp chưởng lực của bà, biến mất
tích. Lê Đạo-Sinh hoảng hốt nghĩ:
– Ta tưởng trên đời này, chỉ có tên ôn con Đào Kỳ có thể xử dụng âm
dương chưởng một lúc. Không ngờ mụ già này cũng biết xử dụng.
Y vận sức xuất chiêu Thanh ngưu qui gia. Chu Tái-Kênh cũng xuất cùng
chiêu. Song bà vận Âm kình. Hai người quay quần đấu với nhau.
Vũ Hỷ thấy Lê Đông-Giang đứng giữa mấy con đười ươi. Y nghĩ:
– Muốn thắng trận hôm nay, phải bắt mấy thằng ôn con này.
Y lạng người một cái đã đến trước ngựa Lê Đông-Giang. Đông-Giang quát
lên một tiếng. Từ sau lưng chàng, bốn con trăn trong túi vải vọt ra.
Chúng phóng vào người Vũ Hỷ. Vũ Hỷ kinh sợ, lộn người đi hai vòng tránh
khỏi. Đinh Xuân-Hoa chống kiếm đến trước mặt Vũ Hỷ cười nhạt:
– Phong-châu song quái. Hôm nay ta đòi mi món nợ mi đánh Đinh, Đào trang hơn mười năm trước.
Bà xuất chiêu tấn công y. Vũ Hỷ cười nhạt:
– Tưởng gì, chứ muốn tự tử thì dễ quá.
Y xuất chưởng chống trả. Hai chưởng gặp nhau. Binh một tiếng. Người y lảo đảo lui lại ba bước. Y giật mình:
– Trước đây võ công mụ này thua xa vợ chồng mình. Nay sao tiến nhanh đến trình độ này?
Y có ngờ đâu, trong thời gian ở đảo, bà chuyên tâm luyện công phục thù,
võ công vốn đã ngang với y. Trong lần hội quân đánh Luy-lâu, Đào Kỳ
truyền tâm pháp trong bộ Văn-lang vũ kinh cho bà. Vì vậy nay võ công bà
bỏ xa y.
Đặng Đường-Hoàn quát lên một tiếng phóng chưởng đánh Lê Đức-Hiệp. Lê
Đức-Hiệp biết không phải đối thủ của ông, song y vẫn nghiến răng chống
trả. Sáu người, chia làm ba cặp thi diễn cuộc đấu.
Vũ Phương-Anh thấy chồng gặp hung hiểm. Y thị xuất chiêu đánh Đinh
Xuân-Hoa. Cao Đà hú lên một tiếng, mười Thần-hổ nhảy tới vồ Vũ
Phương-Anh.
Phùng Vĩnh-Hoa bảo Trần Năng, Trần-gia tam-nương:
– Bọn em hãy hộ vệ thương binh cùng Vương Thọ rút về hướng Quế-lâm. Cách đây không xa, là chỗ đồn trú của đạo binh trừ bị Phù-đổng. Em báo cho
họ biết. Họ kéo đến tiếp viện chúng ta.
Đám Lạc-hầu phản loạn người Hán xua tráng đinh xông vào trợ chiến. Lê
Đông-Giang phất cờ ra lệnh phản công. Trên trời Vũ Lăng cho Thần-ưng lao xuống tấn công. Cao Đà, Cao Chiêu-Hựu xua Thần-báo xung vào trận. Quân
phản loạn thấy hổ, báo, kinh hồn lui trở lại. Chúng lấy cung tên bắn
Thần-hổ, Thần-báo. Nhưng hổ, báo đã lẫn vào với trận của chúng. Tráng
đinh trang ấp thuộc Lĩnh-Nam đều được huấn luyện chiến đấu như những đạo quân thực thụ. Họ chỉ thua các đạo quân chuyên nghiệp việc phối hợp
nhiều người mà thôi. Bây giờ các Lạc-hầu Hán xử dụng họ đánh lại
Lĩnh-Nam. Họ can đảm, chống trả được với hổ, báo.
Trận chiến kéo dài hơn giờ. Có gần trăm Thần-hổ, báo bị giết. Thần-ưng
bị chết, chỉ còn hơn trăm. Xác người, xác thú nằm chồng chất trên cánh
đồng.
Các Lạc-công thấy tráng đinh chết nhiều quá, muốn xin lệnh Lê Đạo-Sinh
rút lui. Song Lê bị Chu Tái-Kênh đánh rát quá, không còn thời giờ chỉ
huy.
Một Lạc công nói với Vũ Hỷ:
– Xin thái thú cho rút quân. Bọn chó Việt cùng đường, tử chiến. Một người liều mạng, trăm người khó cản.
Vũ Hỷ thấy y gọi người Việt là chó Việt, đã bất mãn. Nhân y muốn rút quân, Vũ Hỷ cầm kiếm lăm lăm trong tay:
– Ai lùi một bước ta chém liền.
Một Lạc-công bị Thần-hổ vồ, bỏ chạy. Vũ Hỷ chặt đầu rơi xuống đất. Quân phản loạn kinh hoảng, phải tiến lên.
Phong-châu song quái đấu với Đinh Xuân-Hoa ngang tay. Đúng ra với bản
lĩnh của bà, bà có thể thắng cặp vợ chồng quái quỉ. Nhưng vì bị thương
đến bốn chỗ, thành ra công lực giảm đi rất nhiều.
Ba anh em Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang đứng đốc xuất hơn
hai nghìn chiến sĩ Việt bảo vệ phía sau cho các chúa tướng Tây-vu. Thấy
binh đội Tây-vu sắp bị diệt. Ba ông hô lên một tiếng, đám chiến sĩ Việt
xông vào trận.
Trận chiến kéo dài tới gần chiều. Thần-hổ, báo chỉ còn hơn năm mươi con. Thần-ưng không còn quá trăm. Phía bên phản loạn, xác tráng đinh phơi
đầy đồng.
Lê Đạo-Sinh đấu với Chu Tái-Kênh đến hơn năm trăm chiêu bất phân thắng bại. Phía Phong-châu song quái chỉ còn thở hổn hển.
Đặng Đường-Hoàn phóng một chưởng, đánh Lê Đức-Hiệp bật lui phía bờ sông. Đinh Xuân-Hoa đánh lui Vũ Phương-Anh. Giữa lúc chúng nguy nan, thì
thình lình ba tiếng trống nổi lên. Đoàn kị mã Vương Bá xung vào trận.
Chỉ một lát, đám Thần-hổ cuối cùng bị giết sạch.
Cao Đà nhìn Thần-hổ cuối cùng bị giết. Nó quát lên một tiếng lớn, kị mã Hán lui lại. Nó ngửa mặt lên trời than:
– Trưng hoàng-đế phán: Quân với tướng như chân tay. Quân chết, đất mất. Ta còn sống làm gì?
Nó đưa kiếm tự tử. Máu từ cổ vọt ra có vòi. Xác ngã lộn xuống chân ngựa. Vợ Cao Đà là Cao Nguyệt-Nương. Nàng thấy chồng tự tử. Lập tức cầm ống
tiêu thổi lên. Mấy ngàn con rắn cùng bò ra xông vào trận Hán. Ngựa bị
rắn quấn, cắn, hí inh ỏi. Kị binh vội lùi lại. Bộ binh lấy lửa đốt lên.
Thần-long lui vào rừng. Nguyệt-Nương ôm xác Cao Đà. Nàng ngửa mặt lên
trời than:
– Làm tướng giữ đất, làm gái theo chồng. Đất mất, chồng chết. Ta chết theo chồng.
Bà đưa kiếm lên cổ tự tử.
Sau trận Tượng-quận, Bắc-bình vương Đào Kỳ đem xác vợ chồng Cao Đà, Cao
Nguyệt-Nương về quê quán ở Tây-vu chôn. Trưng hoàng-đế phong Cao Đà làm:
Trung Liệt Đại Tướng Quân.
Cao Nguyệt-Nương làm:
Thần-long Công-chúa.
Truyền xây đền thờ. Cho đến nay, đền vẫn còn tại xã Phú-hòa, huyện
Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng không nhớ họ hai vị anh hùng, họ chỉ
gọi vắn tắt: Đền thờ Đà-Công và Nguyệt-Nương.
Hắc-hổ tướng Lê Đông-Giang xé vạt áo. Chàng cắn ngón tay viết biểu tâu về Trưng hoàng-đế:
"Bọn thần các chúa tướng quân đoàn sáu Tây-vu, khép nép cúi đầu thượng
biểu lên hoàng-đế bệ hạ. Hai năm trước đây, bệ hạ chỉ dụ bọn thần trấn
nhậm Tượng-quận với hai mục đích : Trong giúp Tượng-quận Tam-anh, ngoài
yểm trợ Thục. Bọn thần tuy trẻ người, non dạ, tài thô, trí thiển. Song
ngày đêm nào dám sao lãng nhiệm vụ.
Vừa qua, bọn thần theo công chúa Nguyệt-Đức, đánh tan hai mươi vạn quân
Hán. Nào ngờ bọn Lê Đạo-Sinh, đốc xuất người Hán "Bình man qui Hán". Bọn thần đã hết sức mình. Song sức người có hạn.
Trận đánh Vĩnh-thiên, Tây-vu Ngao-tướng Vũ Dương chiến đấu đến chết.
Trận đánh Côn-minh, Tây-vu Tượng-tướng Nghiêm Đôn, Thanh-Phong công chúa Phạm Nga-Nương thế cùng, binh kiệt, đành dùng lưỡi gươm, xử tội mình vì không bảo vệ nổi Tượng-quận Tam-anh.
Hôm nay, quân Hán hơn mười vạn, quân phản loạn hơn mười vạn. Bọn thần đã làm hết sức mình, mà Tượng-quận vẫn mất. Vì vậy bọn thần kính dâng tờ
biểu này, khóc đến chảy máu mắt, cúi xin bệ hạ xá tội cho. Anh em bọn
thần, đành mượn lưỡi gươm, tự kết liễu đời mình trên bến Bồ-lăng.
Chàng gọi cặp Thần-ưng xuống, buộc mảnh vải vào chân, rồi hú lên một tiếng. Cặp Thần-ưng bay bổng về phương nam.
Chàng thản nhiên nhìn đoàn Thần-hầu chiến đấu tuyệt vọng. Chàng hỏi Vũ Lăng:
– Xong chưa em.
Vũ Lăng đáp:
– Xong rồi.
Hai người đưa gươm lên cổ tự tử.
Bọn Lê Đạo-Sinh, Phong-châu song quái đã lui lại. Chu Tái-Kênh, Đinh
Xuân-Hoa, ba anh em Đào Chiêu-Hiển tả xung hữu đột giữa trùng vây. Cứ
mỗi gươm đưa ra, một đầu tên quân Hán rơi xuống. Trời chập choạng tối.
Vương Bá đứng trên ngọn đồi cầm ngọn đèn chỉ huy. Thấy bọn Chu Tái-Kênh
chạy đến đâu, thì chỉ đến đó.
Đinh Xuân-Hoa mệt quá. Bà chém liền ba tướng Hán. Chúng vẫn ùn ùn kéo
lên. Bà lui tới bờ sông, dựa vào gốc cây, múa kiếm như hoa rơi tuyết
lạc.
Đặng Đường-Hoàn cùng ba đệ tử họ Đào đứng dựa vào nhau chiến đấu. Quân
Hán chết lớp này, lớp khác tiến lên. Đặng Đường-Hoàn bị một mũi tên vào
ngực. Ông loạng choạng ngã xuống. Vương Bá thấy vậy vọt ngựa tới định
bắt sống. Ông nghiến răng phóng một chưởng. Vương Bá vung tay đỡ. Binh
một tiếng, y bay vọt về sau, miệng phun máu có vòi.
Phạm An dẫn đội cung thủ đến chĩa vào Đặng Đường-Hoàn và ba anh em họ Đào. Y hô lớn:
– Buông kiếm đầu hàng. Ta để cho được sống.
Đặng Đường-Hoàn hỏi các đệ tử:
– Xong chưa?
Cả ba cùng trả lời:
– Xong rồi!
Bốn người đồng vung kiếm lên cổ tự tử một lúc.
Đinh Xuân-Hoa thấy Đặng Đường-Hoàn, anh em họ Đào tự tử. Bà hơi phân
tâm, thì bị bốn mũi kiếm trúng ngực. Bà quát lên, một tiếng, vọt lên cao chém bay đầu một viên tướng rơi xuống.
Bà vung kiếm tự đâm vào giữa ngực, máu phun ra như suối.
Vừa lúc đó có tiếng quát:
– Mẹ ơi! Khoan đã, con đến tiếp viện đây!
Nhưng đã trễ!
Một đội thiết kị phi như bay tơí. Đi đầu là Đào Kỳ, Phương-Dung, xung
vào trận Hán. Đạo binh đánh bạt quân Hán trở về bên kia sông. Chỉ một
hiệp Đào Kỳ đánh bay Lê Đạo-Sinh xuống ngựa. Đạo Thiết-kị xung vào đội
tráng đinh như chỗ không người. Tráng đinh thấy Lê Đạo-Sinh, Đức-Hiệp,
Vũ Hỷ đều bị thương bỏ chạy. Chúng cũng chạy theo.
Phía sau Trần-gia tam-nương, Trần Năng trở lại.
Đào Kỳ ôm lấy xác mẹ khóc thảm thiết. Trần Năng cầm mạch Đinh Xuân-Hoa,
thấy còn nhảy, nàng phóng một chỉ vào huyệt Bách-hội của bà. Bà từ mở
mắt ra. Thấy mình nằm trong lòng con trai, ba mỉm cười:
– Con đấy à. Mẹ tình nguyện nhận lĩnh nhiệm vụ để chết, sớm gặp bố con.
Đất nước còn nhiều gian nan. Con chẳng nên buồn làm gì. Nếu mẹ không
chết hôm nay, vài chục năm sau mẹ cũng chết. Chết cho đất nước, mới là
chết.
Đến đấy bà từ từ nhắm mắt.
Phương-Dung hỏi:
– Có ai thấy công chúa Nguyệt-Đức đâu không?
Một chiến sĩ Việt sống sót chỉ vào đám xác chết. Phương-Dung chạy lại
bồng xác Phùng Vĩnh-Hoa lên. Bà bị thương bốn chỗ, song vẫn còn sống.
Trần Năng tìm xác Chu Tái-Kênh. Thấy còn hơi nóng. Bà vận khí dùng
Lĩnh-Nam chỉ phóng vào người sư nương. Một lát Chu Tái-Kênh đã tỉnh dậy. Bà mơ màng hỏi:
– Đây là đâu?
Trần Năng đáp:
– Chúng con vừa rút khỏi đây hơn năm mươi dặm, thì gặp sư thúc Đào Kỳ,
sư thẩm Phương-Dung, cùng đạo Thiết-kị Lĩnh-Nam tiếp viện. Sư thúc đánh
lui đạo binh Vương Bá rồi.
Ghi chú :
Trận đánh Tượng-quận xảy ra vào ngày 19 tháng sáu đến ngày 5 tháng bảy
năm Tân-sửu, 41 sau Tây Lịch. Nhằm niên hiệu Trưng-đế năm thứ hai. Bên
Trung-nguyên là niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười bảy đời vua Quang-Vũ nhà Hán.
Bắc-bình vương Đào Kỳ truyền khâm liệm các tướng tuẫn quốc, đưa về
Giao-chỉ. Vua Trưng cùng triều thần thân rước linh cữu, làm lễ tế, đưa
về quê an táng.
Hắc-hổ tướng Lê Đông-Giang được phong làm:
Trung-dũng Đại tướng-quân.
Đền thờ của ông trải qua gần hai nghìn năm, hiện nay vẫn còn tại xã
Liên-hà, huyện Đông-anh, Hà-nội. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông
Đông-Giang. Mà không thấy nhắc đến họ của ông.
Ba tướng Vũ Lăng, Vũ Dương, Nghiêm Đôn đều được phong:
Trung-nghĩa Đại tướng-quân.
Phạm Nga-Nương được phong:
Nga-nương Quận-chúa.
Bốn vị được thờ chung tại một đền. Đến nay, đền thờ bốn vị còn tại xã
Minh-tân, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ
Nga-Nương, Lăng-Công, Nghiêm-Công và Dương-Công.
Cao Chiêu-Hựu được phong làm:
Dũng-lược Đại tướng-quân
Hiện nay đền thờ của ông hãy còn tại xã Nhân-thắng huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Chiêu-Hựu.
Đào vương phi Đinh Xuân-Hoa trước đã được phong làm:
Tĩnh-trai Công-chúa.
Nay đổi phong làm:
Chí Nhu, Đoan Minh, Anh vũ, Duệ văn Tĩnh-Trai Công-chúa.
Trưng hoàng-đế cùng các đại thần đích thân đứng tế lễ. Bởi bà là một
trong những phụ nữ có nhiều công lao nhất với Lĩnh-Nam. Suốt từ hồi niên thiếu bà cùng chồng là Đào Thế-Kiệt, nằm gai nếm mật, chịu trăm cay
nghìn đắng cho đến khi phục hồi Lĩnh-Nam thì Đào vương lại chết. Đệ tử
Cửu-chân hiện giữ quyền nghiêng nước. Đào Kỳ lĩnh Đại tư-mã. Nguyễn
Phương-Dung lĩnh chức tể tướng. Hoàng Thiều-Hoa được tôn là thái hậu.
Các đệ tử như Đào-hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Đào
Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Trần Dương-Đức, Thiên-ưng Lục-tướng, Lục-hầu
tướng đều làm đại tướng quân. Bà được kể là phụ nữ có nhiều đức nhất, vì cùng chồng dạy con, dạy đệ tử, dâng hiến cho Lĩnh-Nam các anh tài.
Hiện nay còn đền thờ bà tại xã Lai-hạ, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Tĩnh-trai.
Ba anh em Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang trước đây đã được
phong làm Phiêu-kị đại tướng quân, tước tới hầu. Nay tuẫn quốc. Trưng
hoàng-đế truyền làm bài văn tế, xây đền thờ thực lớn ở trang ấp cũ của
ba ông. Đền đó hiện nay nằm tại thôn Ngọc-động, xã Đa-tốn, huyện
Gia-lâm, tỉnh Hà-nội. Sắc phong Đặng Đường-Hoàn và ba đệ tử làm:
Trang-liệt, Chí-nghĩa Đại-vương.
Trước đền thờ có đôi câu đối:
Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,
Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.
Dịch nghĩa: Trận đánh Tượng-quận oai hùng, nhiều tướng thao lược tỏ được tài trí. Bến Bồ-lăng trung thần tuẫn tiết tận nghĩa với non sông.
Một câu khác:
Tái bắc tức chinh trần, công cao trục Định.
Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng.
Nghĩa là: Ải bắc yêu gió bụi can qua, công đầu đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi ba đào căm giận, nghĩ nặng phù vua Trưng.
Đến đây phải mở một cái ngoặc về tiểu truyện ba ngài. Từ sau khi vua Ngô Quyền phục hồi độc lập, lãnh thổ Việt-Nam chỉ chiếm lại được vùng
Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Còn vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải
không đòi lại được. Sử gia cũng như dân chúng đời sau có cái nhìn thu
gọn vùng đất này. Họ quên mất ba quận phía Bắc. Vì vậy khi cuốn phổ tại
đền ba ngài bị Trương Phụ mang về Trung-nguyên. Người ta chép lại sử ba
ngài, cho rằng ba ngài tuẫn quốc ở bến Bồ-đề. Căn cứ vào chữ Bồ-lăng Như vậy thực vô lý. Tại sao ba ngài đánh trận Tượng-quận dương uy, rồi về
mãi bến Bồ-đề mà tự tử? Từ Tượng-quận đến Bồ-đề xa hơn hai nghìn cây số. Ba ngài thua trận thì phải tự tử tại chỗ. Chứ có đâu ruổi ngựa hai ngàn cây số đến Bồ-đề tự tử? Tên bến Bồ-đề mãi đời Lê mới có, thì làm gì
thời Lĩnh-Nam các ngài đã chạy về đó tuẫn quốc? Chỉ độc giả Anh-hùng
Lĩnh-Nam (Cẩm-khê di hận) mới được biết lãnh thổ Lĩnh-Nam hồi đó gồm cả
Vân-nam, Trung-quốc. Ba ngài đánh trận lừng danh và tự tử ở bến Bồ-lăng. Bến Bồ-lăng là bến nằm giữa ngã ba sông Trường-giang với sông Ô-giang.
Nay thuộc huyện Bồ-lăng tỉnh Tứ-xuyên, Trung-quốc.
Vào năm 1983 chúng tôi đã tới đây tìm hiểu di tích thời Lĩnh-Nam mà
người Trung-Hoa gọi là Vua Bà. Họ đều xác nhận Bồ-lăng là nơi xảy ra
trận đánh giữa ba đại tướng của vua bà với quân Hán. Ba tướng tuẫn quốc
cùng một lúc. Trước 1949 còn đền thờ. Sau này mới bị phá hủy.