Trận Stalingrad (1942-1943) là trận đánh lớn của Chiến tranh Xô-Đức xảy ra trong thời gian Thế chiến thứ hai giữa quân đội Đức và hồng quân Liên Xô vì thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở miền Nam nước Nga.
Đây là trận đánh đẫm máu nhất có quy mô cực kỳ to lớn mà cho đến nay vẫn là kỷ lục cho mọi cuộc chiến tranh. Trận đánh có quân số của mỗi bên huy động đều gồm nhiều triệu quân và bên nào cũng có số binh sĩ chết lớn chưa kể số bị thương và mất tích. Trận đánh diễn ra trong khoảng hơn nửa năm và thực chất là hai giai đoạn nối tiếp nhau:
• Giai đoạn đầu là cuộc tiến công của quân đội Đức trong chiến cục mùa hè năm 1942 và kết thúc bằng việc quân Đức tiến được tới bờ sông Volga tấn công và bao vây thành phố Stalingrad mà không chiếm được (từ giữa tháng 7 đến 18 tháng 11 năm 1942), hay còn gọi là trận phòng thủ Stalingrad.
• Giai đoạn hai là cuộc phản công của quân đội Xô viết bao vây và tiêu diệt quân Đức (từ 19 tháng 11 năm 1942 đến 2 tháng 2 năm 1943).
1.Hoàn cảnh dẫn đến trận đánh Stalingrad:
Chiến dịch Kavkaz:
Sau thất bại trong việc đánh chiếm Moskva và bị đẩy lui trong mùa đông năm 1941 Bộ chỉ huy Đức, đứng đầu là Adolf Hitler, nhận thấy rằng không thể đánh thắng Liên bang Xô viết bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng. Để đánh thắng phía Đức phải tính đến cách đánh tiêu hao: trước tiên phải thủ tiêu các nguồn lực vật chất để Liên Xô suy kiệt trước khi bị đánh bại hoàn toàn. Chiến cuộc mùa hè năm 1942 diễn ra với ý tưởng chỉ đạo chiến lược như vậy và với mục tiêu chiếm những nguồn cung cấp chiến lược quan trọng hàng đầu của Liên Xô - đặc biệt là dầu mỏ tại Kavkaz, lúa mì và các nguyên liệu công nghiệp sống còn là điện và than. Tất cả những thứ đó đều nằm ở phía Nam nước Nga.
Hitler nói với tướng Paulus: "Nếu tôi không lấy được dầu của Maikop và Grozny thì tôi phải chấm dứt cuộc chiến này."
Mục tiêu chiến lược của chiến cuộc 1942 là hướng dãy núi Kavkaz mà Baku - trung tâm công nghiệp khai thác dầu mỏ lớn nhất của Liên Xô - là mục tiêu tối thượng. Mùa hè năm 1942 Bộ chỉ huy Đức phát động chiến dịch Kavkaz. Để tiến công chiến dịch Kavkaz phía Đức thành lập hai cụm tập đoàn quân:
• Cụm A (Tư lệnh: Thống chế Wilhelm List) có nhiệm vụ trực tiếp đánh Kavkaz. Cụm quân này gồm tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 các tập đoàn quân dã chiến số 11 và 17 của Đức và số 8 của Ý;
• Cụm B (Tư lệnh: Thống chế Fedor von Bock) có nhiệm vụ phát triển tiến công theo hướng đông về phía sông Đông (Дон Don) để chiếm các nguồn đất đai trù phú của miền nam nước Nga, nhưng nhiệm vụ chính của cụm quân này là bảo đảm an ninh cho sườn trái của cụm quân của List. Cụm quân này gồm tập đoàn quân xe tăng số 4 (sau này được tăng cường từ cụm A), các tập đoàn quân số 2 và 6 của Đức, và số 2 của Hungary, tập đoàn quân số 8 của Ý giữa tháng 9 được điều từ cụm A sang.
Cả hai cụm đều được yểm trợ bằng tập đoàn không quân số 4 của thống chế không quân Wolfram von Richthofen.
Trong việc lập kế hoạch chiến cuộc hè 1942, Bộ tư lệnh tối cao Đức đã phạm sai lầm nghiêm trọng kết quả của sự đánh giá quá thấp đối thủ và quá cao chính mình. Họ đã vi phạm nguyên tắc tối quan trọng của nghệ thuật chiến tranh là nguyên tắc tập trung binh lực. Mặc dù đã có sự cảnh báo của các tướng lĩnh có kinh nghiệm nhưng Quốc trưởng Adolf Hitler đã bỏ qua những điều trên. Quân Đức thực hành tiến công đồng thời theo hai hướng ngày càng xa rời nhau, điều này là tiền đề để bị đối phương bao vây tiêu diệt sau này.
Chiến dịch Kavkaz của Đức đã diễn ra không suôn sẻ. Rõ ràng Bộ tổng chỉ huy quân đội Đức đã đánh giá sai về tình hình của quân mình và của đối phương; họ cũng không thấy hết những khó khăn của việc tác chiến vùng núi - nơi chỉ một lượng nhỏ quân phòng thủ có thể chống lại rất đông quân tấn công và các lực lượng cơ động của Đức không thể phát huy hết tác dụng. Quân Đức, sau những thắng lợi ban đầu tại vùng đồng bằng, khi bắt đầu tiếp cận dãy núi lớn Kavkaz đã mất đà tiến công, dần dần bế tắc trên hướng chính và bị chặn lại tại tuyến sông Terech và các đèo ngang của dãy Kavkaz.
Ngược lại, tại hướng tấn công thứ yếu của cụm quân B thì tình hình lại rất thuận lợi cho quân Đức. Trên địa hình đồng bằng quân Đức rất giỏi trong tiến công cơ động. Xe tăng, thiết giáp của Đức lại một lần nữa phát huy tác dụng đánh thọc sâu rất hiểm ác phá tan các tuyến phòng thủ của quân đội Xô viết, đánh bại các phương diện quân Bryansk, Nam và Tây nam và tạo nên một cuộc tiến như vũ bão về phía đông. Quân phòng thủ Xô viết hoảng loạn rối trí, mất tuyến phòng thủ của mặt trận sông Don rồi bị đuổi dài về phía đông. Dường như không gì cản nổi cuộc tiến công của phía Đức về phía sông Volga. Bộ chỉ huy Đức liền chuyển hướng tiến công: lấy cụm B làm hướng tấn công chính và điều các đơn vị từ cụm A sang để phát triển thành quả tiến công. Mục tiêu chính bây giờ là thành phố Stalingrad trên sông Volga
2. Lực Lượng tham chiến hai bên:
+ Hồng quân Liên Xô.
Tham chiến trong chiến dịch phòng ngự là Phương diện quân Xta-lin-grat, gồm 160.000 người, 400 xe tăng, 454 máy bay và 2.200 pháo, cối.
Tham chiến trong chiến dịch phản công gồm bộ đội các phương diện quân Xta-lin-grat, Sông Đông, Tây Nam và Vô-rô-nhe-giơ; tổng cộng 1.106.000 quân, 1.463 xe tăng, 15.500 pháo, cối, 1.350 máy bay.
+ Khối phát xít Đức:
Tham chiến tiến công trên hướng vào Xta-lin-grat là Tập đoàn quân số 6 và Tập đoàn quân T4 của Đức, gồm 270.000 người, 500 xe tăng và 3.000 pháo cối, dưới sự chi viện của 1.200 máy bay chiến đấu.
Tham chiến trong giai đoạn Hồng quân Liên Xô tiến công là cụm tập đoàn quân "B" gồm 1.011.000 quân, 675 xe tăng, 10.290 pháo cối và 126 máy bay.
- Kết quả: Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn quân T4 Đức, Tập đoàn quân 3 và 4 Ru-ma-ni, Tập đoàn quân B I-ta-li-a. Khối phát xít bị mất gần 1.5 triệu quân và bị đẩy lùi xa về phía tây sông Von-ga.
3. Diễn biến
a.Cuộc tấn công và vây hãm của người Đức (hay công cuộc phòng thủ của LXô):
Tư lệnh V.I Chuikov (giữa) và Bộ Tư lệnh tập đoàn quân số 62 Xô Viết tại Stalingrad
Từ 22 tháng 6 đến 6 tháng 7 năm 1942 quân Đức mở đầu tấn công lớn tại phía nam chiến trường bằng trận Voronezh: tập đoàn quân xe tăng số 4 của Hermann Hoth đánh tan và đẩy lùi lực lượng của phương diện quân Tây Nam và phương diện quân Voronezh, chiếm Voronezh. Quân Đức đã đánh tan phòng tuyến Sông Đông của quân đội Xô Viết, đã tiến đến bờ sông Don loại bỏ được mối nguy hiểm bị Hồng quân đánh vào sườn từ bàn đạp này.
Bắt đầu từ đầu tháng 7 năm 1942 cụm tập đoàn quân B của Đức với lực lượng chủ lực là tập đoàn quân dã chiến số 6 của Friedrich Paulus phát triển tấn công ào ạt tại vùng trung lưu sông Don về phía đông tiến về phía sông Volga. Ngày 17 tháng 7 năm 1942 các đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân số 6 đã giao chiến với các đơn vị phòng thủ Stalingrad tại phòng tuyến sông Chir và sông Shimla trận đánh lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến bắt đầu.
Bộ chỉ huy Đức nhận thấy chỉ riêng tập đoàn quân Paulus chưa đủ sức để chiếm Stalingrad nên ngày 31 tháng 7 năm 1942 Hitler ra lệnh điều tập đoàn quân xe tăng số 4 từ cụm tập đoàn quân A sang cho cụm B để tăng cường tấn công Stalingrad và từ 2 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng này bắt đầu tấn công phía tây nam thành phố. Từ nay trọng tâm chú ý của Bộ chỉ huy Đức dồn chủ yếu cho chiến trường Stalingrad. Càng ngày Stalingrad càng thu hút nhiều binh lực của Đức từ các chiến trường khác: từ chỗ ban đầu chỉ có 13 sư đoàn với khoảng 27 vạn quân đến cuối tháng 9 năm 1942 tại hướng Stalingrad đã có 80 sư đoàn quân Đức và đồng minh Hungary, Ý và Romania chiếm tỷ trọng rất lớn trên toàn chiến tuyến Xô – Đức. Phía Đức có 1260 xe tăng, 17000 pháo và cối, 1640 máy bay[cần dẫn nguồn]. Còn phía Liên Xô đã đưa các lực lượng dự bị chiến lược là tập đoàn quân 62, 63, 64, tập đoàn quân cận vệ số 1 và các tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 và rất nhiều các đơn vị khác. Nơi đây thành khu vực tập trung binh lực lớn nhất của cả hai bên trận đánh có quy mô vượt cả trận Moskva năm 1941.
Theo kế hoạch tấn công của phía Đức tập đoàn quân số 6 tấn công tại mặt bắc và tây bắc Stalingrad và tập đoàn quân xe tăng số 4 tại phía nam và tây nam. Sau khi đột phá đến bờ sông Volga hai cánh quân này sẽ đánh dọc theo bờ sông tiến ngược chiều nhau và hợp vây quân đội Xô Viết phòng thủ thành phố.
Chỉ huy Hồng quân, tướng Konstantin Rokossovsky
Để chống lại tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, Hồng quân thành lập phương diện quân Đông Nam (từ sau 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Stalingrad) tư lệnh thượng tướng Andrey Ivanovich Eremenko gồm các tập đoàn quân 64, 57, 51 và tập đoàn quân cận vệ số 1 với tập đoàn quân 64 ở trung tâm phòng ngự. Phương diện quân này phòng ngự tại hướng nam và tây nam Stalingrad. Phương diện quân Đông Nam đã phòng thủ thắng lợi ngày 9 và 10 tháng 8 đã phản công mãnh liệt bắt tập đoàn quân xe tăng Đức chuyển sang phòng ngự. Đến 17 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức đã bị chặn lại tại tuyến phòng ngự vành đai thành phố và đến ngày cuối cùng cũng không thể đột phá được tới sông Volga.
Chiến sự diễn ra mãnh liệt và căng thẳng và quyết định nhất là tại cánh bắc và tây bắc nơi đối đầu với tập đoàn quân Đức số 6. Để phòng thủ hướng này Liên Xô thành lập phương diện quân Stalingrad tư lệnh đầu tiên là nguyên soái Semen Konstantinivich Timoshenko từ ngày 23 tháng 7 là trung tướng Vasili Nikolaevich Gordov và sau đó là trung tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky (từ 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Sông Đông). Trong đó tập đoàn quân 62 là lực lượng chịu áp lực trực tiếp mạnh nhất của quân Đức. Tại đây tập đoàn quân dã chiến số 6 Đức cố gắng đánh tách tập đoàn quân 62 Xô Viết ra khỏi khối quân còn lại và tiêu diệt tập đoàn quân này. Quân đội Xô Viết dưới áp lực quá lớn của đối phương buộc phải lui dần về phía thành phố. Để chặn đứng sự rút lui Stalin ra mệnh lệnh "không lùi một bước" và nghiêm cấm rút quân qua sông Đông ra khỏi khúc ngoặt của con sông này. Các công tác đảng, chính trị được tiến hành tại chiến hào để nâng cao tinh thần binh sỹ mặt khác biện pháp kỷ luật khắt khe nhất được thi hành: mọi sỹ quan và binh sỹ rút lui không có mệnh lệnh bằng văn bản đều bị bắn bỏ tại chỗ. Tuy nhiên cuối cùng trước nguy cơ bị bao vây tại khúc ngoặt của sông Don ngày 19 tháng 8 tập đoàn quân 62 và 64 buộc phải rút qua bờ trái sông Don và bị ép chặt vào thành phố lúc này đã biến thành một pháo đài khổng lồ.
Ngày 19 tháng 8 quân Đức tổ chức tổng tấn công thành phố.
Ngày 23/8/1942 tập đoàn quân số 6 tại cánh bắc thành phố đã đến được bờ sông Volga đã tách được tập đoàn quân 62, 64 ra khỏi các lực lượng Xô Viết và đánh ngoặt sang phải theo bờ sông định đánh vào lưng bao vây hai tập đoàn quân 62 và 64. Trong ngày này không quân Đức đã dùng 2.000 lần chiếc máy bay ném bom cháy gây ra được trận bão lửa huỷ diệt Stalingrad.
{Một địa ngục thật sự đã sảy ra đối với những người dân Stalingrad vào ngày 23/08/1942. Hôm đó, lực lượng không quân Đức đã cho thả xuống hàng tấn bom và hầu như xóa sạch thành phố. Các máy bay ném bom từng bắn phá trước và sau đó, nhưng trận ném bom ngày 23/08 đã đi vào lịch sử ngang hàng với Drezden và Hirosima, như những trận bom có sức tàn phá kinh khủng nhất. Chỉ trong một ngày, đã diễn ra gần hai ngàn lượt bay thả bom xuống các khu nhà ở của thành phố, gần 40 ngàn người đã bị giết hại. Các nhà sử học quân sự tính toán rằng, thời gian sống trung bình của một chiến sĩ trên trận tuyến Stalingrad chẳng hơn 24 tiếng đồng hồ là bao. Một người từng tham gia trận đánh đã kể lại rằng, cứ mỗi đêm một tiểu đoàn lính lại được điều động tới vị trí của ông, và tới chiều ngày hôm sau chỉ có vài người còn sống sót trong số họ. }
Tình hình của tập đoàn quân 62 Xô Viết tưởng chừng tuyệt vọng nhưng tập đoàn quân này vẫn kháng cự rất ngoan cường và được tiếp viện liên tục từ phía bên kia sông Volga mặc dù việc vượt sông tiếp viện cho thành phố đi liền với thương vong rất lớn, Pháo binh Xô Viết từ bên kia sông cũng tập trung bắn phá mãnh liệt các vị trí Đức. Ngày 12 tháng 9 chiến sự đã chuyển vào trong thành phố hai bên đánh nhau rất ác liệt thương vong cực kỳ lớn. Cuộc chiến này điển hình của tính chất không khoan nhượng cả hai bên không chấp nhận bắt tù binh. Các công nhân, dân thành phố và phụ nữ cũng tham gia đánh nhau trực tiếp, tại các công xưởng của Stalingrad xe tăng được sản xuất lăn thẳng ra chiến tuyến mà còn chưa được quét sơn và lắp ráp các thiết bị phụ
{Bà Zoya Kabanova từng là nữ cứu thương trong trận Stalingrad. Bà hồi tưởng lại rằng, một trong những cái đáng sợ nhất là việc vận chuyển thương binh qua sông Volga, đúng vào những lúc máy bay Đức đang bắn phá không ngừng cả hai bờ sông. Bà Zoya Kabanova nói: " Tôi bơi rất giỏi. Tôi tìm kiếm và kéo theo các thương binh. Nhưng bao nhiêu người tôi sẽ đưa được qua làn nước lạnh giá? Nỗi lo khủng khiếp ấy cứ ám ảnh tôi suốt đời. Đêm đêm, tôi vẫn thường chợt rùng mình tỉnh giấc, hoảng sợ khi lại nhớ về những ngày ấy." }
Chiến sự đặc biệt ác liệt và đẫm máu cả trên mặt đất và trên không: cả hai bên đã chiến đấu hết sức dũng cảm và quên mình.Trong tháng 8, Bộ chỉ huy quân sự Đức đã điều thêm lực lượng đến bổ sung, đưa quân số tham chiến tại mặt trận Xta-lin-grat lên đến 80 sư đoàn. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer ("Lãnh tụ", tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm
Quân đội Xô viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường, họ đã bị bao vây tất cả các phía, mà sau lưng là sông lớn Volga không còn lùi đi đâu được nữa., nhưng những người bảo vệ thành phố đã đứng vững đến cùng. Họ hiểu rằng, sẽ là một tai họa khủng khiếp đối với đất nước nếu để mất Stalingrad và cho phép quân Đức tiến được tới Volga. Điều đó đồng nghĩa với sự thất bại, tù đày, thân phận tôi tớ và cái chết. Bởi vậy nên họ đã trụ vững. hơn ai hết họ hiểu rằng Stalingrad lúc này chính là " nút sống" của Liên Xô..Các lực lương dư bị cũng đã tung ra chiến trậnTập đoàn quân 24, 66 và sau đó là Tập đoàn quân CV1 cùng Phương diện quân Xta-lin-grat và Sông Đông liên tục phản đột kích, chặn đứng quân địch ở ngoại ô thành phố.
Từ ngày 12-9, địch tiến công mãnh liệt từ các hướng tây - tây bắc và tây nam các trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trên từng đường phố, từng căn nhà, từng tầng hầm để chiếm đươc đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần. Trong trận đánh phòng thủ Stalingrad, nổi bật nhất là tập đoàn quân 62 của Tư lệnh Trung tướng Vasily Ivanovich Chuikov. Đơn vị này đã đứng vững trong thành phố bảo vệ từng thước đất thực sự theo đúng khẩu hiệu "không lùi một bước".
Quân đội Xô viết cũng đã đưa vào chiến đấu lực lượng dự bị gồm Tập đoàn quân 24, 66 và sau đó là Tập đoàn quân CV1 cùng Phương diện quân Xta-lin-grat và Sông Đông liên tục phản đột kích, chặn đứng quân địch ở ngoại ô thành phố.
Ngày 15 tháng 10 quân Đức ngay trong thành phố đột phá được tới bờ sông Volga tại phía nam nhà máy Barrikada nhưng đó đã là nỗ lực cuối cùng của quân Đức: cũng chính vào lúc này sức mạnh tiến công của quân đội Đức đã cạn kiệt. Chiến sự đi vào ổn định - quân Đức đã đi quá xa nguồn tiếp ứng của mình và việc đánh nhau trong thành phố không phải là lợi thế của quân tấn công: quân Đức đã mất hết lợi thế hoả lực và tấn công cơ động. Người Đức đã tập trung mọi nỗ lực cao nhất để đánh chiếm thành phố nhưng không kết quả, lại bị tổn thất quá nhiều, kiệt sức, phải dừng lại.
Việc đánh chiếm thành phố vẫn tiếp tục cho đến 18 tháng 11 nhưng không thành công. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã đến, quân Đức đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp vận của mình. Tình hình quân Đức thực sự đã nguy ngập chí ít thì cũng báo hiệu cái gì đó như mùa đông năm 1941.
Như vậy, ngày 18/11 là ngày chiến dịch phòng ngự của người Liên Xô kết thúc. Hồng quân đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 700.000 tên địch, phá huỷ 2.000 pháo, cối, 1.000 xe tăng và 1.400 máy bay, chặn đứng được cuộc tiến công của địch và chuyển sang phản công.
b.Trận phản công Stalingrad:
Vasily Zaitsev- lính bắn tỉa Liên Xô tại Stalingrad
Trong khi phía Đức đang sa lầy trong việc chiếm thành phố thì quân đội Xô Viết đã tập trung một lực lượng lớn sẵn sàng phản công. Kế hoạch tấn công đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Xô Viết soạn thảo kỹ lưỡng có tính đến những kinh nghiệm xương máu của hơn một năm thất thế của quân đội Xô Viết. Trong việc soạn thảo kế hoạch này có dấu ấn cá nhân rất lớn của Đại tướng Georgi Konstantinovich Zhukov và Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moskva, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, trang bị tốt, giàu sức sống của các quân khu Siberi và Viễn Đông được điều tới. Kế hoạch tấn công cũng rất hợp lý khi chọn các điểm chọc thủng tuyến phòng ngự của đối phương là các khu vực bố phòng của quân Romania, Ý và Hungary là các lực lượng có tinh thần và sức chiến đấu kém quân Đức.
Giai đoạn 1 chiến dịch phản công: Chiến dịch Uranus
Ngày 19 tháng 11 năm 1942 tại cánh bắc mặt trận Stalingrad, lúc 7g30, phương diện quân Tây Nam của tư lệnh trung tướng Nikolai Phedorovich Vatutin gồm các tập đoàn quân số 2, 5, 17, 21, tập đoàn quân xe tăng số 5 và tập đoàn quân cận vệ số 1 từ bàn đạp Seraphimovich đánh vào sườn trái của tập đoàn quân số 6 Đức tại khu vực bố phòng của tập đoàn quân Romania số 3. Sau một ngày tấn công phương diện quân Vatutin đã tiến sâu được 25-35 km.
Vatutin
Ngày 20 tại cánh nam Stalingrad, phương diên quân Stalingrad của tư lệnh thượng tướng Andrei Ivanovich Eremenko gồm tập đoàn quân 51, 57 và 64 tấn công vào sườn phải tập đoàn quân xe tăng số 4 Đức tại vị trí bố phòng của tập đoàn quân Romania số 4 tại khu vực hồ Shasha. Sau khi chọc thủng tuyến phòng ngự đối phương các đơn vị cơ động của hai phương diện quân Xô Viết bằng hai mũi, thọc sâu bằng xe tăng kết hợp cùng bộ binh cơ giới với tốc độ rất cao tiến tới hợp vây tại khu vực Kalach khoảng 30 km về phía tây Stalingrad. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng tiến công đã gặp nhau tại Kalach và đã hợp vây hoàn toàn 22 sư đoàn đối phương, một bộ phận của tập đoàn quân xe tăng số 4 và toàn bộ tập đoàn quân số 6 Đức với khoảng 33 vạn quân đã rơi vào vòng vây siết chặt.
Từ đây quyền chủ động chiến lược trên cánh Nam mặt trận Xô - Đức (gồm vùng Cap-ca-dơ và Xta-lin-grat) chuyển vào tay quân đội Xô viết.
Giai đoạn 2 chiến dịch phản công:
Hồng quân baao vây quân Đức tai Stalingrad và đánh chặn các cuộc giải vây của phát xít Đức.
i. Tập đoàn quân số 6 bị bao vây
Tại một hội nghị ngay sau cuộc bao vây của Liên Xô, các lãnh đạo quân sự Đức đã thúc giục mở một cuộc phá vây tại Stalingrad để rút về một phòng tuyến mới trên bờ Tây sông Don. Nhưng lúc đó Hitler đang ở tại khu nghỉ riêng của mình ở sườn núi Obersalzberg, thị trấn Berchtesgaden, Bavaria cùng Hermann Göring, người đứng đầu Không quân Đức Luftwaffe. Khi được Hitler hỏi, Göring trả lời rằng Không quân Đức có thể tiếp tế cho tập đoàn quân số 6 bằng một cầu hàng không.[2]Bản mẫu:Rp Điều này sẽ cho phép quân Đức trong thành phố tiếp tục chiến đấu trong khi một lực lượng giải cứu được thành lập. Một năm trước đó, một kế hoạch tương tự cũng đã được sử dụng thành công ở "cái túi" Demyansk, dù với một quy mô nhỏ hơn nhiều: chỉ có một quân đoàn bị vây ở Demyansk trong khi bị vây tại Stalingrad là cả một tập đoàn quân. Hơn nữa, lực lượng chiến đấu của Liên Xô đã tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng trong một năm qua. Nhưng việc đề cập đến sự thành công của chiến dịch hỗ trợ hàng không tại Demyansk đã củng cố quan điểm riêng của Hitler, và vài ngày sau kế hoạch đã được Hermann Göring tán thành.
Người đứng đầu tập đoàn không quân số 4 Đức, thống chế Wolfram von Richthofen đã cố gắng ngăn quyết định này lại nhưng không thành công. Rõ ràng rằng việc tiếp viện cho "cái túi" bằng không quân là không thể được bởi: khả năng vận chuyển của Không quân Đức sau trận Crete không hề được củng cố, và số lượng 117.5 tấn họ có thể vận chuyển mỗi ngày sẽ là ít hơn nhu cầu 800 tấn của lực lượng Đức đang bị vây.[2]Bản mẫu:Rp Để bổ sung cho số lượng có hạn các máy bay vận tải Junkers Ju 52, các máy bay ném bom với các trang thiết bị không hề thích hợp đã được đem ra để làm nhiệm vụ vận tải (ví dụ như những chiếc Heinkel He-111 và He-177). Nhưng Hitler đã ủng hộ kế hoạch của Goring và nhắc lại mệnh lệnh của mình rằng những tập đoàn quân đang mắc kẹt không được phép đầu hàng.
Sự tiếp tế bằng không quân đã thất bại gần như ngay lập tức. Hỏa lực phòng không hạng nặng và các máy bay tiêm kích của Liên Xô đã khiến không quân Đức tổn thất nặng. 266 máy bay Junkers Ju 52 đã bị phá hủy, tương đương 1/3 số chuyển vận cơ của Đức trên mặt trận Xô-Đức. Ngoài ra còn có 165 máy bay ném bom He-111 làm nhiệm vụ vận chuyển, 42 chiếc Junkers Ju 86, 9 chiếc Fw 200, 5 chiếc He 177 và 1 chiếc Ju 290. Tổng công, Luftwaffe còn tổn thất gần 1,000 phi đoàn ném bom nhiều kinh nghiệm[2]. Thời tiết mùa đông cũng làm giảm hiệu quả của cuộc tiếp tế. Các máy bay vận tải hạ cánh an toàn đã được sử dụng để di tản những chuyên gia kĩ thuật và những người bị ốm và bị thương ra khỏi vùng bị vây hãm. Khoảng 42.000 người tất cả đã được di tản. Nhiều phi công Đức đã bị sốc khi thấy những binh lính được lệnh gỡ hàng đã quá đói và mệt để có thể thực hiện nhiệm vụ. Tại Đức, tướng Kurt Zeitzler xúc động trước thảm cảnh của quân lính tại Stalingrad nên bắt đầu giới hạn khẩu phần ăn của chính mình về mức cả ngày chỉ ăn một bữa đạm bạc vào buổi trưa giống như họ. Sau vài tuần như vậy, ông ta trở nên hốc hác đến nỗi Hitler tức giận và đích thân ra lệnh cho Zeitzler phải ăn uống lại như bình thường.
ii.Nỗ lực giải vây của người Đức
Đầu tháng 12 1942, để giải cứu quân Đức ở Stalingrad, 3 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn lính dù thuộc tập đoàn quân tăng thiết giáp số 4 do tướng Hermann Hoth chỉ huy đã được điều từ Caucasus đến khu vực hạ lưu sông Đông. Nhưng các đơn vị này dù đã cố hết sức vẫn đều bị quân Nga đẩy lùi ra xa, cách Stalingrad ít nhất 100 km nên không có cách nào để cứu tập đoàn quân số 6 đang bị vây. Chỉ riêng quân đoàn 48 là tiến sát Stalingrad nhất, chỉ còn cách 40 km.
Các tướng lĩnh dưới quyền đã đề nghị phương án vượt sông Don ở khu vực đối diện Stalingrad nhưng thốg chế Erich von Manstein phản đối vì cho rằng làm như thế là vô cùng mạo hiểm và khó thực hiện. Ông quyết định chọn khu vực Kotelnikovo nằm ở phía Đông Nam sông Don làm bàn đạp tấn công Stalingrad. Ngày 10 tháng 12, tướng Hermann Hoth đưa tập đoàn quân thiết giáp số 4 của mình vào trận. Quân đoàn 48 có nhiệm vụ vượt sông Don để phối hợp tác chiến với cánh quân của Hoth. Quân đoàn thiết giáp 57 thuộc tập đoàn quân thiết giáp số 4 được giao trọng trách thực hiện mũi tấn công chính. Yểm trợ cho mũi tấn công này là sư đoàn cơ giới số 23 ở sườn phải, sư đoàn thiết giáp số 17 ở sườn trái và sư đoàn thiết giáp số 6 là lực lượng hậu bị.
Vừa tham gia trận đánh, các đơn vị này đã ngay lập tức gặp sự kháng cự ác liệt của thiết giáp và bộ binh Liên Xô do thượng tướng Eremenko chỉ huy. Quân Đức trước đòn phủ đầu đã gần như bị chặn đứng, trong suốt 1 tuần lễ chỉ tiến lên chưa được 50 km. Nhưng đến ngày 17, sư đoàn bộ binh cơ giới số 23 đã liều lĩnh tổ chức 1 đợt tấn công quyết liệt và chiếm được 2 cây cầu bắc qua sông Aksai-Esaulov. Như vậy trở ngại tự nhiên lớn nhất là con sông đã bị người Đức khắc phục và giờ đây khoảng cách giữa 2 tập đoàn quân số 6 và số 4 của Đức chỉ còn 70 km.
Tuy nhiên, vào cùng thời điểm quân Đức tổ chức giải vây, đại tướng Georgiy Zhukov Zhukov đã quyết định mở chiến dịch Saturn (Chiến dịch Sao Thổ) vào ngày 11 tháng 12. Mục tiêu của chiến dịch này là nhằm tiêu diệt các lực lượng Ý, Hungary, Romania và Đức dọc sông Don. Giai đoạn đầu của chiến dịch được đặt tên là Chiến dịch Little Saturn (Sao Thổ nhỏ) nhằm vào tập đoàn quân số 8 của Ý ở vùng trung lưu sông Don. Mở đầu chiến dịch, tập đoàn quân 63 của Liên Xô, bằng các xe tăng T-34 và máy bay đã tổ chức tấn công vào các vị trí phòng thủ yếu nhất của người Ý. Các vị trí này được bảo vệ bởi 2 sư đoàn bộ binh từ Ravenna và Cosseria đã nhanh chóng bị đánh bại. Ngày 17 tháng 12 1942, tập đoàn quân 21 và tập đoàn quân thiết giáp số 5 của Liên Xô dã tấn công vào các vị trí của quân Romania ở cánh phải người Ý. Cũng cùng thời gian này, cánh trái người Ý, do các lực lượng Hungary trấn giữ cũng bị tập đoàn quân thiết giáp số 3 và 1 phần tập đoàn quân 40 Liên Xô tấn công. Tập đoàn quân cận vệ số 1 Liên Xô thì tấn công vào giữa các vị trí của quân Ý. Sau 11 ngày giao tranh, các lực lượng Ý đã bị áp đảo về số lượng, bị bao vây và sau cùng đã bị đánh bại. Tướng Paolo Tarnassi, tổng chỉ huy các lực lượng thiết giáp Ý tại Nga cũng chết trận. [14]
Tập đoàn quân số 8 Ý bị xóa sổ đã tạo một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng thủ của người Đức và điều này đã tạo điều kiện cho người Nga tiến về hướng Rostov. Nếu chiếm được Rostov, Hồng quân sẽ kiểm soát toàn bộ miền Nam nước Nga, chia cắt các lực lượng của quân Đức. Manstein trước việc Rostov bị đe doạ đã buộc phải rút sư đoàn xe tăng số 6 của tướng Hoth để điều lên hướng Tây Bắc cản đòn tấn công của Zhukov. Đây là lực lượng hậu bị cho cuộc tấn công của Hoth với đầy đủ quân số và vũ khí nên quyết định này đã ảnh hưởng rất nhiều đến nỗ lực giải vây.
Tuy không còn lực lượng hậu bị, tướng Hoth vẫn cho quân tiến về phía trước để giải cứu Paulus và tập đoàn quân số 6. Sáng ngày 17 tháng 12, trung đoàn mô tô-súng máy số 128 thuộc sư đoàn cơ giới số 23 của Đức phòng thủ bờ bắc sông Aksai-Esaulov, ở đoạn giữa cầu đường sắt và cầu đường bộ qua sông. Sư đoàn 17 với 35 xe tăng tập trung bên cánh trái. Ngày hôm đó, lực lượng bộ binh Liên Xô với sự yểm trợ của xe tăng đã tấn công vào mạnh vào các căn cứ của quân Đức tại tại nhà ga Krugliakovo; ngoài ra 15 xe tăng Liên Xô khác cũng tổ chức tấn công cứ điểm Shestakovo do tiểu đoàn công binh thuộc sư đoàn cơ giới 23 chiếm giữ. Quân Đức chịu thiệt hại nặng nhưng đã chặn đứng được các đợt tấn công của người Nga đồng thời cũng xác định được các đơn vị Nga tham gia đợt tấn công này gồm sư đoàn bộ binh 87 và lữ đoàn tăng thiết giáp số 13.
Đêm ngày 17 tháng 12, trung đoàn môtô-súng máy số 128 của Đức đã tổ chức tấn công thành công bên cánh phải. Nhân cơ hội đó, tướng Hoth quyết định tiếp tục tấn công về hướng Stalingrad. Ngày 18 tháng 12, Hitler đã từ chối cho tập đoàn quân số 6 đánh ra hướng tiến tập đoàn quân tăng thiết giáp số 4 bất chấp thỉnh cầu của Manstein.[15] 8 giờ sáng ngày 19 tháng 12, sư đoàn xe tăng số 17 bên cánh trái tổ chức vượt sông tiến về phía trước. Trinh sát cho biết trong vòng 1 ngày đêm trước đó, người Nga đã điều thêm rất nhiều quân đến khu vực này. Trưa ngày hôm đó, với sự yểm trợ của không quân và xe tăng, một trung đoàn bộ binh Liên Xô đã tổ chức tấn công quân Đức dọc tuyến đường sắt dẫn đến Stalingrad; một trung đoàn khác từ dưới khe hẻm bất ngờ tấn công lực lượng bộ binh cơ giới Đức. Phía sau lưng bộ binh Nga có khoảng 70 xe tăng yểm trợ. Sau 9 tiếng đồng hồ phản công với hỏa lực mạnh, quân Đức đã đẩy lùi được quân Nga. Ngày 20 tháng 12, quân đoàn tăng thiết giáp số 57 của Đức trở lại với nhiệm vụ tấn công Stalingrad giải vây cho tập đoàn quân 6. Nhưng hỏa lực cực mạnh của quân Nga đã ngăn không cho quân Đức tiến về phía trước. Hai ngày tiếp theo đó, ở khu vực dọc tuyến đường sắt đã diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt, cả 2 bên đều chịu những tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, sau mỗi tổn thất, người Nga lại được bổ sung lực lượng kịp thời trong khi quân Đức thì không thể. Điều này khiến quân Đức dần dần bị tiêu hao sinh lực. Ngày 23 tháng 12, đoàn xe tăng Đức đang tiến dọc theo tuyến đường sắt bỗng chạm trán đội hình gồm 80 xe tăng Nga. Sau 4 tiếng chiến đấu quyết liệt, người Đức đã đẩy lùi được xe tăng Nga.
Ngay trước đêm Giáng sinh, phái Nga đã tập trung một lực lượng lớn và tổ chức tấn công. Quân Đức bị đánh bật khỏi khu vực tuyến đường sắt, trung đoàn môtô-súng máy số 128 bị đẩy lùi đến tận bờ sông. Bên cánh trái, trung đoàn hỗn hợp của Đức cũng bị thiệt hại nặng, phải rút lui về làng Romashki, nằm ở hậu tuyến của quân Đức. Chập tối,khoảng 20 chiếc xe tăng Nga tấn công khu vực cầu đường sắt Shestakov trên sông Aksai-Esaulov, một nhóm xe tăng khác kết hợp với pháo binh tấn công căn cứ Romashkin. Một cuộc đấu pháo ác liệt đã diễn ra. Cuối cùng, pháo Nga im tiếng khiến quân Đức lầm tưởng người Nga đã rút binh. Tuy nhiên vào rạng sáng, 30 chiếc xe tăng Nga đã bất ngờ áp sát cầu Shestakov, đánh tan tiểu đoàn công binh Đức đang chiếm giữ cây cầu. Dưới sự yểm trợ của pháo binh, xe tăng Nga chuẩn bị vượt sông bằng cầu đường bộ. Nhưng chỉ có một chiếc qua được còn đến chiếc thứ hai thì cây cầu không chịu nổi sức nặng nên đã sập.
Trons suốt ngày 24 tháng 12, quân Nga nỗ lực vượt sông để tiêu diệt các đơn vị quân Đức đã quá mỏi mệt sau những trận đánh vừa qua. Tuy nhiên, những nỗ lực của quân Nga ở bờ Nam sông Aksai-Esaulov ngày hôm đó đã không đạt được kết quả như mong đợi. Pháo chống tăng 88 li của Đức đã ngăn chặn hiệu quả xe tăng Nga. Ngoài ra, bộ binh Nga dù được sự yểm trợ của không quân và pháo binh cũng không thể chiếm được cây cầu đường sắt.
Ngày 25 tháng 12, bộ binh Nga đã sửa chữa sơ bộ cây cầu đường bộ bị sập rồi dưới sự yểm trợ của 50 xe tăng đã kéo sang bờ nam sông Aksai-Eseulov, tiến thẳng đến căn cứ Romashkin, đánh tan trung đoàn môtô-súng máy số 128 và chiếm được cây cầu đường sắt ở gần ga Krugliakovo. Chỉ trong một buổi sáng, quân Nga đã bắc được câu cầu khá vững chắc trên lưng 2 chiếc xe tăng bị rơi xuống sông. Xe tăng Nga theo cây cầu này đã ào ạt vượt sông, đè bẹp mọi sự kháng cự của quân Đức. Tàn binh của quân đoàn tăng thiết giáp Đức số 57 cũng không thoát khỏi sự truy kích ráo riết của quân Nga. Không lâu sau đó, quân đoàn này đã bị xóa sổ hoàn toàn. Như vậy là kế hoạch đột phá vòng vây của tập đoàn quân sông Đông do thống chế Manstein chỉ huy nhằm giải vây cho Paulus đã hoàn toàn phá sản.
iii.Trận đánh kết thúc và sự đầu hàng của tướng Friedrich Paulus:
Số phận tập đoàn quân số 6 xem như đã an bài. Gần 20,000 lính Đức lang thang giữa những đống gạch vụn và 20,000 thương binh phải nằm trong các tòa nhà đổ nát. Việc chỉ đạo các hoạt động của quân Đức trong vòng vây ở Stalingrad giờ đây do đích thân Adolf Hitler thực hiện. Từ Đông Phổ cách xa hơn 2000 km, ông ta đã đưa ra những mệnh lệnh, những lời động viên, thăm hỏi tới Friedrich Paulus cùng sĩ quan, binh lính của tập đoàn quân số 6.
Sau chiến dịch tấn công quy mô lớn ở khu vực sông Đông, quân Nga đã chiếm được 2 sân bay dã chiến của quân Đức nằm gần Stalingrad - ở Morozovsk và Tatsinskaya. Trước đây, từ 2 sân bay này, mỗi ngày quân Đức có khả năng thực hiện 3 chuyến không vận tiếp tế cho tập đoàn quân số 6. Tuy nhiên giờ đây, từ sân bay dã chiến gần nhất đến Stalingrad cũng phải mất 2 đến 3 tiếng đồng hồ, tốn rất nhiều nhiên liệu và khả năng bị phòng không Liên Xô bắn hạ rất cao. Ngoài ra, do điều kiện thời tiết khắc nghiệt của mùa đông nên không phải lúc nào các máy bay cũng có thể cất cánh được. Do đó, từ đầu tháng 1 1943, mỗi ngày quân Đức chỉ thực hiện được một chuyến không vận tiếp tế.
Tình hình thương binh Đức tại Stalingrad ngày càng tồi tệ. Thuốc men, phương tiện y tế và cả phương tiện vận chuyển thiếu thốn. Trước đây, các thương binh thường được chở bằng xe đến đến sân bay Pitomnik để đưa về tuyến sau bằng máy bay. Nhưng khi mà nhiên liệu ngày càng khan hiếm thì thương binh buộc phải nằm lại. Con số thương binh tăng lên nhanh chóng. Sân bay Pitomnik liên tục bị vây hãm và pháo kích nên các phi công chở hàng tiếp tế thường không dám hạ cánh mà thả hàng xuống bằng dù.
Nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng Đức bị vây được giao cho phương diện quân sông Don của tư lệnh trung tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky. Sáng 8 tháng 1 1943, ba sĩ quan trẻ của Hồng quân, với một lá cờ trắng, đi vào phòng tuyến của quân Đức trên chu vi phía bắc của Stalingrad, trao cho tướng Paulus tối hậu thư của tướng Rokossovsky và nguyên soái pháo binh N.N. Voronov:
Xét hoàn cảnh không lối thoát của các người, để tránh đổ máu vô ích, chúng tôi đề nghị ông buông vũ khí chấp nhận những điều kiện đầu hàng dưới đây:
# Toàn bộ các lực lượng Đức đang bị bao vây không được tiến hành kháng cự
# Giao nộp toàn bộ binh lính, sĩ quan, vũ khí, khí tài trong tình trạng nguyên vẹn
Chúng tôi sẽ bảo đảm sự oan toàn tính mạng và sức khỏe cho hàng binh, cả sĩ quan lẫn binh lính; sau chiến tranh hàng binh sẽ được trả về Đức hoặc bất kì nước nào theo nguyện vọng bản thân. Ngay sau khi đầu hàng, hàng binh sẽ được cung cấp khẩu phần đầy đủ; những người bị thương, bị bệnh, bị cóng sẽ được cứu chữa kịp thời
VôroNov
http://www.stalingrad-info.com/256.JPG
Do ảnh hưởng của bộ máy tuyên truyền Đức Quốc xã [cần dẫn nguồn] rằng quân Nga vô cùng man trá và tàn bạo, quân Đức tại Stalingrad không tin vào thư gọi hàng. Paulus lập tức gọi cho Hitler về nội dung tối hậu thư và yêu cầu được tự do hành động nhưng bị bác bỏ. Ngoài ra 1 nguyên nhân khác khiến quân Đức không muốn đầu hàng là việc tập đoàn quân Phương Nam của thống chế Paul Ludwig Ewald von Kleist đang rút khỏi Caucasus. Hiện tại đang có 3 tập đoàn quân Nga bao vây Stalingrad và nếu quân Đức đầu hàng, người Nga sẽ tung những lực lượng này đến các chiến trường khác, mà khả năng lớn nhất là chặn đường rút của Kleist. Do đó, Paulus quyết định cầm cự để Kleist có thể rút lui oan toàn.
Sau khi quân Đức tại Stalingrad từ chối đầu hàng, ngày 10 tháng 1 1943, Hồng quân Liên Xô đã giáng cho quân Đức 2 mũi tấn công vô cùng hùng hậu từ hướng Tây và hướng Nam. Mũi tấn công ở hướng Nam gặp phải sự kháng cự quyết liệt nhưng ở mũi hướng tây quân Nga tiến như chẻ tre. Sư đoàn tăng thiết giáp số 3 Đức ở tuyến trước bị đánh tan. Sáng ngày 11 tháng 1, quân Nga tiếp tục tấn công. Ở hướng Tây, họ tiếp tục thắng lớn. Sư đoàn cơ giới số 29 và sư đoàn bộ binh số 376 của Đức bị tiêu diệt hoàn toàn. Các đơn vị khác bị đẩy sâu vào trong, lính Đức bị chết cóng rất nhiều.
Sau vài ngày nghỉ ngơi, ngày 16 tháng 1, quân Nga lại tấn công dữ dội và tiến gần đến sân bay Gumrak, sân bay dã chiến duy nhất còn sót lại của tập đoàn quân số 6. Chiến thuật của người Nga giờ đây có sự thay đổi: hễ gặp kháng cự mạnh là họ chuyển sang tấn công vị trí khác. Paulus triệu tập cuộc họp cấp chỉ huy các quân đoàn, đưa ra đề nghị các đơn vị liều chết phá vòng vây. Nhưng các chỉ huy từ chối vì cho rằng hành động đó là tự sát.
Chiều ngày 19 tháng 1, các sĩ quan cao cấp và sĩ quan tham mưu được lệnh rời bỏ đơn vị để di tản bằng máy bay. Các sĩ quan tham mưu được đưa ra sân bay bằng xe máy - phương tiện vận chuyển duy nhất còn hoạt động được. Xác lính Đức ngổn ngang trong khu vực sân bay. Dù trong tình thế nguy kịch nhưng lính Đức vẫn giữ kỷ luật nghiêm, chỉ ai có giấy chứng nhận có chữ ký của tham mưu trưởng tập đoàn quân và thương binh nặng mới được ưu tiên lên máy bay. Vì quân Nga đã tiến sát và bị pháo kích liên tục, chỉ có 4 chiếc máy bay Đức hạ cánh trong ngày 19. Ngày 22 tháng 1, chiếc máy bay He 111 rời sân bay với 19 thương binh và đây là chuyến bay di tản cuối cùng của tập đoàn quân 6 tại Stalingrad.[16]
Ngày 23 tháng 1, quân Nga chiếm được sân bay Gumrak.[17] Hi vọng giải thoát cho cho các sĩ quan cao cấp của tập đoàn quân 6 cũng chấm dứt. Ngoài ra, việc tiếp tế cho quân Đức giờ đây chỉ còn có thể thực hiện được bằng cách thả dù. Đại diện phía Nga đi đến phòng tuyến của Đức ngày 24 tháng 1 với lời đề nghị mới với những yêu cầu và lời hứa như cũ nhưng Paulus, nhận lệnh của Adolf Hitler không đầu hàng đã không hồi âm.[18]
Đến ngày 28 tháng 1, một đại đoàn có thời hùng mạnh bị cắt ra làm 3 mảnh nhỏ, mảnh phía nam là nơi Paulus đặt tổng hành dinh trong một trung tâm bách hóa một thời phát đạt Univermag. Ngày 30 tháng 1 1943, nhân kỷ niệm 10 năm Đảng Quốc xã lên cầm quyền, Hitler đã phong cho Paulus quân hàm thống chế. Từ trước đến nay, chưa một thống chế Đức nào bị bắt làm tù binh nên Hitler hi vọng Paulus sẽ chiến đấu đến chết. Tuy nhiên bất chấp điều đó, ngày 31 tháng 1, Paulus cùng toàn bộ các sĩ quan dưới quyền đã quyết định đầu hàng. Ngày 2 tháng 2 1943, các lực lượng quân Đức còn ở Stalingrad cũng đã đầu hàng. 91.000 lính Đức – kể cả 24 tướng lĩnh – đói khát, cóng lạnh, nhiều người mang thương tích, tất cả đều mê mụ, đau khổ, níu lấy tấm chăn lấm máu phủ lên đầu chống lại giá lạnh ở -24 °C, đi khập khiễng trên lớp băng tuyết hướng đến các trại tù binh ở Siberi. Nghe tin về sự đầu hàng của Paulus, Hitler đã nói với các sĩ quan của mình:.
"Tại Đức trong thời bình, có khoảng 18,000 đến 20,000 người tự sát mỗi năm mặc dù không ở trong tình huống như vậy. Thế mà một người như ông ta sao lại có thể đầu hàng bọn Bolshevik khi đã chứng kiến 50,000 đến 60,000 binh lính dưới quyền mình chiến đấu đến chết?!"
"Tôi rất hối hận khi phong ông ta quân hàm thống chế. Nếu tự tử, ông ta đã có thể trở thành bất diệt và anh hùng dân tộc nhưng ông ta lại muốn đến Moscow "
Trong đợt tổng tấn công của Liên Xô từ ngày 19 tháng 11 1942 đến 2 tháng 2 1943, theo tự nhận của tướng Liên Xô Zhukov trong hồi ký của ông thì 32 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức đã bị tiêu diệt; 16 sư đoàn bị thiệt hại từ 1/2 đến 3/4 quân số.[21] Như vậy đã có hơn 140,000 sĩ quan và lính Đức bỏ mạng trong những ngày cuối tại Stalingrad[cần dẫn nguồn]. Khoảng 40,000 thương binh và sĩ quan đã được di tản bằng hàng không. Trận Stalingrad kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của Hồng quân Liên Xô.
iv.Thương vong
Phe Trục thua với tổng số quân Đức, Hungary, và Ý thiệt hại gần 1 triệu người. Trong đó, tổng số quân Đức trong thành phố có 285.000 chết, bị bắt, mất tích và bị thương. 300.000 thương vong khác hững chịu bởi các Tập đoàn quân A, B và Sông Don đến giải vây.[22] Quân Ý thương vong 110 nghìn người, quân Rumani thiệt hại 160 nghìn, và quân Hungary là 143 nghìn. Thiệt hại này khiến quân Hungary chỉ có thể phụ hồi lại cho đến tận năm 1944.[23]. Còn Hồng quân tuy chiến thắng nhưng cũng chịu thiệt hại tới 1,1 triệu người. [24] Trong khi đó, trong hồi ký Nhớ lại và suy nghĩ của mình, nguyên soái Liên Xô G.K.Zhukov đưa ra con số tổn thất của quân Đức trong cả Mặt trận Volga (bao gồm Stalingrad và phụ cận) là gần 1,5 triệu người, khoảng 3.500 xe tăng và pháo tiến công, 12.000 khẩu đại bác và cối, gần 3.000 máy bay, một số lớn khí tài quân sự[25]. Tính chung thiệt hại của cả 2 bên lên tới 2 triệu người, khiến Trận Stalingrad trở thành trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới | [26]–[27] |1942–43
Trong thời gian bị vây hãm cuối chiến dịch, có khoảng 5000 thương binh Đức được di tản khỏi trận địa bằng máy bay, khoảng 140,000 chết tại trận, 91,000 bị bắt làm tù binh. Trong số 91,000 tù binh Đức tại Stalingrad, 27,000 người đã chết chỉ trong 1 tuần.[28] và chỉ còn 5,000 người trở về Đức năm 1955. Những tù binh còn lại đều chết trong các trại tù của Liên Xô.[29][30]. Tính ra trong số 91,000 tù binh chỉ còn khoảng 6% sống sót. Nếu không kể 5000 người đuợc di tản bằng đuờng hàng không, trong số 280,000 người tham chiến chỉ có khoảng 2% còn sống sót.
4.Kết quả và ảnh hưởng
759,560 người Liên Xô đã được trao tặng huân chương cho chiến tích phòng thủ Stalingrad từ ngày 22 tháng 12, 1942.
Theo tự nhận của phía Nga thì trận Stalingrad là bước ngoặt rất lớn về chính trị, quân sự và tâm lý của Đệ nhị thế chiến vì đây là lần đầu tiên quân đội vô địch của nước Đức phát xít bị đánh bại trong một trận đánh tiêu diệt lớn, với gần 1/4 quân số toàn chiến trường Xô-Đức bị tiêu diệt. Số tổn thất về lực lượng và phương tiện ấy đã ảnh hưởng tai hại đến đến tình hình chiến lược chung và làm rung chuyển tận gốc toàn bộ bộ máy chiến tranh của nước Đức. Vì cả quân Đức, Ý, Hungary, Romania đều bị tiêu diệt trên sông Volga và sông Đông nên uy tín của Đức với các nước đồng minh đã giảm đi rõ rệt. Bắt đầu có bất đồng, tranh cãi vì mất lòng tin vào bộ máy thống trị của Hitler, các nước bắt đầu mong làm thế nào thoát khỏi mạng lưới chiến tranh mà Hitler đã đẩy họ vào.
Tướng Zhukov của Nga tự nhận chiến thắng tại Stalingrad của Nga đã tạo thành một làn sóng vui mừng trên khắp thế giới cũng là một cổ vũ lớn đối với các dân tộc ở châu Âu đang nằm dưới sự chiếm đóng của Phát xít Đức.
Giáo sư Kumanhev nói: trong số tất cả các trận đánh và giao chiến mà đáng tiếc, loài người đã từng trải qua, Stalingrad là trận đánh lớn nhất trong lịch sử thế giới, xét về qui mô, hậu quả và những tổn thất. Trên thực tế, kết cục Thế chiến thế giới thứ hai và Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại phụ thuộc vào chính trận Stalingrad. Đã đòi hỏi những nỗ lực phi thường của nhân dân và quân đội Xô viết để chặn đứng quân thù.
Về phía Đức, tuy thất bại ở Stalingrad nhưng quân đội Đức còn rất mạnh và nhiều tiềm lực. Mùa hè năm 1943 (sau khoảng 3 tháng) quân Đức tổ chức trận đánh quyết định tại vòng cung Kursk để giành lại thế chủ động tiến công chiến lược nhưng một lần nữa quân Đức lại thua trận và sau lần này họ lún sâu vào thế bị động chống đỡ cho đến khi đầu hàng vào tháng 5 năm 1945.
Sau khi Stalin chết (1953), cùng với trào lưu chống sùng bái cá nhân Stalin, ban lãnh đạo Liên Xô đã đổi tên thành phố Stalingrad thành Volgograd nhưng trận chiến vĩ đại ở đây vẫn mang tên là trận Stalingrad. Ngày nay tại thành phố Volgograd trên đồi Mamaev, đỉnh cao của thành phố, có khu tượng đài nổi tiếng rất to lớn để ghi nhớ trận đánh và tên của hơn một triệu chiến binh Xô Viết chết trong trận đánh này.
Ngoài ra, Huân chương Suvorov hạng nhất đã được trao tặng cho các nguyên soái G.K.Zhukov, A.M.Vasilevsky, N.N. Voronov, N.F.Vatutin, A.I.Eremenko, K.K.Rokossovsky vì có thành tích góp phần vào công tác lãnh đạo chung đưa cuộc phản công ở Stalingrad đến thắng lợi to lớn. Rất nhiều tướng, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ cũng được khen thưởng. Trong khi đó, thống chế Đức Friedrich Paulus bị bắt làm tù binh và được thả vào năm 1953.