Vị hoàng đế Đường quốc bình sinh chỉ có bốn cái tốt. Một là mĩ nhân, hai là thơ từ, ba là nịnh phật, bốn là chơi cờ. Đứng đầu chính là nữ sắc. Mĩ nhân trong hậu cung của Lý Dục, tiểu Chu hậu là người được sủng ái nhất. Có lẽ là nếu thông qua sự can ngăn của văn võ bá quan trong triều sẽ không làm được việc gì, còn nếu dùng vị nương tử này, thông qua màn chăn gối của tiểu Chu hậu lại có thể đạt được mục đích của mình.
Minh Nhi không nói nữa, chỉ yên lặng đánh cờ. Khi tiểu Chu hậu từ từ tiêu hóa được cái tin tức đáng sợ này, tiểu Chu hậu liền lẩm bẩm tự nói: "Tin tức này thực sự ta chưa từng nghe thấy. Nếu như Tống đế mong có được bổn cung thì e rằng không ổn rồi. Sứ tiết Tống triều Dương Hạo lại sắp đến rồi, bổn cung sẽ bào người cẩn thận theo dõi hắn, nếu như Tống đế có dã tâm không từ với Đường quốc ta thì tất sẽ có hành động khác thường."
"Bộp!" Quân cờ trong tay Mạc cô nương liền rơi xuống.
Mạc Dĩ Minh kinh ngạc nói: "Nương nương nói… sứ tiết Tống triều sắp tới sao? Người đó họ tên là gì?"
Tiểu Chu hậu nói: "Người này họ Dương tên Hạo, sao thế, Minh Nhi muội muội đã từng nghe thấy cái tên này ư?"
"Chưa từng nghe thấy." Mạc cô nương mắt lóe lên, cắn nhẹ môi, trong lòng thầm oán hận: "Sao ta đến đâu thì hắn lại đến đấy vậy, tên khốn này không chịu để cho người ta yên."
***
Dương Hạo và Từ Huyễn ra khỏi bến thuyền, đi theo sự dẫn dắt của quan viên lễ tân viện Đường quốc lên kiệu đến thành Kim Lăng.
Lý Dục bây giờ xưng thần với Tống, không dám huênh hoang ra vẻ để sứ thần Tống quốc nhìn thấy. Dương Hạo vừa đến thành Kim Lăng liền tiến thẳng đến phía vương cung, đến cổng vương cung Dương Hạo lại do một ti lễ cung đình đích thân dẫn vào trong đại điện, quốc chủ Giang Nam Lý Dục đã đích thân ra nghênh đón. Bây giờ Lý Dục đã bỏ bộ long bào để khoác lên tử y.
Dương Hạo vừa nhìn thấy đại nhân vật có tiếng trong sử sách, không khỏi thấy thất vọng. Sự đẹp đẽ không có từ nào sánh nổi, không có ai bì kịp của Lý Dục trong lòng Dương Hạo cho dù bây giờ tuổi tác có lớn một chút thì tuyệt đối không thể là một công tử nho nhã, ít nhất cũng nên là một đại thúc có diện mạo đẹp đẽ, mặt ngọc mày ngà.
Nhưng con người mặc tử y trước mặt lại quan chẳng ra quan, dân chẳng ra dân, người hơi béo một chút, khuôn mặt tròn và hơi béo, hơn nữa cả mồm đầy răng to, điểm đặc biệt là trong mắt hắn mọc ra hai cái đồng tử mà khi nhìn về phía người đối diện mà lại như đang liếc nhìn chỗ khác, làm cho người ta thấy không được thoải mái.
Con người này trong truyền thuyết là một đấng hoàng đế của thơ ca, chính là người đã viết ra những câu thơ tuyệt thế sao? Cảm giác của hắn giống như vỡ mộng vậy, hoàng đế thơ ca trong lòng hắn hóa ra lại cà một người có dáng vẻ như thế này.
Dương Hạo thầm thở dài. Lý Dục bước lên trước: "Đường quốc chủ Lý Dục xin ra mắt khâm sai thượng quốc, hậu chỉ." xem tại Trà Truyện
Khí độ của Lý Dục vẫn rất ung dung bình tĩnh, vừa thấy Dương Hạo đến liền chắp tay thi lễ. Dương Hạo nhớ đến cái phong thái lúc Lục Nhân Gia đến Quảng Nguyên dự tiệc với Trình đại tướng quân, Dương Hạo liền cúi mặt xuống, miệng hơi nhếch lên, mô phỏng lại cái dáng vẻ đáng ghét không coi ai ra gì của Lục Nhân Gia, hắn giơ tay lên nói: "Hóa ra là Giang Nam Đường quốc chủ, xin mời."
Vừa nói vừa vẫy tay, tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào liền chạy tới hai tay dâng lên thánh chỉ, Dương Hạo tuyên đọc thánh chỉ trên kim điện, chính thức gia phong Lý Dục làm Giang Nam quốc chủ, đọc xong một loạt những lời an ủi gia miễn, Lý Dục tạ ân lĩnh chỉ, Dương Hạo lúc này mới bỏ cái thế của sai sứ, làm lễ kiến gặp vương gia.
Dương Hạo hành lễ chính là học cái đức tính của Lục Nhân Gia, chắp tay tùy ý, mắt lại không nhìn vào mắt Lý Dục, thể hiện rất rõ cái ý làm lễ lấy lệ, qua quýt. Thấy trên khuôn mặt của những tùy thị, đại thần Đường quốc có chút phẫn nộ, thái độ của Dương Hạo càng ngông nghênh hơn, ngay cả hồng lư tự tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào của Tống quốc cũng đều thấy lo lắng, luôn ra hiệu bằng mắt với hắn, bảo hắn thu bớt lại cái sự hống hách.
Lý Dục phái huynh đệ và Từ Huyễn đến Tống quốc xưng thần, bây giờ hắn đã trở thành Tống thần, Từ Huyễn trở về rồi, nhưng huynh đệ hắn thì lại trở thành con tin của Tống quốc. Hắn đường đường là đế vương của một nước, bây giờ lại chắp tay xưng thần với người ta thì cũng thôi vậy, nhưng giờ lại còn phải nịnh nọt, hạ vế với một tên quan nhỏ ngũ phẩm Tống triều như Dương Hạo, vậy mà trên mặt hắn lại không có chút phẫn nộ nào.
Dương Hạo thấy vậy không khỏi thầm than thở: "Nêu như Lý Dục có nửa phần khí chất, có gan chủ động chiến với Tống triều, cho dù có bị thất bại, bây giờ ngầm chịu đựng thì vẫn được coi là một đấng kiêu hùng. Đáng tiếc con người này lại cam chịu khuất phục, chỉ là loại muốn an phận thủ thường mà thôi. Hắn có thể an nhàn đến khi nào chứ?"
Lý Dục đưa Dương Hạo vào điện ngồi. Sau một hồi nói chuyện, liền sai người bày tiệc trong cung, văn võ bá quan cùng tiếp đón. Chức quan nhỏ bé này của Dương Hạo vốn không xứng để ngồi ngang hàng với Lý Dục, cho dù hắn là sứ thần của thượng quốc, truyền xong ý chỉ cũng không có tư cách nhận lễ của Lý Dục. Bảo hắn vào ngồi cùng chẳng qua là lời khách sáo, không ngờ Dương Hạo lại không hề có một chút khiêm nhường nào, liền thoải mái bước vào chỗ ngồi ngang hàng với quốc chủ một nước.
Có một số đại thần Đường quốc tức đến cắn chặt răng, dường như sắp đứng dậy chiến đấu ngay tại chỗ, nhưng họ đều bị ánh mắt ra hiệu đầy nghiêm khắc của Lý Dục ngăn lại. Vì thế, trong tiếng nhạc hân hoan của bữa tiệc lại ngầm ẩn chứa một luồng phẫn nộ cực lớn, không khí trở nên có chút kì dị, nhưng Dương Hạo lại làm như hoàn toàn không cảm thấy.
Rượu đã qua tam tuần, Lý Dục liền thử dò xét, nói: "Dương tả sứ hôm nay nhận mệnh thánh thượng đến Đường quốc ta, thuyền xe mệt nhọc, cả đường vất vả, hôm nay ta bày yến tiệc này để tẩy phong trần, bày tỏ sự thăm hỏi tới ngài. Đường quốc ta tuy không thể thịnh vượng bằng Đại Tống, nhưng Giang Nam vẫn có cảnh đẹp của Giang Nam. Dương tả sứ khó lắm mới có được một chuyến đến đây, mời ngài ở lại mấy hôm để ta có thể tận nghĩa chủ nhà."
Dương Hạo cười mà như không cười, nói: "Ha ha ha, quốc chủ khách khí rồi. Hạ quan phụng mệnh của thánh thượng tuyên phủ Giang Nam, tuyên phủ thôi mà, chung quy tuyên ý chỉ cho quốc chủ là được rồi, còn dân quân Giang Nam đương nhiên cũng cần phải an ủi, địa lý Đường quốc cũng phải đi một lượt để xem, phong tục dân gian cũng cần hiểu một chút. Trở về mà quan gia hỏi ở Đường quốc biết được những gì mà hạ quan lại không đáp được, há chẳng phải làm quan gia không vui hay sao?"
Lý Dục nghe xong trong lòng thầm nghĩ: "Đúng là không ngoài dự liệu, hắn sẽ không cam tâm rời khỏi đây. Bây giờ ta đã xưng thần với Tống quốc, tên Dương Hạo chắc chắn sẽ mượn thế của Tống để ức hiếp làm nhục ta, làm tăng uy thế của Tống quốc. Hắn vừa tới đây mà đã kiêu ngạo như vậy, không biết nếu hắn ở lại thêm mấy ngày nữa thì sẽ gây ra thêm chuyện gì đây. Phải làm thế nào để cho hắn sớm rời khỏi bây giờ?"
Màn múa đã kết thúc, tám mĩ nữ mặc y phục màu phỉ thúy thi lễ chào rồi từ từ lui ra ngoài. Chiếc màn trước cung điện buông xuống, đột nhiên một đài hoa sen bằng vàng ngọc nhẹ nhàng trượt vào, đài sen đó xoay chuyển nhẹ, ánh sáng kì ảo của nó làm cho người ta cảm thấy lóa mắt, ngay cả Dương Hạo, kẻ đang nghênh ngang kiêu ngạo cũng không khỏi phải thu lại cái vẻ ngông cuồng, nhìn chăm chú về phía trước.
Đài hoa sen đó dừng lại ở giữa điện, giữa đài sen mọc ra một đóa hoa sen tuyệt đẹp, từng cánh hoa nở ra, nhìn như một đóa hoa thật, tiếp theo đó là có một làn hương thơm ngát từ trong đóa sen đó tỏa ra. Dương Hạo không hề ngờ rằng ca vũ trong cung đình Đường quốc lại có một thiết kế tinh xảo như thế này, so với thiết kế vũ đài trong Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu cũng có phần nhỉnh hơn.
Vì đài hoa sen này đều là dùng vàng để tạo thành, cho nên so với thiết kế vũ đài của Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu có hiệu quả làm cho người ta chú ý hơn. Nhưng thiết kế vũ đài trong Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu lại là thứ mà người ở thời đại này không thể tưởng tượng ra được. Đài hoa sen mà có chứa người bên trong này đã dùng kĩ thuật trượt để mở ra, hơn nữa bên trong còn ngầm đặt vào một loại hương thơm đặc biệt, để tăng thêm tính thực của nó. Đây là thủ bút của ai vậy, sao lại có được tế bào nghệ thuật, tâm tư lãng mạn như vậy?
Dương Hạo không khỏi tán thưởng nói: "Đài hoa sen này là do ai nghĩ ra vậy, thật là quá tuyệt mĩ."
Lý Dục không khỏi lộ ra vẻ đắc ý, cười nói: "Đài hoa này là do ta và vương hậu kết hợp nghĩ ra, thật là đã lọt vào mắt thần của Dương tả sứ."
"Tuyệt, quá tuyệt."
Lý Dục mỉm cười: "Dương tả sứ có thể tiếp tục xem xem, bên trong đài hoa kì diệu này vẫn còn có một diệu nhân nữa."
"Sao cơ? Vậy ta phải đợi để tận mắt xem mới được."
Sau đó tiếng sáo trúc vang lên, cánh hoa mở dần ra, khi hương thơm bay khắp đại điện thì một mĩ nhân ẩn giữa đóa hoa nhẹ nhàng uyển chuyển đứng dậy. Dương Hạo không khỏi kinh ngạc kêu lên. Một đóa hoa nhỏ như vậy, bên trong nếu mà giấu một đứa bé bốn năm tuổi thì còn dễ dàng, nhưng đây rõ ràng lại là một nữ tử xinh đẹp mười bảy mười tám tuổi, quả thật là kì diệu.
Từ sau cái lần đến Quảng Nguyên gặp nữ thích khách giả mạo lên đài hiến nghệ, tận mắt thấy một người xương mềm một cách kì diệu, thì đây là lần đầu tiên Dương Hạo thấy một nữ tử có thể luyện được nhuyễn cốt công đến mức này.
Nàng ca kĩ đó mặc một bộ y phục màu hồng, cơ thể mềm mại yểu điệu, nàng đứng trên đài sen cong lưng uốn lượn. Lúc này Dương Hạo mới phát hiện ra chân nàng chỉ đi một đôi tất làm nổi rõ đôi chân thon thả của nàng, tà váy bay bay, cơ thể cũng chuyển động theo, như thể đang lướt trên mặt nước vậy.
Ánh mắt của Dương Hạo rất nhanh đã tập trung lên đôi chân của mĩ nữ đang múa đó, đôt tất đó không phải là một đôt tất vải bình thường, mà là đôi tất tầng màu trắng, làm cho đôi bàn chân của nàng bó lại, giúp cho nàng khi múa động tác xoay chuyển có thể dùng đầu mũi chân mà đỡ được cả cơ thể. Xem ra đôi tất này cũng có tác dụng như giày múa ba lê.
Cái đẹp của mĩ nhân thường được người ta chú ý đến bởi bộ ngực đầy đặn, cổ tay thon nhỏ, eo nhỏ nhắn, màu da, ngũ quan, nhưng vẻ đẹp ở đôi chân lại khó làm người ta chú ý đến nhất, chỉ có một người đầy linh tính và cảm tính mới có thể cảm nhận được một mùi vị kiều diễm từ đôi chân ngọc nhẹ nhàng đó.
Dương Hạo không phải là người mắc bệnh yêu chân, lúc này cũng không phải đã nhìn ra nước da của đôi chân đẹp đó có phải là mượt mà óng ả hay không, nhưng đôi mắt vẫn không ngừng nhìn vào đôi chân ấy, trong lòng có cảm giác như đôi chân của Lăng Ba tiên tử, một cảm giác phong trần. Ngôn ngữ cơ thể của mĩ nhân nếu có thể biểu đạt được tốt thì tuyệt đói sẽ làm cho nam nhân động lòng hơn là ngũ quan tuyệt mĩ của nàng ta. Dương Hạo trước đây chưa từng nhìn thấy, hắn tin rằng sau này cũng sẽ không thể lại nhìn thấy được một đôi chân tuyệt đẹp mà lại có kĩ nghệ như vậy.
"Quốc chủ, vị vũ kĩ của cung đình quý quốc quả thật là kĩ nghệ cao cường." Dương Hạo thầm tán thưởng một hồi lâu, rồi không khỏi thở dài mà khen một câu, đôi mắt vẫn không ngừng nhìn theo sự chuyển động của đôi chân ấy.
Lý Dục cười tự đắc nói: "Đây là vũ kĩ quan nương trong cung của ta, vũ kĩ tuyệt diệu, là đệ nhất hậu cung."
"Quan nương?" Trong lòng Dương Hạo động: "Quan nương? Trong các mĩ nữ có tiếng được ghi lại vào sử sách, ngoài tiểu Chu hậu ra thì còn nhắc tới quan nương, hóa ra người đó chính là người đang đứng trước mặt mình. Nghe nói quan nương thích đôi chân nhỏ, nên thường mang đôi tất bó giống như giày ba lê này, mục đích là để cho đôi chân càng đẹp hơn, có thể đứng lên bằng mũi chân, bảo sao hậu nhân của họ vẫn cứ thích bó chân một cách kì quặc đến tận hai triều Minh Thanh."
Lý Dục thấy Dương Hạo ngẩn ra, hai mắt xuất thần, trong lòng không khỏi giật mình: "Lẽ nào vị sứ thần Đại Tống này đã mê mẩn quan nương rồi? Nếu như hắn cố chấp không đi khỏi Đường quốc ta, ép ta vào thế khó xử, phải chăng ta nên để quan nương…"
Quan nương là vũ kĩ ở trong cung Đường, những vũ kĩ này nếu như hoàng đế có hứng thú với au thì đều có thể triệu họ đến hầu hạ, nhưng họ lại không được coi như là phi tần trong hậu cung, không có thân phận gì, tùy ý có thể điều ra khỏi cung. Nếu như dùng một vũ kĩ là có thể đối lấy được thái bình thì cũng đáng.
Lý Dục trong lòng ngầm có ý như vậy, nhưng khi ngẩng đầu lên nhìn thấy mĩ nhân kiêu sa, nhảy múa điêu luyện lại cảm thấy tiếc không nỡ.
***
"Dương tả sứ, trong dịch quán đã sắp xếp ổn thỏa nơi ở của ngài rồi, hạ quan sẽ đưa Dương tả sứ về đó nghỉ, có được không?"
Cung yến đã tan, mọi người ra khỏi hoàng cung, một viên quan của Đường quốc chạy tới trước mặt Dương Hạo kính lễ nói.
Vị quan viên với vẻ mặt đầy nịnh nọt này vẫn còn khá trẻ, khoảng hai lăm, hai sáu tuổi, dung mạo rất thanh tú. Vị quan này tên là Dạ Vũ, họ của hắn khá là hiếm gặp. Hắn vốn là đại hồng lư của Đường quốc, nhưng bây giờ Đường triều đã cải chế, từ hoàng đế xuống, tất cả đều hạ cấp theo quy cách, vị Dạ đại hồng lư này cũng bị cách xuống làm lễ tân viện trưởng.
Vị Dạ đại nhân này là một quan viên xuất thân chính kinh, hắn vốn là một vị tú tài thi rớt, vì gia đình bần hàn không có lộ phí lên đường đi thi, tạm thời xin sống ở trong chùa, giúp hòa thượng chép kinh để kiếm mấy bữa cơm. Hoàng đế Đường quốc sùng phật đạo, mấy trăm nghìn tự viện đều đương hương khói cường thịnh, đám hòa thượng người nào người nấy đều béo tròn, có quyền tiền bạc, nên thuê vị tú tài này vể làm kẻ chép kinh.
Vị Dạ đại nhân này có giọng ca hay, ngày ngày ở trong chùa chép kinh, nghe thấy đám hòa thượng xướng kinh, tai nghe nhiều thành nhiễm, rồi học được. Rồi đột nhiên một ngày, sau khi hắn chép kinh xong liền đến trước viện, khoa chân múa tay, tùy ý xướng lên một khúc kinh. Tuy không có tiếng gõ mõ, nhưng phật âm lại vang lên thanh thoát nghiêm trang, đúng lúc Lý Dục đến lễ phật nghe thấy được.
Lý Dục giỏi thơ ca, giỏi múa hát, lại giỏi phật học, liền cùng với hắn đàm đạo một hồ. Dạ đại nhân đương nhiên là đối đáp trọn vẹn, vì hắn đã chép không biết bao nhiêu kinh phật. Lý Dục vô cùng vui mừng, biết rằng bụi che ngọc sáng, liền lập tức ban cho hắn một chức quan, cho nhập triều để lo lễ phật mỗi lần xuất cung. Cứ như vậy mà hắn dần dần thăng cao hơn, chưa đầy hai năm mà hắn đã lên được cái vị trí cao ngất ngưởng hồng lư tự này.
Dạ hồng lư nhận được chỉ mệnh của Lý Dục, phải hết sức tiếp đón vị sứ thần Đại Tống này, tránh để hắn gây chuyện thị phi ở Kim Lăng, nhưng hắn có yêu cầu gì thì cố gắng đáp ứng hết. Dạ Vũ vốn chỉ có dựa vào việc nịnh bợ Lý Dục mà thăng quan, chứ thực ra hắn không có mấy tài cán thực sự. Bây giờ tỏ thái độ như vậy cũng là chuyên môn chính của hắn, đương nhiên hắn có thể thoải mái mà làm.
Dương Hạo mỉm cười nói: "Bổn quan vẫn chưa thấy mệt, lần đầu đến Kim Lăng, chưa từng được biết đến sự phồn hoa của nơi này, nên ta muốn đi dạo quanh phố phường một chút."
Dạ Vũ có chút khó xử nói: "Việc này… những nghi trượng của khâm sứ đều phải dẫn theo sao?"
Dương Hạo lúc này mới chợt nhớ ra, hắn bật cười nói: "Nói cũng đúng, vậy về dịch quán trước đã, uống miếng trà cho mát họng rồi sẽ ra phố dạo."
Sau đó hắn liền vẫy vẫy tay về đội nghi trượng. Mọi người cùng về dịch quán, Dương Hạo đến phòng của mình, cởi bỏ áo quan, mặc vào y phục nhẹ nhàng thoải mái, thường ngày. Đang sắp xếp đồ đạc của mình thì hồng lư tự thừa Tiêu Hải Đào liền vội vàng chạy tới, lo lắng nói: "Đại nhân, hôm nay trên triều đình Đường quốc, đại nhân làm như vậy với Giang Nam quốc chủ quá thất kính rồi, phô trương như vậy e rằng sẽ gây bất lợi đối với sứ mệnh lần này của chúng ta."
Dương Hạo cười nói: "Tiêu thừa tự nghĩ nhiều rồi, chúng ta lần này đến Đường quốc, cho dù có cẩn thận như thế nào đi chăng nữa, thì ngài nói xem liệu họ sẽ không nảy sinh sự đề phòng với chúng ta sao? Bất kính với Lý Dục, nếu hắn dám động thủ cũng không sao, nhưng nếu hắn đã nhẫn nhịn như vậy thì việc ta làm đã có hiệu quả đánh phủ đầu. Giang Nam quốc chủ còn phải nhẫn nhịn với chúng ta, vậy người bên cạnh sao dám gây khó dễ với chúng ta chứ. Chúng ta muốn du tẩu tứ phương, thăm dò địa hình, làm tình báo há chẳng phải dễ dàng hơn sao?"
Tiêu Hải Đào chớp chớp mắt nói: "Những lời đại nhân nói, hình như… cũng có chút lý."
Dương Hạo vỗ vai hắn, nói: "Không phải có chút lý mà là rất có lý. Chúng ta còn có một sứ mệnh, chính là ly gián quân thần họ, gây bất hòa giữa văn võ. Ngài nghĩ xem, chúng ta hừng hực khí thế tới, Lý Dục lại nhẫn nhịn nhún nhường, một hoàng đế chỉ biết nhún nhường thì trong mắt các thần tử của hắn sẽ có cảm giác gì chứ? Quốc chủ không thể dựa vào được, vậy thì đám thần tử đó sẽ dần có ý định tìm con đường khác, kẻ có lòng trung thành tận tâm cũng sẽ nản lòng, sĩ khí suy giảm. Dương mỗ chỉ cần một hành động đã có thể tiến tới gần mục đích, sao lại không làm chứ?"
Tiêu Hải Đào vuốt chòm râu cân nhắc một hồi, đột nhiên tán thưởng: "Kế này của Dương tả sứ quả thật là tuyệt diệu, hạ quan hồ đồ rồi."
Dương Hạo cười ha ha nói: "Bây giờ hiểu rõ cũng chưa muộn, cả chặng đường ngài phải chạy ngược chạy xuôi, cũng mệt rồi, đi nghỉ ngơi chút đi, bổn quan ra phố dạo chút."
Tiêu Hải Đào vội nói: "Đại nhân mới tới Kim Lăng, đây là lúc mà vạn người trông theo, lại còn có Dạ đại nhân Đường quốc đi cùng, sợ là khó có thể thu thập được tin tức tình báo gì có tác dụng."
Dương Hạo thở dài, buông hai cánh tay xuống nói: "Tiêu đại nhân này, ngài xem, ta là khâm sứ Tống quốc, cho dù ta có không phô trương thì sao lại có thể không gây sự chú ý chứ? Những việc thăm dò quân tình, vẽ địa đồ đương nhiên là phải do ngài đem người đi làm rồi.
Còn bổn quan bây giờ chính là một ngọn đuốc, ta tự thiêu chính mình, để sự chú ý của tất cả mọi người hướng vào người ta, tiện cho ngài hành sự, đây chính là sứ mệnh của ta. Ngài hiểu không?"
"Hiểu rồi." Tiêu Hải Đào vui vẻ gật đầu: "Đại nhân thật là giỏi."
"Ha ha ha." Dương Hạo cười lớn vang cả ra ngoài, Dạ Vũ vừa từ ngoài cửa đã nghe thấy tiếng, hắn làm vẻ mặt tươi cười bước tới nói: "Dương tả sứ thật là cao hứng, có chuyện gì mà vui vẻ thế?"
Dương Hạo cười liếc mắt nhìn hắn, nói: "Đại nhân cả người quan phục, bây giờ ra đường không tiện. Ý, Tiêu đại nhân, hai người dáng người tương đương nhau, mượn tạm một bộ thế nào?"
Dương Hạo và Dạ Vũ mặc hai bộ thường phục bước ra ngoài phố, ngay cả một kẻ hầu cũng không mang theo, càng không nói tới thị vệ. Dương Hạo làm như vậy là để hình thành một thói quen, nếu không cái đám thị vệ trước gọi sau hô, lúc nào cũng đi bên cạnh, nếu đột nhiên có một ngày hắn không mang theo thị vệ bên mình mà đột nhiên là "chết", thì sẽ không tránh khỏi người ta nghi ngờ.
Dạ Vũ thật không biết vị Dương đại nhân này có chỗ nào mà cao hứng đến thế, lại vui vẻ đi dạo, hắn đành phải cố gắng mà đi hầu cùng. Dương Hạo du tẩu đến con phố lớn, một là muốn đến xem đường phố, tìm cớ để đắc tội với người ta, tốt nhất là đắc tội với võ tướng của Nam Đường, như vậy mình đột nhiên "chết" mới có lý do chính đáng, không làm cho đối phương và Triệu Khuông Dận nghi ngờ mình giả chết. Hai là muốn quen với hình thế của Kim Lăng, tìm một nơi để mình "chết", đồng thời để cho người ta nghĩ rằng mình có thói quen đi dạo phố.
Cứ như vậy, hắn từ từ bước đi, dạo đông dạo tây, đến tận gần trưa mới tới được Kê Lung, nơi phồn hoa náo nhiệt nhất Nam Đường. Phố Kê Lung rất phồn thịnh, nhà nhà đều là cửa tiệm, đủ các loại hàng hóa ngành nghề buôn bán: tiệm gạo, tiệm tơ lụa, tiệm gốm sứ, tiệm dược…
Dương Hạo nhìn đông ngó tây, giống như một con rắn không đầu chạy loạn xạ vậy, làm cho Dạ Vũ Dạ đại nhân chạy theo sau mệt đến mềm nhũn cả chân, khổ không nói lên lời. Mắt thấy Dương Hạo chạy khắp nơi nhìn ngó, giống như đang tìm vật gì vậy, Dạ Vũ đột nhiên chột dạ, hỏi dò: "Dương tả sứ, trời đã vào chính ngọ, ngài xem chúng ta có nên tìm một quán rượu nào đó, gọi mấy món ăn ngon, rồi tìm mấy ca kĩ vũ nữ tiếp rượu cho vui không?"
Dương Hạo vốn không có ý này, nhưng vừa nghe thấy hắn nói vậy liền kêu hay. Dạ Vũ thầm bĩu môi khinh thường: "Chẳng trách hắn ngay cả một thị vệ cũng không muốn mang theo, hóa ra là muốn thưởng thức mùi vị dịu dàng của mĩ nữ Giang Nam ta. Ngươi cứ nói sớm đi chứ, hại ta phải chạy theo ngươi đến mềm nhũn cả chân. Có đều vị sứ thần này cũng quá nóng vội cơ."
Dạ hồng lư lấy lại tinh thần, đang muốn đưa Dương Hạo đến một thanh lâu mà mình quen thuộc, thì phía trước có mười mấy vị hộ binh đột nhiên vây quanh một vị tướng quân anh tuấn trẻ tuổi, chạy bước lớn tới, bước chân đột nhiên tăng tốc. "Bên trong, xông vào đó."