Sáng hôm sau Tạ Giám tỉnh lại, thấy Linh Hồ Thanh đã ngồi dậy, lại chống cằm ngẩn người.
Tạ Giám ngạc nhiên hỏi: “Thanh Nhi làm sao vậy?”
Linh Hồ Thanh quay lại nhìn hắn: “Công tử không phải nói chúng ta không có tiền sao, sáng nay làm sao bây giờ?”
Tạ Giám “Nga” một tiếng: “Còn có chút chúc, sáng nay sẽ đủ.”
Linh Hồ Thanh một bên mặc quần áo, buồn buồn nói: “Về sau thì sao?”
Tạ Giám véo nhẹ mũi nó một chút, cười nói: “Trường An lớn như vậy, làm sao có thể chết đói.”
Hai người ăn xong điểm tâm, Tạ Giám trải ra một cuộn giấy: “Năm trước có một lão bản thư họa trai (chắc là quán thư họa) quen biết muốn mua chữ của ta, nhưng ta lại không bận tâm đến. Bây giờ trước tiên viết mấy bức, sau đem sang hỏi hắn còn muốn không.” Hướng nghiên mực chấm một chút, lại ảo não nói: “Tối hôm qua Miên Khanh tặng ta một ít mực nhưng đã quên mang về.”
Đang nói, nghe có tiếng đập cửa. Tạ Giám cười nói: “Không chừng là Miên Khanh đem mực đến, Thanh Nhi đi mở cửa.”
Linh Hồ Thanh ra ngoài trong chốc lát, Tạ Giám ở phòng trong chợt nghe nó kêu sợ hãi một tiếng, nghĩ là Chung Quan Hiến lại đến đây phiền toái, vội vàng chạy ra, đã thấy ngoài cửa không phải Chung Quan Hiến, mà là Dương Chấp Nhu ở trên núi ngoài thành vô tình gặp.
Tạ Giám vạn lần không nghĩ tới có thể ở Trường An gặp Dương Chấp Nhu, vội vàng bước tới, vui mừng: “Chấp Nhu huynh! Không thể tưởng được lại chính là ngươi.”
Dương Chấp Nhu cũng mỉm cười nói: “Ta cũng không dự đoán được huynh đài ở nơi này.”
Linh Hồ Thanh run nhè nhẹ trốn ở sau lưng Tạ Giám, nắm lấy Tạ Giám tay áo. Tạ Giám hướng Dương Chấp Nhu hỏi: “Không biết Vong Nhất đạo trưởng có hay không cùng Chấp Nhu huynh đến đây?”
Dương Chấp Nhu mỉm cười nói: “Hắn ở nơi nào, ta cũng không biết. Tạ huynh không cần lo lắng.”
Tạ Giám cười, nói: “Chấp Nhu huynh mời theo ta.”
Trong phòng nhỏ hẹp không tiện đãi khách, Tạ Giám liền đem Dương Chấp Nhu dẫn tới tiểu đình giữa hồ, nước hồ xuân ấp áp, liễu rũ chao nghiêng, quả là phong cảnh hữu tình. Linh Hồ Thanh nhớ rõ trong phòng còn ít lá trà, liền đi pha một ấm trà đến.
Tạ Giám cười nói: “Chấp Nhu huynh vì sao đến nơi này, chính là nhận biết chủ nhân viên này sao?”
Dương Chấp Nhu bình thản đáp: “Ta cảm thấy được này viên có linh khí, nghĩ đến bái phỏng bái phỏng thôi. Nghe huynh đài nói như vậy, này viên tựa hồ không phải của huynh.”
Tạ Giám gật đầu: “Ta là ở nhờ.” Lại nói: “Chấp Nhu huynh nói này viên có linh khí, ta liền bồi Chấp Nhu huynh đi một vòng xem thử.”
Dương Chấp Nhu lắc đầu mỉm cười nói: “Không cần, linh khí từ linh vật mà phát, này linh vật cũng đã thấy được.” Câu sau tất nhiên là nói Linh Hồ Thanh.
Tạ Giám hiếu kỳ nói: “Chấp Nhu huynh hiểu biết về khí?”
“Vong Nhất từng dạy ta một ít.”
“Lòng ta vẫn có một chuyện khó hiểu, Chấp Nhu huynh hứa không trách ta mạo muội ta mới có thể nói.”
Dương Chấp Nhu mỉm cười: “Mời nói.”
Tạ Giám ánh mắt chuyển, dừng ở đoản kiếm bên hông Dương Chấp Nhu chừng hai thước hơn, cười nói: “Muốn biết kiếm của Chấp Nhu huynh tác dụng gì.”
Dương Chấp Nhu uống một ngụm trà, cười cười: “Không có tác dụng gì đặc biệt, bất quá chuyên kề cổ những kẻ vô ơn bạc nghĩa.”
Tạ Giám ngạc nhiên: “Kẻ vô ơn bạc nghĩa? Chấp Nhu huynh quản loại sự tình này?”
Dương Chấp Nhu chỉ mỉm cười: “Kẻ vô ơn bạc nghĩa, đáng bị trừng phạt, người trong thiên hạ đều quản được. Huống chi ta cũng không phải giết người mù quáng, kiếm trước khi ra khỏi vỏ, phải phân rõ thị phi đúng sai.”
Tạ Giám cười nói: “Nguyện nghe tường tận.”
Dương Chấp Nhu hai hàng lông mày khẽ nhếch nói: “Cái gọi là vô ơn bạc nghĩa, một là phụ tình nhân, hai là phụ tình mình. Phụ nhân phụ mình, hơn phân nửa là có nỗi khổ bất đắc dĩ, bằng không ai chịu bỏ rơi người mình yêu, lại hại chính mình vô cùng hối hận một đời. Nếu gặp, tự nên tương trợ; còn hạng người phụ ân tình, bội tình bạc nghĩa, thay lòng đổi dạ, tự nhiên một kiếm giết, lấy huyết hắn tế kia tây phong hồng lệ, bách chiết nhu tràng (chỉ những người bị phụ bạc).”
Tạ Giám nâng chung trà uống một ngụm, chỉ hận không phải rượu ngon, cười nói: “Thống khoái! Chỉ hận ta một kẻ thư sinh, không thể cùng Chấp Nhu huynh thay trời hành đạo.” Mâu quang (con ngươi) lóe sáng, vừa cười nói: “Chấp Nhu huynh tới đây, đó là vì ta bạc hạnh người ở thanh lâu đi.”
Dương Chấp Nhu mỉm cười nói: “Đúng vậy, Tạ huynh hảo thông minh. Lại nghĩ không ra nguyên là cố nhân…”
Lời còn chưa dứt, Tạ Giám chỉ cảm thấy trước mắt bóng trắng nhoáng lên một cái, âm ấm vài giọt máu tươi ở trên mặt. Dương Chấp Nhu mặt nhăn mày nhíu, tay nắm lấy tiểu hồ ly, muốn nó nhả ra, nó lại cắn cổ tay Dương Chấp Nhu thật chặt không buông, ống tay áo đã bị huyết nhuộm một mảnh.
Tạ Giám mỉm cười nói: “Con thỏ nóng nảy còn muốn cắn người, Chấp Nhu huynh xem nó.” Nhìn nó bên miệng dính huyết, nhẹ nhàng thay nó lau, cười nói: “Nếu ta phụ Thanh Nhi, tự nhiên tẩy sạch cổ chờ Chấp Nhu huynh đến giết. Nếu vì chuyện khác giết ta, ta chết cũng quyết không phục.”
Dương Chấp Nhu mỉm cười nói: “Tạ huynh không nói, ta cũng biết.”
Tạ Giám khẽ vuốt lông tiểu hồ ly, nói: “Không biết Chấp Nhu huynh chính mình tình đã phân định rồi chưa?”
Dương Chấp Nhu mỉm cười, nói: “Không dối gạt Tạ huynh, lạc hoa hữu ý** mà thôi.”
Tạ Giám hơi ngạc nhiên, cười nói: “Nước chảy như thế nào vô tình**?”
**Lấy ý từ “Lạc hoa hữu ý tùy lưu thủy. Lưu thủy vô tình luyến lạc hoa” (Hoa rơi có ý theo nước chảy. Nước chảy vô tình cuốn hoa trôi) do Sỹ Khuê thiền sư ở Trường Túc am tại Ôn Châu viết, chép trong Tục Truyền Đăng Lục. Ý nói Chấp Nhu có tình, nhưng người kia không biết.
Dương Chấp Nhu rầu rĩ nói: “Hữu tình vô tình, nước tự chảy xuôi.”
Tạ Giám ngạc nhiên nói: “Sao lại nói vậy?”
Dương Chấp Nhu thản nhiên cười nói: “Bất quá là gặp mặt một lần, chưa từng giao đắc một ngữ (nói một chữ).”
Tạ Giám “Nga” một tiếng, nói: “Cũng chỉ đành chờ hảo hữu duyên tái kiến.” Chợt nhớ tới Linh Hồ Thanh tỷ tỷ Linh Hồ Sương Huyền, cười nói: “Nếu Chấp Nhu huynh cùng ý trung nhân vô duyên, ta biết một người, nhất định là hợp ý Chấp Nhu huynh.”
Dương Chấp Nhu cười mà không nói.
Hai người lại thuận miệng nói một chút về phong vật nhân tình (phong cảnh tình người), Dương Chấp Nhu liền đứng dậy cáo từ.
Tạ Giám cũng không lưu Chấp Nhu, hắn tiễn Chấp Nhu ra cửa. Lại quay về đình nhặt lên quần áo Linh Hồ Thanh, ôm tiểu hồ ly trở về phòng, đặt ở trên giường, hạ xuống sa trướng, ở bên ngoài cười nói: “Thanh Nhi hôm nay nháo cái gì?”
Linh Hồ Thanh thanh âm ủy khuất từ trong trướng nói: “Ta nghĩ hắn muốn giết công tử.”
Tạ Giám cười nói: “Hắn nếu có chút tâm này, lại như thế nào hảo hảo ngồi cùng ta nói chuyện, với lại Thanh Nhi cũng ngăn không được hắn.” Nhớ tới một chuyện, lại nói: “Thanh Nhi có biết pháp thuật không?”
Linh Hồ Thanh mặc quần áo, vén màn đi ra, nói: “Không có. Ta nếu có sẽ không đi cắn hắn.”
Tạ Giám cười, như cũ ngồi xuống viết chữ. Linh Hồ Thanh ở một bên nhìn hắn viết, nhớ tới trên đường từ Lạc Dương đến Trường An, Tạ Giám cũng là trên người không có tiền, khi đó đã đem một nhạc khúc bán ở giáo phường (QT ca: giống như sáng tác bài hát rồi bán độc quyền cho cơ quan quản lý âm nhạc), không rõ hiện tại vì cái gì phải bán chữ. Tạ Giám cùng nữ tử ít lui tới, nó trong lòng cũng vui mừng. Nó lại không biết Tạ Giám cùng giáo phường kia có quen biết, nên lần đó mới có thể nhờ giúp đỡ.
Viết xong, Tạ Giám để cho ráo mực, giương mắt thấy Linh Hồ Thanh khóe môi vẫn dẫn theo chút huyết, liền gọi nó tới gần, trên miệng nó tinh tế liếm, đợi đến vết máu không còn, Linh Hồ Thanh đã thần tình đỏ bừng. Tạ Giám trong lòng vừa thương yêu vừa buồn cười, liền ở trên má nó hôn vài cái. Xem mực đã ráo, Tạ Giám liền cuộn lại rồi ra ngoài. Không lâu tiếu ý tràn đầy trở về, tất nhiên là bán tốt giá.
Cơm chiều qua đi, sắc trời dần dần tối, Linh Hồ Thanh vốn đang dựa vào Tạ Giám đọc thư, liền đứng dậy thắp nến, buông thư ra ngoài. Tạ Giám nhớ tới từ khi hoa mẫu đơn trong vườn nở, Linh Hồ Thanh lúc màn đêm vừa buông xuống liền ra vườn, bầu trời tối đen mới trở về, cũng không biết nó làm cái gì. Không khỏi tò mò, đợi nó đi xa, lặng lẽ theo.
Ra cửa, Linh Hồ Thanh sớm không thấy bóng dáng, vườn thì lớn, nhất thời cũng không biết bắt đầu tìm từ chỗ nào. Tạ Giám nhớ rõ Linh Hồ Thanh nói qua rất thích cây “kiều dung tam biến” kia, khinh thủ khinh cước (nhẹ nhàng bước) tiêu sái đến gần, quả nhiên loáng thoáng thấy Linh Hồ Thanh ngồi ở trước cây hoa, thân mình không nhúc nhích. Tạ Giám ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng đem mấy bụi cây trước mắt đẩy ra một chút, thấy rõ, hơi hơi kinh hãi.
Lúc đó trăng non vừa lên, như chiếc cung ngọc thạch, tinh túy thuần khiết. Bóng đêm dần dần dày đặc, nửa tối nửa sáng mờ mờ ảo ảo, chỉ thấy một hạt châu như trứng tước giữa màu hoa ngọc bích nhẹ nhàng chậm rãi rơi xuống, ánh trăng chiếu rọi, thủy quang lưu nhuận, ngũ sắc chuyển hóa (như dòng nước chảy trôi, nhiều màu sắc biến ảo). Tạ Giám tinh tế nhìn lại, Linh Hồ Thanh đem hạt châu kia hết hàm trụ lại nhổ ra.
Tạ Giám từng nghe người ta nói hồ yêu hấp thụ tinh hoa ánh trăng tu luyện, quả nhiên đúng thật, vậy hạt châu kia là nội đan của nó. Tạ Giám thấy thú vị, định quay trở về, bất cẩn đạp vào mấy bụi cây dưới đất “Xoát” một tiếng. Thanh âm mặc dù rất nhỏ, khoảng cách lại gần, Linh Hồ Thanh nghe được, vội vàng nuốt vào nội đan, quay đầu nhìn.
Tạ Giám đứng dậy, cười nói: “Thanh Nhi hấp tinh hoa ánh trăng sao, ta nghe nói trăng tròn tốt nhất.” Vừa nói vừa bước tới, cũng ngồi xuống.
Linh Hồ Thanh lắc đầu nói: “Không có. Hôm nay ra trễ một chút, thời điểm đã qua.”
Tạ Giám ngạc nhiên nói: “Thời điểm?” Ngẩng đầu nhìn nhìn bầu trời, trăng đã lên cao, nói: “Không phải là vừa lúc trăng lên sao?”
Linh Hồ Thanh nói: “Hồ yêu có nhiều loại, canh giờ tu luyện cũng không giống. Mị hồ đều là ở chạng vạng, hiện tại đã là buổi tối.”
Tạ Giám nói: “Chạng vạng linh khí nhiều hơn sao?”
Linh Hồ Thanh nói: “Không phải. Chạng vạng khi thiên địa âm dương khí cùng hòa hợp, nếu có sinh linh cảm thụ được, chúng ta liền hút đi tinh khí của sinh linh này.”
Tạ Giám hơi kinh hãi, này tiểu hồ ly quả thực hấp tinh khí, nói: “Thanh Nhi vừa rồi hấp tinh khí ai?”
Linh Hồ Thanh chỉ chỉ “kiều dung tam biến”, nói: “Này.”
Tạ Giám cười nói: “Thanh Nhi không phải thích nó sao, như thế nào hấp tinh khí nó.”
Linh Hồ Thanh nói: “Loại này tinh khí mặc dù cũng có trợ tu hành, tích nhiều, lại loạn tâm tính. Ta hút bớt đi, đối nó cũng tốt.” Nó trong lòng lại suy tính khác: này gốc mẫu đơn có chút linh khí, Tạ Giám lại thích nó, nếu tu thành hoa yêu, nói không chừng liền cùng Tạ Giám sinh ra một đoạn tình yêu. Hiện giờ hút nó tinh khí, nó làm sao có thể biến thành hoa yêu, liền bớt đi một mối đe dọa chuyện mình với Tạ Giám.
Tạ Giám lại không biết tiểu não nó có ý niệm này, ngửa người nằm dưới gốc hoa mẫu đơn, vỗ vỗ chỗ trống bên cạnh nói: “Thanh Nhi đến đây.” Linh Hồ Thanh liền nằm xuống.
Linh Hồ Thanh lắc đầu: “Không lạnh. Từ trước lần đầu tiên gặp công tử không mặc quần áo mà còn ở trong tuyết.”
Tạ Giám không nói nữa. Mẫu đơn kia bộ dạng hoa phồn diệp mậu (lá um tùm, hoa tươi tốt), hai người nằm bên dưới, theo kẽ lá nhìn qua thấy ánh trăng một chút một chút di động. Linh Hồ Thanh nhẹ nhàng hít vào. Tạ Giám biết nó thích thời điểm như vậy, ôn nhu vuốt ve suối tóc mềm mượt của người nằm bên.
Kia gốc “kiều dung tam biến” nở hoa không lâu, có mấy đóa đã biến thành màu phấn hồng, còn lại vẫn là màu ngọc bích. Mấy bông hoa nửa màu ngọc bích nửa màu phấn hồng không biết như thế nào rơi xuống, trùng hợp có một bông dừng ở miệng Linh Hồ Thanh, Linh Hồ Thanh há mồm đem nó ngậm lấy. Tạ Giám nhìn thấy, vội giằng lấy một nửa. Linh Hồ Thanh quay đầu nhìn hắn.
Tạ Giám nhìn lại Linh Hồ Thanh, ôn nhu nói: “Thanh Nhi có nghĩ là vẫn muốn cùng ta một chỗ?”
Linh Hồ Thanh gật gật đầu, nói: “Có a, ta sẽ không ly khai công tử.”
Tạ Giám ôm nó vào trong lòng ngực, hôn lên hai má, lại thở dài nói: “Thanh Nhi là hồ yêu, có thể sống đến mấy trăm năm, còn ta chỉ là phàm nhân, không thể ở cùng Thanh Nhi lâu đến vậy.”
“Nếu công tử không muốn ở cùng một chỗ với ta, ta liền đem hủy nội đan, lên núi làm một hồ ly vô tri.” Linh Hồ Thanh ngữ thanh tuy nhẹ nhưng trong giọng nói lại thập phần kiên quyết.
Tạ Giám nói nhỏ: “Thanh Nhi thực ngoan.” Lại mỉm cười nói: “Thanh Nhi đi làm hồ ly, ta cũng không yên tâm, Thanh Nhi ngay cả con thỏ cũng bắt không được, bị đói thì sao đây?”
Linh Hồ Thanh không phục nói: “Ta bắt được con thỏ con kia rồi.”
Tạ Giám cười nói: “Ta như thế nào không phát hiện?”
Linh Hồ Thanh thanh âm nhỏ xuống: “Nó đáng thương như vậy, ta không đành lòng, liền thả đi.”
Tạ Giám mỉm cười nói: “Thanh Nhi không được nói dối.”
Linh Hồ Thanh “Hừ” một tiếng, nói: “Ta chỉ biết công tử nhất định không chịu tin.” Ngồi dậy, tay từ trong túi lấy ra cái gì giống như được nó xem như bảo bối quơ quơ trước mắt Tạ Giám, là một dúm lông thỏ.
Tạ Giám cười to, nắm tay nó kéo một cái, Linh Hồ Thanh liền ngã vào lòng hắn. Tạ Giám nhìn đôi mắt nó ở trong bóng đêm trở nên câu hồn, cười nói: “Có câu này Thanh Nhi biết không?”
“Câu gì?”
Tạ Giám thu cười, nghiêm trang nói: “Mẫu đơn hoa hạ tử, tố quỷ dã phong lưu (chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ vẫn phong lưu).” Ôm lấy Linh Hồ Thanh lăn trên mặt đất, một đêm điên đảo.
Sáng sớm hôm sau, Linh Hồ Thanh mới vừa mơ mơ màng màng tỉnh lại, liền ngửi được hương khí, mở mắt ra, nhưng không thấy có người nào khác. Tạ Giám đang ngồi ở trước bàn, có một bức tranh. Linh Hồ Thanh chồm tới nhìn… Bức tranh vẽ “kiều dung tam biến”, những đóa hoa ngọc bích, ung dung đoan trang thanh nhã. Nó đố kị nói: “Công tử cũng vẽ cho ta bức tranh.”
Tạ Giám cười nói: “Biết Thanh Nhi sẽ nói như vậy. Đã sớm vẽ, Thanh Nhi xem thích không?” Đem một quyển giấy đưa qua.
Linh Hồ Thanh mở ra xem, trên mặt nhất thời hồng một mảng, người trong bức tranh ẩn hiện sau sa trướng, gối đầu trên gối nhỏ ngủ, như có giọt nước đọng trên hàng mi rung rung ướt át, gò má ửng hồng, da thịt như tuyết như ngọc, tóc tán loạn, dây cột tóc màu xanh buông xuống ở mép giường, hơi hơi lay động. Bức tranh vẽ tỉ mỉ tinh tế đến từng chi tiết, lại ẩn ẩn hương thơm ngọt ngào, thật khiến cho người ta tiêu hồn.
Tạ Giám ở một bên đắc ý nói: “Từ trước có người tặng ta một hạp huân hương, ta liền lấy hòa vào mực vẽ, Thanh Nhi thấy thế nào.”
Linh Hồ Thanh đã là xấu hổ đến nói không ra lời, vội vàng mặc kiện quần áo che khuất thân mình leo xuống giường, thật muốn đem bức tranh kia bỏ vào chậu than, nhưng đầu xuân không đốt than, Linh Hồ Thanh bèn hướng phòng bếp đi.
Tạ Giám vội chặn ngang ôm lấy nó, đoạt lấy bức tranh, cười nói: “Ta vẽ tranh chưa từng dụng tâm quá như vậy, Thanh Nhi bỏ qua cho nó đi. Vẫn là ta vẽ tranh không tốt, người trong tranh không thể đẹp bằng Thanh Nhi?”
Linh Hồ Thanh nghe Tạ Giám vẫn là một mặt trêu đùa, xấu hổ, buồn bực nhìn hắn.
Tạ Giám cười nói: “Được rồi được rồi, Thanh Nhi đừng tức giận, ta đi đốt nó.” Quả thực hướng phòng bếp đi, nhưng lại trộm giấu trong tủ, hai tay trống trơn trở về. Linh Hồ Thanh không tin hắn đem bức tranh đốt, nhưng không thấy, cũng liền thôi.
Tháng tư, những người từng giao du với Tạ Giám lại không chịu buông tha. Rất nhiều thanh lâu nữ tử thỉnh hắn đến, Tạ Giám cũng không thể từ chối mãi, đi thì cả ngày không thể thoát thân. Lại có một ít thiếu niên Trường An quen biết đến thăm hỏi Tạ Giám, ở giữa viên thấy “kiều dung tam biến”, ai cũng ca ngợi không thôi. Nói mẫu đơn mặc dù tráng lệ, nhiên phú không khỏi tục, quý không khỏi kiêu, này “kiều dung tam biến” đoan trang tĩnh trì, không dính bụi trần, là báu vật hiếm có. Cũng có người xin cành về nhân giống.
Tạ Giám đều đáp ứng nhưng trong lòng lại cười thầm, cành này dù rằng sống, nếu không có Linh Hồ Thanh hút đi âm dương hòa hợp tinh khí, làm sao có thể nở được hoa đẹp như vậy. Linh Hồ Thanh không thích khách nhân, mỗi lần có người đến, nó đều biến trở về hồ ly trốn trong vườn.
Dương Chấp Nhu ngẫu nhiên lại đây, có khi vui mừng, có khi ưu sầu, cũng không biết cùng nữ tử Chấp Nhu thích có hay không quan hệ, Tạ Giám trong lòng tò mò, nhưng cũng không phải “tiểu nữ nhân” mà đi hỏi lung tung.
Một ngày sau giờ ngọ, mưa tí tách nhỏ giọt, Tạ Giám ngồi bên cửa sổ nhìn ra vườn, hơi hơi cười khổ, nếu không có mưa, hắn hôm nay sợ vẫn là không được nhàn rỗi như vậy. Hoa và cây cảnh trong vườn ngày đó Miên Khanh đích thân chọn, màu sắc nhẹ nhàng tú lệ, hoa nở rộ dưới tán cây um tùm xanh tươi, đều bị trận mưa kia làm cho mờ nhạt. Linh Hồ Thanh ra vườn, nói là đi cắt mấy cành hoa nhài về cắm, cũng không biết vì sao vẫn chưa trở về. Tạ Giám nghĩ nghĩ, bình cỏ thi (thời xưa dùng cỏ này để bói) đang cầm trong tay đặt sang một bên, đến phòng bếp cắt chút khương phiến (lát gừng), hòa vào đường đỏ nấu.
Mưa đã rơi một lúc lâu, vẫn không thấy bóng dáng Linh Hồ Thanh, trên trời lại ẩn ẩn có tiếng sấm. Tạ Giám cảm thấy kỳ quái, mưa nhỏ như thế sao lại có sét, hướng ngoài cửa sổ nhìn, một trận gió lạnh thổi đến, màn trướng bị thổi tung chạm vào mặt hắn. Tạ Giám đang muốn đem cửa sổ khép lại, bỗng nhiên thấy ngoài cửa sổ, cạnh sơn thạch hiện ra một mạt tuyết trắng nho nhỏ, đúng là Linh Hồ Thanh. Tạ Giám cảm giác không ổn, gọi to: “Thanh Nhi.”
Tiểu hồ ly cũng không biết có nghe hay không, vội vàng men theo sơn thạch hướng cửa chạy thật nhanh, tựa hồ là bị đại động vật hung ác nào đó đuổi theo, Tạ Giám còn chưa phục hồi tinh thần, tiểu hồ ly đã nhào vào lòng hắn, nó toàn thân đều ướt đẫm, run rẩy. Tạ Giám ngạc nhiên nói, “Như thế nào…” Lời còn chưa dứt, chỉ cảm thấy trước mặt bạch quang chợt lóe, khung cảnh ngày mưa âm u chợt sáng đến chói mắt, vừa mới nhấc đầu, nhưng lại gặp một đạo sét giương nanh múa vuốt từ trên cao chém thẳng xuống dưới, sơn thạch kia bị đánh trúng vỡ nát.
Tạ Giám cả kinh hồi lâu mới hồi phục tinh thần lại, tiểu hồ ly ở trong lòng hắn run rẩy lợi hại hơn. Tạ Giám vội vàng cởi bỏ quần áo đem tiểu hồ ly bao lấy, lại đóng cửa sổ. Tiểu hồ ly co rúm lại đem thân mình chui vào quần áo hắn, Tạ Giám an ủi vỗ nhẹ nó vài cái, lại sợ nó không thở được, cầm quần áo vạch một lỗ nhỏ, tiểu hồ ly cảm thấy được, sống chết hướng chỗ sâu nhất trong quần áo y mà trốn. Tạ Giám chỉ phải từ bỏ, ôm nó ở bên giường ngồi, nhìn chằm chằm cửa sổ, trong lòng thẳng thắn loạn khiêu (nhảy loạn). Không lâu sau, tiểu hồ ly lại đưa cái mũi ra ngoài, nhưng vẫn là không chịu lộ đầu ra. Tạ Giám không khỏi bật cười, nhẹ nhàng xoa xoa cái mũi lạnh lạnh của nó.
Sau đạo sét đó, bên ngoài liền không có động tĩnh. Tạ Giám lại đợi trong chốc lát, hơi hơi yên tâm chút, liền trải chăn, đem tiểu hồ ly bỏ vào. Tiểu hồ ly hóa thành hình người, cũng không biết là sợ hay lạnh, môi tái nhợt.
Tạ Giám ôn nhu nói: “Thanh Nhi lạnh không, ta đi lấy khương thang (nước gừng).”
Nói xong định xoay người đi, Linh Hồ Thanh vội thân thủ bắt lấy góc áo hắn, run giọng nói: “Công tử đừng đi, ở đâu cũng đừng đi.” Một đôi con ngươi thủy ngọc tràn ngập sợ hãi khẩn cầu.
Tạ Giám thấy đau lòng, ở bên giường ngồi xuống, ôn nhu nói: “Hảo, ta không đi.” Một bên cầm khăn thay nó lau tóc, hỏi: “Thanh Nhi có phải hay không gặp phải cái gì thần tiên ma quái?”
Linh Hồ Thanh run rẩy một chút, nói: “Không có. Là hồ ly lôi kiếp.”
Tạ Giám mơ hồ nhớ lại từng nghe người ta nói qua, hồ ly gặp lôi kiếp luôn tránh né, nói: “Thanh Nhi đừng sợ, ta ở trong này, chuyện gì đều không có.”
Linh Hồ Thanh “Ân” một tiếng, vẫn là cầm lấy quần áo hắn không chịu phóng, tuyết trắng cánh tay lộ ra ngoài, trong chốc lát đã lạnh như băng.
Tạ Giám sợ nó cảm lạnh, quần áo vừa mới cấp Linh Hồ Thanh đã ẩm, dính dính dán tại trên người thật là khó chịu, liền cởi xuống, chính mình cũng tiến vào chăn. Linh Hồ Thanh hai má tái nhợt nổi lên một chút anh đào hồng. Tạ Giám ôn nhu cười nói: “Thanh Nhi có phải hay không lúc nào cũng thẹn thùng?” Một bên ôm lấy thân mình lạnh ngắt của nó.
Bên ngoài mưa vẫn chưa ngừng, rơi trên tán cây nhỏ vụn nhẹ nhàng. Linh Hồ Thanh nhắm mắt nằm trong lòng ngực ấm áp của Tạ Giám, đầu chôn vào hõm vai hắn. Nghe xong hồi lâu tiếng mưa, tim đập kịch liệt rốt cục bình thường trở lại. Tạ Giám cảm thấy thân mình nó dần dần ấm, nhìn người trong lòng tú lệ nhu thuận trên mặt vẫn còn nét kinh sợ, trong lòng tràn ngập yêu thương. Ở trên má nó hôn một cái, nói: “Ta đọc vài thứ cho Thanh Nhi nghe được không?”
Linh Hồ Thanh lại “Ân” một tiếng, thanh âm tựa như không có chờ mong. Tạ Giám ngồi dậy, đem gối đầu để ở sau lưng dựa vào thoải mái, tùy tay lấy ra một quyển thư, sắc trời tối đen, ngay cả chữ cũng thấy không rõ. Tạ Giám vốn định thắp nến, vươn tay, bỗng cảm thấy được không thú vị, đem thư kia quăng về trên bàn, miễn cưỡng thở dài, nói: “Ta bồi Thanh Nhi trò chuyện đi.” Linh Hồ Thanh vẫn là “Ân” một tiếng, lúc này mới là chân chính vui mừng.
Tạ Giám nằm xuống lại, cười nói, “Thanh Nhi thích nghe ta nói cái gì?”
Linh Hồ Thanh nghĩ nghĩ, nói: “Ta cũng không biết. Công tử thích nói cái gì liền nói, ta đều thích nghe.”
Tạ Giám cúi đầu cười, nói: “Ta muốn nói chuyện với Thanh Nhi, không muốn nói một mình.”
Linh Hồ Thanh mang chút ngượng ngùng nhìn hắn, rụt lui thân mình, lại đánh bạo đem miệng hướng lên. Đôi môi vì lạnh nên khô nứt, nhưng đã thấy sắc đỏ. Tạ Giám hơi bất ngờ, dùng đầu ngón tay nhẹ nhàng chạm vào, cảm thấy được Linh Hồ Thanh hơi hơi run rẩy, một ngụm cắn lấy. Linh Hồ Thanh nhắm mắt lại, rồi lại “Ngô” một tiếng, không rõ cho nên mở mắt ra nhìn Tạ Giám, không biết hắn vì cái gì cắn môi mình. Hồi lâu buông ra, đôi môi sưng tấy đỏ bừng đã tràn đầy dấu răng.
Tạ Giám thở hổn hển, buông ra thân mình nho nhỏ trong lòng. Hắn không phải không nghĩ, nhưng lại luyến tiếc gây sức ép tiểu hồ ly còn kinh sợ này. Trong lòng thầm nhủ buổi tối tái cùng nó tính toán sổ sách, rốt cục bình ổn xuống dưới, phân tán tâm thần nói: “Thiên Lôi vì cái gì thích tìm hồ ly gây phiền toái?”
Linh Hồ Thanh bĩu bĩu môi: “Khi dễ tiểu hồ ly thật không có uy phong, nhưng so với đại hồ ly, hắn cũng không dám trêu chọc, tự nhiên chỉ có khi dễ tiểu hồ ly.”
Tạ Giám ha ha cười, nói: “Nguyên lai là như vậy. Lời này của Thanh Nhi Thiên Lôi nghe thấy, nguyên bản hắn muốn bỏ qua cho ngươi, cũng không bỏ qua được.” Trùng hợp thế nào liền nghe được ầm vang một tiếng sấm. Linh Hồ Thanh sợ tới mức nắm chặt Tạ Giám, lui vào trong chăn.
Tạ Giám tha nó đi ra, cười nói: “Thanh Nhi cẩn thận ngộp thở.” Linh Hồ Thanh ngoan ngoãn nằm trong lòng Tạ Giám, tò mò nắm lấy mấy lọn tóc hắn, quấn quanh tay đùa nghịch.