Sau buổi nói chuyện ở Kyoto vào tối ngày Chủ nhật, tôi sẽ rời khỏi đây.

Hôm đó trời mưa. Đến sớm. Uống cà phê trong quán cà phê của thư viện, tiện thể ngắm nghía phòng hội thảo nơi sẽ tổ chức sự kiện. Không gian chứa được khoảng ba trăm người.

Mười phút trước khi bắt đầu, mới loe hoe độ năm, sáu người đến. Ngồi sát cánh trái ở hàng đầu tiên là một phụ nữ tóc dài để xõa, mặc sơ mi trắng đơn giản, quần nhung kẻ màu xám khói, giày thể thao, lưng ghế vắt một chiếc áo khoác vải bông màu đen. Cô ngồi thẳng đừ ở đó, bất động, mắt nhìn ra trước, không hề làm gì để tiêu khiển hay giết thời gian, chỉ im lặng chờ đợi. Hình dáng cô khiến tôi bất giác muốn tưởng tượng ra gương mặt, nhưng ý nghĩ đó cũng chỉ vẩn vơ thoảng qua độ vài giây thôi.

Tôi vào nhà vệ sinh rửa mặt nước lạnh, chải đầu tóc xong xuôi quay ra là cũng vừa đến 7 giờ rưỡi. Đi vào thì thấy phòng hội thảo đột nhiên đầy ắp những người, không hiểu làm sao họ xuất hiện nhanh chóng và đúng giờ đến thế. Tôi bước đến bục diễn thuyết, nhìn thoáng qua những người nước ngoài lạ mặt ở bên dưới. Không khí lúc này yên tĩnh và tập trung khiến tôi cảm thấy an toàn và thư giãn. Những cặp mắt chăm chú dõi vào tôi, vài nụ cười thoáng qua hoặc vẻ mặt nghiêm túc thể hiện thái độ lịch thiệp đầy thiện ý. Tôi cầm micrô, bắt đầu nói chuyện.

Nội dung trình bày hết sức đơn giản. Chủ yếu là về mối quan hệ chân thực giữa sáng tác và con người.

Theo giá trị quan của văn học chính thống Trung Quốc, đề tài sáng tác tốt nhất là nông thôn, cách mạng văn hóa, thời đại, chiến tranh… Hùng vĩ huy hoàng, khí thế mạnh mẽ, nghe rất long trọng mà an toàn. Nếu có ai muốn viết về mối quan hệ giữa bản thân với thế giới mà người đó đang ở, thì phải đề cập đến đô thị, tình yêu, tình dục, những mặt tăm tối của tâm hồn, những bí mật và nghi hoặc về bản tính người, cái chết. Làm toát lên sự tồn tại tự thân, toát lên cái đẹp, chân thực, mong manh, tôn nghiêm, đồng thời cũng phải phơi ra những thiếu sót, bé mọn, hư tổn, không trọn vẹn.

Hễ có người sẵn lòng cầm bút viết để thể hiện thái độ, nói những lời thẳng thắn thành thực, thì người đó coi như bộc lộ con người mình trước thế giới bên ngoài. Bản thân sáng tác không tồn tại tiền đề nào để được thấu hiểu, nhưng nếu nó ghi nhận cá thể, thì phải ghi nhận cả công chúng với giá trị quan, cách nhìn nhận đúng sai, lý luận đạo đức và trật tự thông thường của họ. Đồng thời, một thời đại đi nhanh, với háo hức và nôn nóng, sẽ giống làn sóng cuốn lấy tất cả. Cá thể đặt mình trong đó, không thể né tránh, không tiến ắt lùi. Nếu từ chối ý chí và ý nguyện của tập thể, thì coi như thất bại tụt hậu và đánh mất giá trị. Cá thể đó sẽ bị cô lập.

Đi ngược lại thời đại và đám đông, sớm muộn gì cũng phải trả giá.

Công dụng đầu tiên của viết lách là dành cho chính tác giả. Chỉ bản thân người đó mới biết, sách mình viết thoạt tiên là lời nguyện cầu trong đêm đen, đầy ắp chân thành và tĩnh lặng, không thể chia sẻ với ai được. Viết là một nghề nghiệp, hơn thế, là một bản năng. Bản năng này có cùng thuộc tính với buổi sáng thức dậy, xỏ giày thể thao ra vườn hoa chạy bộ, trông thấy bông bìm bìm tím nở bừng trong sương, và lúc nhúc giun đùn lên mặt đất sau một đêm mưa ròng rã. Bông hoa nở, côn trùng thở, con người mở cửa tâm hồn, đều thuộc cùng một dạng.

Viết ra con chữ, cấu tạo một thế giới. Là cơ hội có được cuộc sống mới về tâm hồn, cũng là phương thức dùng để chèo chống cho qua thời gian. Sáng tác là quan sát sàng sẩy lại kí ức, cho nó vận hành một lần nữa. Dùng cách thức sáng tạo này để trang hoàng lại cuộc sống. Đánh giá rõ ràng cả trong lẫn ngoài: những thứ có được, mất đi, những thứ cảm nhận, trông thấy, nhớ về. Đào tất cả lên, thả chúng chảy theo một dòng sông cuồn cuộn, để chúng trở thành trời cao đất xa vượt lên chính bản thân.

Sáng tác xuất phát từ cá nhân, nhưng chân thực tự nhiên, lại hợp lý khi muôn việc muôn vật cùng thuộc về một trật tự. Giống như hô hấp, tuy liên quan chặt chẽ đến thân thể con người nhưng chẳng mấy khi phát ra âm thanh để chúng ta nhận thấy, trừ phi đặc biệt quan tâm.

Đối với tôi, sáng tác phát ra âm thanh, hé lộ ra tính nguy hiểm, chuyên chở đối chọi, cô lập, coi rẻ, tổn thương, đồng thời cũng đảm đương ảnh hưởng, thẩm thấu, tình cảm, kết nối. Không thể dùng nó để biểu diễn, ca tụng, biện luận, tô vẽ, trang trí, công kích. Nó chứa đựng bao trùm cả mặt u ám lẫn sáng ngời. Nó không bình luận hay đánh giá. Không có hạn chế.

Đối với tôi, sáng tác cuối cùng sẽ trở thành một trò tạp kĩ tâm hồn bề thế, cô độc, lộng lẫy, tập trung. Giống một nghệ nhân giang hồ thời cổ xưa leo thừng lên tận mây xanh, lên trời, cho đến khi bóng dáng biến mất, để lại cho đám đông ham vui trơ trọi mỗi sợi dây. Đây là trò đùa của ông. Trái tim ông không ở trần thế. Trái tim ấy, nếu muốn trông thấy, chắc người ta phải chọn được đúng thời điểm nó tiêu tan khỏi nhân gian.

Đại ý là như vậy.

Sau bốn mươi phút diễn thuyết là đến phần hỏi đáp.

Tôi tưởng rằng họ chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào trong thời kì sáng tác chín muội của tôi, chắc chẳng ai biết nên đặt câu hỏi thế nào đâu. Sự thật hóa ra khác hẳn. Họ rất hứng thú, hỏi nhiều câu đơn giản mà thực tế, khiến bầu không khí đôi lúc còn hơi quá dồn dập. Có người trực tiếp hỏi bằng tiếng Trung, thì ra là người Trung Quốc đang du học ở đây. Cũng có học sinh từ các thành phố khác như Osaka cất công đến để nghe nói chuyện. Đối diện với các độc giả đã dõi theo mình bấy nhiêu năm, cảm giác thật sự rất tuyệt vời. Nhưng tôi cũng biết, đây chỉ là một sự ngẫu nhiên hiếm gặp thôi.

Buổi nói chuyện dự tính diễn ra trong một tiếng rưỡi đã kéo dài thành hai tiếng đồng hồ. Trong suốt chương trình, rất nhiều lần tôi chú ý đến người phụ nữ ngồi ở hàng đầu sát cánh trái. Cô không hề đặt câu hỏi, mắt luôn nhìn thẳng vào tôi, vẻ mặt nghiêm túc và tập trung. Dung mạo cô rất đặc biệt, mắt phượng dài nhỏ, vầng trán cao rộng, chân mày thẳng rậm. Khuôn mặt dài hẹp, đường nét rõ ràng cân đối, rải rác vài nốt ruồi đen, có mấy nốt rất rõ.

Đám đông dần dần rút ra khỏi phòng hội thảo. Người phụ nữ đứng dậy nhưng không rời đi, cứ thế dựa vào tường, lặng lẽ đợi. Nhân viên tiến đến hỏi cô có phải chờ kí tên không, bấy giờ cô mới tiến lại gần tôi, nói, tôi chờ chị.

Tôi trông thấy nơi cổ cô đeo sợi dây xỏ qua cái nanh chó màu trắng bằng bạch ngọc. Giọng hơi khàn, âm sắc u uất, khiến người ta có ấn tượng rất sâu.

Tôi ngờ ngợ nhận ra.

Nói, Tín Đắc.