Dịch: Vivian Nhinhi
Biên: Nhóm Cổ Chân Đau
***
Vài ngày sau, vào lúc sáng sớm, chim hót líu lo.
Thời tiết rất tốt, ánh ban mai xuyên qua tán lá và màn sương mờ ảo trong rừng chiếu lên mặt đất.
Thiếu niên và thiếu nữ đứng sóng vai nhìn hang động, trên mặt toát ra thứ cảm xúc phức tạp.
Thiếu niên có tóc vàng và làn da trắng, thân hình cường tráng mặc giáp lưới, vẻ mặt cảnh giác và tinh thần phấn chấn.
Còn thiếu nữ khoác áo choàng dài có mũ màu tím, vài lọn tóc xoăn đen nhánh lòa xòa ra khỏi mũ, cô có làn da màu lúa mạch, khuôn mặt xinh đẹp với cặp mắt màu tím cực kì thu hút sáng lấp lánh như đá quý.
Hai người là Châm Kim và Tử Đế.
Vài ngày trước vì bị bầy ong lửa đuổi giết mới chạy tới nơi này.
Trải qua trận chiến cửu tử nhất sinh, hai người mới may mắn lượm lại cái mạng.
Sau đó hai người ở lại hang chữa thương và nghỉ ngơi. Cứ như thế, cái hang trở thành một căn cứ an toàn tạm thời của họ.
Nhưng hang động dù có ấm áp thế nào cũng không phải là nhà.
“Đi thôi!” Nhìn cái hang lần cuối, Châm Kim xoay người đi về phía rừng cây.
Tử Đế theo sát phía sau.
Khác với lúc chạy trốn đến, bây giờ trên lưng hai người đều khoác một cái bao lớn.
Trong bao có xương thú, ruốc thịt và khoáng thạch.
Ngoài ra còn có một ít trường mâu, đoản mâu.
Kiếm của Châm Kim đã mất ở chỗ đống lửa, dao găm của cậu lại bị gãy lúc ám sát con gấu ngựa đuôi khỉ kia.
Vì thế mấy ngày nay, Tử Đế cùng Châm Kim đã chế tạo số mâu này.
Trường mâu dài khoảng một mét tám, đoản mâu khoảng một mét rưỡi. Trường mâu để cầm, đoản mâu để phóng.
Cán mâu làm từ một loại gỗ rất rắn chắc, cứng như gỗ thiết, mọc ở gần hang.
Chỉ bằng sức Châm Kim gọt đẽo thì khó mà làm thành những chiến mâu này, đều nhờ vào thuốc ăn mòn của Tử Đế cả.
So với đao kiếm bằng sắt thép thì những thanh mâu này không đáng kể, dù là độ dẻo dai hay sắc bén.
Nhưng chẳng còn cách nào.
Châm Kim thiếu vũ khí, Tử Đế chỉ có một chiếc dao găm.
Trước khi xuất phát, Tử Đế muốn đưa dao găm cho Châm Kim nhưng cậu không đồng ý. Dao của Tử Đế dùng để xử lý nguyên liệu. Đồng thời, nếu gặp phải nguy hiểm, ít nhất Tử Đế còn có thể dùng nó để phòng thân.
Ở nơi hoang dã, Châm Kim không thể luôn bảo vệ sát sao nên Tử Đế cần có năng lực tự vệ.
Hơn nữa, dao găm vừa ngắn vừa nhỏ, không mấy hữu dụng khi nằm trong tay Châm Kim.
Thực ra, móng vuốt của gấu ngựa đuôi khỉ kia có thể dùng làm vũ khí. Nhưng lạ là sau khi chết, vuốt của nó cũng nhanh chóng vỡ vụn thành tro.
Không những thiếu công, đồ phòng thủ cũng thiếu.
Tử Đế mặc áo choàng, chỉ có thể kháng một số ma pháp yếu, nếu bị mãnh thú cắn xé hoặc va đập thì rất đáng quan ngại.
Đôi giáp tay của Châm Kim đã hỏng. Trong trận chiến với con gấu, chúng đã phát huy hết tác dụng. Nếu không có cặp giáp tay nay có lẽ đến ngực Châm Kim cũng bị đập vụn.
Nói chung cặp giáp tay biến dạng cực kỳ nghiêm trọng, một cái còn bị nứt toác, chỉ có thể đúc lại.
Châm Kim còn thiếu mũ giáp, áo giáp lưới trên người là sự an ủi duy nhất mà cậu có.
Châm Kim đi trước dò đường. Tử Đế bọc hậu.
Hai người dần bước vào rừng rậm.
Mục tiêu đầu tiên của hai người là tìm về đám cháy nơi đàn ong tấn công.
Đây là quyết định sau khi bàn bạc kỹ lưỡng.
Kiếm của Châm Kim rơi ở đó. Mặc dù dùng dùng kiếm không thuận tay, nhưng hiệu quả thì không thể phủ nhận.
Hơn nữa chỉ có quay lại chỗ đống lửa thì Tử Đế mới có thể tìm được đường về doanh trại tạm thời, nơi cất giữ một ít nhu yếu phẩm.
Mấy ngày qua Châm Kim và Tử Đế cố gắng dự trữ nên hiện tại hai người có khá nhiều đồ ăn, nhưng nước uống thì ngày càng ít.
Từ khi Châm Kim tỉnh lại đến giờ, hai người chỉ tìm nước vài cái túi đựng, không hề tìm được nước uống.
Mặc dù từng đi qua sông, nhưng sông có dây leo ẩn nấp, lấy nước ở đó quá nguy hiểm.
Quanh hang động thì càng ít nguồn nước.
Nước trong túi đã không còn lại bao nhiêu, đây cũng là một trong những nguyên nhân buộc hai người phải rời đi.
Cây rừng sừng sững thẳng tắp, Tử Đế để ý càng vào sâu thì cây càng cao to hơn, thậm chí có những cây cao tới năm sáu mươi mét, quả thực là cột chống trời.
Ánh nắng cũng không dễ dàng chiếu xuống mặt đất, càng vào sâu trong rừng, sương trắng càng dày, ánh nắng bất lực để sương chiếm lấy toàn bộ không gian.
Sương mù tràn ngập mùi cỏ cây tươi mát, những chú chim bay lượn trên những tán cây. Thỉnh thoảng lại thấy vài con gõ kiến đậu trên cành cây cách mặt đất chừng ba mươi mét. Tiếng gõ của chúng khiến khu rừng có vẻ rất âm u tĩnh mịch.
Chẳng mấy chốc hai người đã đi sâu vào rừng, bốn phương tám hướng đều là cây cối.
Châm Kim và Tử Đế bắt đầu đánh dấu.
Tử Đế dùng dao găm khắc lên những cành cây gần mặt đất, còn Châm Kim lấy da thú ra, dúng than củi vẽ bản đồ.
Phải vậy để tránh lạc đường.
Đi rừng cực kì dễ lạc vì đâu đâu cũng là cây cối. Chỉ có tinh linh mới giỏi việc xác định phương hướng trong rừng. Nghe nói tinh linh dù nhỏ cỡ nào cũng sẽ không bao giờ bị lạc. Rừng rậm với tinh linh như là nhà vậy.
Hậu quả của việc lạc đường là khá nghiêm trọng, thế giới hoang dã chẳng hề thân thiện với con người, bị lạc giữa rừng là lúc cái chết bắt đầu.
Châm Kim cẩn thận cất da thú và bút than vào ngực.
Đây là bản đồ thứ mười bốn mà cậu vẽ.
Giữa mảnh da thú có một vài nét bút nhỏ màu đen, trông rất thô sơ.
Lúc Châm Kim chuẩn bị bước tiếp, trên mặt cậu hiện lên vẻ do dự.
Đã đi lâu như vậy rồi, đáng lẽ phải tìm được con đường cậu ôm Tử Đế chạy trốn rồi mới đúng.
Nhưng không, căn bản không có dấu vết nào.
Châm Kim cố hồi tưởng, lúc ấy cậu ôm Tử Đế chạy điên cuồng trong đêm, mặc dù tình hình khẩn cấp không chú ý được nhiều, nhưng cảm giác hai người tìm ra cái hang không mất quá lâu.
Nếu dựa trên thời gian và tốc độ thì cậu chạy cũng không được xa, đống lửa cũng phải ở gần đó mới đúng.
“Đi lối này." Châm Kim đi về phía bên trái.
Cậu dò đường rất bài bản, lấy hang động làm trung tâm, tìm kiếm dấu vết xung quanh động, như vậy sẽ không bỏ sót manh mối.
Đến trưa, ánh nắng chói chang hơn, sương trong rừng cũng dần tán.
Tuy tầm nhìn rõ ràng thoáng mắt, nhưng sắc mặt cậu lại càng khó.
Cậu nhìn bản đồ trên tay mình. Cứ cách một đoạn cậu lại đánh dấu một lần. Hiện tại ký hiệu trên bản đồ đã thành một vòng tròn lớn bao quanh hang động.
Kiểm tra chặt chẽ như vậy mà còn không tìm được chút dấu vết nào!
“Rất bất thường!” Tử Đế nghi hoặc bảo: “Khu rừng này quá rộng!”
Bọn họ vốn đến từ rừng mưa, nơi không khí ẩm ướt, oi bức, cây bụi khắp rừng, dây leo kín mít.
Trong khi nơi này là rừng rậm.
Mặc dù cũng là cây, nhưng những cây này có thân thẳng tắp. Dây leo thì thưa thớt, cây bụi và dương xỉ cũng ít hơn rừng mưa rất nhiều.
Châm Kim tất nhiên phát hiện điều này.
Cậu vốn cho rằng khu rừng này rất nhỏ, bởi vì ở gần mạch khoáng nên mới có cảnh quan khác với xung quanh.
Nhưng vùng rừng rậm này quá lớn, vượt xa dự đoán của hai người.
Trên lý thuyết thì hòn đảo này vốn phải là rừng mưa nhiệt đới. Cậu nhớ vào cái đêm chạy trốn kia, xung quanh vẫn là rừng mưa dày đặc. Con thú bí ẩn vồ hụt hai người cũng nhảy xuống từ một nhánh cây của rừng mưa, sau đó không lâu thì Tử Đế phát hiện hang động.
“Sau khi thấy cái hang, mình lập tức đổi hướng, lúc ấy mình từ rừng mưa tiến vào rừng rậm!” Châm Kim chắc chắn mình nhớ đúng.
Cậu từng đối chiếu với Tử Đế.
Nếu hai người không sai thì khoảng rừng này rất nhỏ, xung quanh bị rừng mưa bao vây. Nhưng chuyện kỳ lạ thực sự đã xảy ra trước mắt hai người, làm họ không thể giải thích.
“Xem ra hòn đảo này có rất nhiều chỗ kỳ quặc! Không chỉ có những loài thú đột biến trông như bị lai tạp, thực vật vô cùng nguy hiểm, mà địa hình cũng có thể biến đổi.” Tử Đế đang nói thì đột nhiên có một bóng đen từ tán cây cao vút lao xuống.
Bóng đen dài nhỏ, tốc độ cực nhanh, xoẹt qua không khí phát ra tiếng động.
Nhưng Châm Kim còn nhanh hơn.
Trong nháy mắt, trường mâu đâm tới.
Bóng đen lập tức bị chặn, cái cổ thô ngắn của nó bị mũi mâu đâm thủng, cố định ở đó.
Là một con chim kì lạ.
Nó có kích thước cỡ nắm đấm, lông vũ đen tuyền, cứng như sắt. Lớp lông nặng nề hạn chế khả năng bay, nhưng đồng thời lại luyện cho nó một cơ thể dẻo dai mạnh mẽ.
Loài chim này thường ẩn nấp trong tán cây, khi phát hiện có động vật đi lại trong rừng sẽ nhảy xuống, khéo léo lợi dụng trọng lực để gia tốc mổ thủng đầu con mồi.
Sau khi con mồi chết rồi, chúng hút óc, máu, sau đó là mắt, nội tạng… cuối cùng mới rỉa thịt.
Sau vài lần chạm tráng, Tử Đế đặt tên cho chúng là “chim lông sắt”.
Cơ thể chúng gần như không có điểm yếu trừ yết hầu, lông vũ ở đó mảnh và mịn, sức phòng ngự kém nhất.
Lúc này, mũi mâu trong tay Châm Kim đâm chuẩn vào cổ của chim lông sắt.
Một đòn trí mạng.
Nó nhanh chóng yên tĩnh, không nhúc nhích nữa.
Châm Kim cắm thẳng trường mâu xuống mặt đất, găm xác con chim lại.
Tử Đế lập tức tiến lên, dùng dao mổ thịt. Châm Kim thì cầm đoản mâu đứng cạnh để canh chừng, phòng dã thú tập kích. Chim này có bộ lông cực kì cứng, là vật liệu cao cấp. Ngoại trừ lông, cô cũng thu thập một ít máu.
Thịt chim không nhiều nên Tử Đế dứt khoát bỏ.
Lần đầu gặp phải chim lông sắt, Châm Kim rất luống cuống.
Lúc đó cậu dùng trường mâu quét nó xuống mặt đất, chim không biết bay được nhưng lại chạy rất nhanh, Châm Kim ném liên tục ba thanh đoản mâu mới làm nó chậm bớt. Cuối cùng, cậu lấy trường mâu đâm thủng bụng, nhưng mũi mâu cũng bị hỏng.
Châm Kim ra tay càng lúc càng lão luyện.
Cậu nhận ra lúc chim lông sắt lao xuống là nguy hiểm nhất, nhưng cũng là lúc cổ nó lộ ra.
Chỉ cần biết điểm yếu thì chim lông sắt không còn uy hiếp nữa, mỗi lần đến là mỗi lần hiến thân.
Trừ chim lông sắt, nguy cơ trong rừng rậm còn rất nhiều.
Trong đống lá rụng và thân cây mục dưới mặt đất, thường có rắn hổ mang cực độc.
Thậm chí thực vật cũng không hề vô hại.
Ví dụ như một loài rêu rất bình thường, chỉ vô tình chạm phải lại làm Châm Kim trúng độc
Lúc đầu mặt chỉ nổi những nốt ban lấm tấm màu lục, những nốt ban này tròn và nhỏ, không dễ thất. Sau khi Tử Đế phát hiện liền cho Châm Kim thuốc giải, nhưng chỉ có thể làm dịu triệu chứng mà không trị được tận gốc.
Hai người đành phải cấp tốc tìm kiếm thủ phạm. Tử Đế phải sơ chế đám rêu rồi pha vào thuốc giải mới có thể trừ tận gốc độc tố trong người cậu.
Đủ loại nguy cơ tiềm ẩn trở thành chướng ngại cực lớn trên hành trình tìm kiếm của hai người.
Châm Kim nhìn lên bầu trời đã dần u ám, đành phải đưa ra quyết định bất đắc dĩ: “Quay về hang nghỉ ngơi thôi!”