Từng đầu Bạch Hạc đảo cánh hót vang, Lý Minh dẫn đầu toán người nhắm hướng Đại La Kinh gào thét mà đi, trái phải hai bên cùng phía sau đương nhiên là trọng binh thị vệ của Ngự Long Quân đi theo bảo vệ.

Từ trên cao, Lý Minh thấy một tòa thành nhỏ, phía dưới đen đặc người ùn ùn đổ về, hàng xếp kéo dài tới mấy chục dặm, cảnh tượng trông như đàn kiến đang bò về tổ vậy.

Lý Minh khẽ nghiêng mình, đầu Bạch Hạc lập tức sà xuống tòa thành, tướng thủ thành trông thấy có Bạch Hạc bay tới liền biết có trọng tướng ghé qua, không dám lơ là vội vã chạy tới tiếp đón.

Lý Minh vừa đặt chân xuống Điểu Doanh, gã thủ tướng áo mũ xộc xệch chạy tới, hai mắt thâm quầng, nghiêm trang dẫn toàn bộ tướng soái tới.

“Đô Sứ đứng lên, ở đây có chuyện gì?”, Lý Minh hỏi.

“Bẩm Ngự Long Thượng Tướng. Mấy ngày trước Hãn Tộc Thiết Kỵ bất ngờ tràn qua, dân chúng bị giết hại nhiều vô số, nhà cửa bị thiêu trụi, nạn dân thi nhau kéo về, tiểu tướng lo không xuể!”, Gã Đô Sứ thấy trọng binh vận phục theo lối Ngự Long Quân nên lầm tưởng thân phận Lý Minh, gã tỏ vẻ mệt nhọc thấy rõ nhưng vẫn nói dõng dạc, có lẽ đã mấy đêm chưa chợp mắt.

Lý Minh nhìn quanh, lán trại ngoài thành nhiều tới gần vạn, binh lính kẻ nào kẻ nấy chia thành từng toán, người đốn tre, kẻ vót nan, người dựng trại, kẻ bốc vội nắm cơm, kẻ lại lăn ra đất ngáy như sấm, chắc có lẽ do mệt nhọc quá sức.

Xung quanh nạn dân nheo nhóc lấm lem, khuôn mặt thẫn thờ lem luốc, người già ngồi ngoái nhìn về quê hướng, phụ nữ dỗ dành con trẻ đói sữa, trai tráng chỉ có mấy kẻ tàn tật, có lễ đều đã xung quân chém giết cũng Thiết Kỵ.

Tệ hại hơn cả là phía bắc, nơi này thương dân nhiều vô số kể, y phu không sao quản hết, thuốc men dược vật lại thiếu hụt, một gã y phu đang khâu sống cho một đứa bé cụt tay, tiếng la hét, tiếng khóc thảm thiết vang vọng khắp vùng.

Lại có kẻ vì đói quá mà ngất đi, không kịp đợi nồi cháo lớn sôi, binh lính lại phải chạy tới nhường phần cơm, thảm cảnh thực không sao tả xiết.

“Binh lương, dược vật trong kho còn bao nhiêu?”, Lý Minh hỏi gã Đô Sứ.

“Đã hết từ hôm qua, hiện tại đều nhờ quyên góp từ lương dân trong thành cùng các làng mạc xung quanh.”, Gã Đô Sứ than thở, khuôn mặt không giấu được nét lo lắng, ngoái đầu nhìn về phía nạn dân.

“Tiếp vận bao giờ tới?”, Lý Minh hỏi tiếp.

“Sự vụ bất ngờ, các Lộ, Phủ xung quanh đều có nạn dân chạy về, tình cảnh không khác chúng ta là bao. Tiểu tướng đã thông tri, chỉ còn cách đợi Triều Đình tiếp tế.”, Đô Sứ bẩm.

“Nước xa không cứu được lửa gần!”, Lý Minh chắp tay sau lưng đi lại.

Hồi sau, hắn móc trong bọc ra một đống vàng bạc châu báu cùng ngân phiếu đủ để xếp chật cứng một gian nhà khiến cho bọn binh lính trợn tròn mắt, nói: “Triều Đình tạm thời tiếp vận số này, ngươi bố trí người chạy tới Loạn Khu mua sắm tài vật, phân đều cho các Phủ, Lộ xung quanh.”

Gã Đô Sứ nhìn thấy số của cải này, thần sắc đột nhiên sáng sủa hơn nhiều, cảm động vái sát đất cảm tạ Lý Minh, trong ánh mắt của gã còn có chút nước long lanh.

“Hắn là một vị quan tốt!”, Lý Minh vui vẻ trong lòng.

Qua hơn nửa ngày, Bạch Hạc mang Lý Minh tới vùng Kinh Bắc, lờ mờ hắn đã có thể thấy được Tản Viên Sơn.

Kinh Bắc là vùng đất trù phù bậc nhất Đại Việt, cũng là vùng địa linh nhân kiệt, gốc gác của Lý gia chính là bắt nguồn từ đây, lại thêm Pháp Vân Tự khói hương nghi ngút, phật âm vang vọng cả một vùng. So với miền biên viễn khói lửa tang tóc, nơi này quả thực là chốn bồng lai tiên cảnh.

Lý Minh tùy ý hạ xuống một trấn lớn, đương nhiên mấy gã trọng binh đi theo phía sau liên tục nhắc hắn việc quân cơ gió lửa, nhưng Đức Chính vội, hắn không vội, một đạo thần thức phóng ra, mấy tên trọng binh phút chốc đầu óc trở nên ngơ ngác.

Kinh Bắc rất nhiều chùa chiền miếu mạo, Lý Minh đi tới một ngôi chùa tương đối lớn, bên trong tụ tập vô số phật tử, ngồi trên đài là một vị tăng nhân khuôn mặt hiền hòa, miệng đang thuyết giảng.

Lý Minh khoanh chân ngồi xuống lắng nghe, vị tăng nhân ban đầu nói những điều rất chí lý, nhưng qua một hồi, hắn bèn thuyết giảng bậy bạ, Lý Minh đã có thời gian đi theo Vô Từ, lại tiếp xúc nhiều với Chính Minh, tuy không nắm rõ những điều cao thâm của Phật pháp, nhưng căn bản của hắn không phải tệ, gã tăng nhân kia rõ ràng đang xàm ngôn, mị hoặc phật tử.

“Vậy nên tất cả hậu quả nhãn tiền hôm nay, đều là do nghiệp báo kiếp trước của các ngươi, nay bị vong hồn đi theo quấy nhiễu, mau mau tới Phật Đường nhờ các vị Thần Tăng giải nghiệp, một chút tiền bạc chẳng đáng là bao.”, Vị tăng nhân gõ thêm mấy tiếng mõ phía trên, chúng phật tử quỳ lại lễ lạt phía dưới.

Lý Minh tức cười, để vong hồn đi theo phàm nhân, hẳn là phải hỏi tội lão Diêm Vương cùng Thập Nhị Tào.

Thần thức của Lý Minh lan ra, quả nhiên Phật Đường phía sau người người dâng lễ, vàng bạc từng nén chất thành mâm, bị bọn tăng nhân thu lấy. Phật tử ngu muội được dẫn tới một nơi làm lễ, vẩy chút nước, khấn vài lời, ai nấy đều tin rằng mọi sự rắc rối của bản thân đều đã được Phật pháp hóa gỡ mà quên đi gốc gác bản chất, không chịu cố gắng phấn đấu, đều cho rằng có chút tiền bạc, mọi sự đều có thể giải quyết hết thảy.

Lý Minh lạnh lùng, nỗi thất vọng không giấu được trên khuôn mặt, một dân tộc ngu muội như vậy sao có thể đối diện tương lai hại họa, hắn muốn đứng lên thì bất chợt có bàn tay đè xuống, một vị thầy bói xem tướng cũng đang quỳ bên cạnh hắn nói: “Chưởng môn nhân chớ nóng vội, trăm ngàn ngôi chùa quanh đây đều như vậy, kể cả Pháp Vân Tự cũng quản không tới, ngài phá một, sau đó trăm cái sẽ mọc lên.”

Lý Minh nhìn vị thầy tướng, lão trông rất già, sau lưng cõng theo một bộ hộp gỗ, phía trong hẳn là để quẻ bói cùng mấy thứ đồ, người lão toát lên một khí chất rất riêng, mờ mịt không rõ, Lý Minh dường như đã từng thấy trên người lão Tả, Cao Biền cùng Vương Thông.

“Chưởng môn nhân đừng nghi ngờ lão, Thầy tướng trong thiên hạ đều do Chưởng môn nhân sai khiến.”, Lão cười răng vàng ố.

“Đức Chính Đế ở đâu, đây chẳng phải gia hương nhà hắn sao?”, Lý Minh hỏi.

“Hoàng Thượng bận trăm công nghìn việc, lao tâm khổ tứ việc binh triều, không thể quản nổi.”, Lão thầy tướng đáp.

Lão tiếp lời: “Lại nói, số vàng bạc dâng cúng kia, Hộ bộ quản không tới, đều chảy vào túi bọn quan lớn quan bé, hoàng thân quốc thích, trở thành gia sản của bọn hắn. Những chùa chiền miếu mạo cũng đều do bọn hắn đứng sau dựng lên, lại thuê mấy gã đóng giả cao tăng mị lừa dân chúng.”

Lão chỉ lên vị tăng nhân kia: “Như hắn, vốn là một gã biết chút ít mẹo tính toán kim tiền, Phật pháp nửa chữ bẻ đôi không rõ, đường đường chính chính trở thành trụ trì, pháp danh vang dội Thích Trúc Thái gì gì đó.”

Lý Minh nhịn không được, thần thức xâm nhập vào đầu óc vị trụ trì họ Thích kia, đủ thứ ô uế hiện ra, từng viên quan lớn quan bé nườm nượp kéo tới chia chác, thậm chí có cả gia môn con cháu nhà Thái Úy, Thượng Thư.

Lý Minh muốn hỏi thêm một chút, nhưng lão thầy tướng đã đi đâu không rõ, hắn đứng dậy tiếp tục đi, hai bên đường đều là phủ đệ cao to xa hoa lộng lẫy, khí thế không kém kinh thành chút nào, Châu Cổ Pháp quả là đệ nhất hương lộ.

Nhưng xa hoa thì thế nào, ngay bên cạnh là Lộ Khoái cùng Lộ Hoàng Giang, bởi thời tiết mưa nắng thất thường, dẫn tới bão lũ vỡ đê, đã hai năm nay mất mùa liên tiếp, dân không có cái ăn, kéo nhau đi tha phương cầu thực, ăn mày đi lại trên phố cũng đông không kém kẻ thương gia.

Lý Minh một hồi quan sát, than thở lắc đầu: “Đức Chính trị binh tốt, trị quan chưa nghiêm.”

- --oo0oo---

Long Đỗ Sơn, Càn Nguyên Điện, Đức Chính Đế uy nghi ngồi trên ngai vàng, quần thần phía dưới triều bái, đứng đầu hàng bên trái là Thái Úy Bùi Linh, phía sau là sáu vị Lục Bộ Thượng Thư, cùng các quan Tham Tri Chính Sự, Gián Nghị Đại Phu, hàng dài kéo tới cửa điện.

Bên phải đứng đầu là Lê Đô Thống, phía sau có một chỗ trống, tiếp tới là hai vị Tả Hữu Khu Mật Sứ cùng các tướng lĩnh phía sau, chỗ trống kia là vị trí của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, Lý Minh vẫn chưa thấy tới.

Đám tướng lĩnh khôi giáp lỉnh kỉnh, số lượng chỉ chiếm phần ba, liếc mắt sang trái tỏ vẻ không ưa, đều cho rằng bọn quan văn là một đám vô dụng, chỉ giỏi khua môi múa mép.

Đáp lại, bọn quan văn khinh khỉnh không thèm đáp lại, cho rằng đám tướng lĩnh đều là bọn thất phu, hữu dũng vô mưu, đều là phường thất học.

Đức Chính lên giọng đằng hắng, hỏi Lê Phụng Hiểu: “Đô Thống, sao Lý Minh chưa thấy tới.”

Lê Phụng Hiểu cũng không biết trả lời thế nào, bèn quay lại nhìn tên lang tướng phía sau, chính là Ngô Tuấn, chỉ thấy Ngô Tuấn lắc đầu, lão lại nhìn sang một gã Điện Học Sĩ, gã là Lý Đạo Thành, tất nhiên gã cũng không biết.

Lão Đô Thống khẽ vểnh râu, tâu láo: “Bẩm Hoàng thượng, Điện Tiền Chỉ Huy Sứ như thần long, thấy đâu không thấy đuôi, lão thần đã cho bọn Ngự Long áp giải hắn về, cõ lẽ đã sắp tới.”

Lão không giám báo chuyện bọn Ngự Long để lạc mất Lý Minh.

Bất ngờ lão Thái Úy lại quay lên tâu: “Bẩm Hoàng thượng, mấy hôm trước gia nhân nhà lão thần trông thấy Chỉ Huy Sứ lang thang ở Châu Cổ Pháp, lại trông bọn Ngự Long thị vệ toán loạn đi tìm, hẳn là đã lạc mất Chỉ Huy Sứ.”

Lão Phụng Hiểu râu mép khẽ nhếch, tay phải theo thói quen sờ vào đại đao, định một chiêu bổ đôi gã Thái Úy khốn nạn, nhưng đang buổi chầu nên lão sờ không thấy đại đao của mình, sực nhớ đã bị Cấm Quân thu mất, thành thử lão đành phải nhắm mắt khoanh tay đứng im không nói.

Đức Chính tay gõ thành ghế, ra điều suy tư, hỏi các quan: “Tây Lâm cùng Chiêm Quốc thông đồng làm loạn, tuy chưa rõ thực hư nhưng ắt có ngụy kế phía sau. Ta chưa kịp đối phó, nay lại thêm Hãn Tộc đánh Quỷ Môn Quan, ba mặt giáp địch, các vị ái khanh có chủ kế gì không?”

Bùi Linh là Thái Úy, đương nhiên lão lắm mưu nhiều kế, bèn đứng ra tâu trước: “Bẩm Hoàng Thượng, theo ngu ý của lão thần, chúng ta nên mang một lượng vàng bạc châu báu, cùng một điệp thư xin phong vương, tạm thời hòa hoãn xưng thần với Thiên Quốc, lại cho người khéo thương thuyết đi về phía Nam giáo hóa Chiêm Quốc, sóng gió ắt sẽ yên bề.”

Lê Phụng Hiểu ria mép lại giật, đứng ra tâu: “Hoàng Thượng chớ nghe lời xàm tấu mà để Việt tộc nhục nhã xưng thần, lão thần nguyện thân chinh lên phía bắc chém bọn Hãn tộc thành hai khúc.”

Lão Thái Úy tâu: “Hoàng Thượng chớ nghe Phụng Hiểu, dấy binh tốn vô số lương thảo tài vật, chưa nói tới người chết kẻ bị thương, Đại Việt chịu không thấu.”

Phụng Hiểu tâu: “Hoàng Thượng, trưởng tử nhà Thái Úy đã tới tuổi xung quân, vi thần đang cần một toán cảm tử tới Quỷ Môn Quan ngăn thiết kỵ…”

Hai bên văn võ một chốc liền lao vào cãi nhau, ngươi một tâu, ta một tấu, một bên chủ hòa, một bên chủ đánh, Đức Chính ngồi trên than thở: “Binh tướng tuy nhiều nhưng không dùng nổi một tên.”