Bữa trưa hôm đấy, Oliver mời Ambrose và Baemyn ở lại. Baemyn từ chối khéo nhưng thấy anh quá nhiệt tình, hai người đành đáp ứng.

Marthar vợ của Oliver nấu món bánh nướng rất ngon, Ambrose không thể không làm tới hai cái, mặt khác các món ăn rất vừa vặn, Oliver thật có phúc khi lấy được người vợ nấu ăn giỏi như vậy.

Công việc thỏa thuận với vợ chồng Newman đã hoàn thành từ trước bữa trưa, Ambrose thấy họ vui suýt khóc tới nơi, họ liên tục cảm ơn Ambrose, họ chưa bao giờ gặp một vị địa chủ nào tốt như cậu. Oliver cũng mời họ dùng bữa những vì còn nhiều việc phải sắp xếp lên đành phải hẹn dịp khác.

Đúng 2 giờ chiều, Ambrose cùng Baemyn và Oliver đi ra bờ biển, bà Newman chờ sẵn đón họ ở cửa trại.

Bãi biển bây giờ bị bao phủ bởi rất nhiều lều trại, trong nó như một bãi cắm trại nho nhỏ vậy, phía xa, Ambrose có thể nhìn thấy một con thuyền rất lớn, nó dài hơn 30 feet, xung quanh nó là ba chiếc cano nhỏ hơn.

Bà Newman dẫn ba người tới bên cạnh một chiếc cano, bà vừa đi vừa nói:

“Bây giờ chúng ta sẽ lên con thuyền lớn đằng kia, nó tên là Diopolo, một người bạn thân thiết của vợ chồng tôi. Cậu chủ nhà Karling, cậu không bị say sóng chứ?”

“Cháu không ạ.” Ambrose cười nhã nhặn trả lời.

“Tốt, chúng ta xuất phát.”

Nói xong, tất cả mọi người lên cano, máy khởi động, bọn họ lấy tốc độ 20 dặm một giờ đi tới chiếc Diopolo.

Vừa lên thuyền, Ambrose thấy ông Newman cùng một vài đồng sự đang bàn bạc điều gì đó. Trước mặt họ là một cái bàn bằng sắt khá rộng, bên trên phủ đầy bằng những tấm bản đồ, những bức ảnh, những tờ giấy nhít nhít là chữ.

Khi thấy Ambrose bốn người tới, họ dừng lại, ông Newman quay lại mỉm cười chào:

“Chào mừng mọi người lên Diopolo, chúng tôi đang chờ mọi các bạn đây, uống gì chứ?”

“Cảm ơn ông Newman, tôi và cậu chủ chỉ tò mò tới xem thôi, ông sắp xếp cho chúng tôi một chỗ yên vị được rồi!” Baemyn lịch sự trả lời.

“Vâng, tôi hiểu.” Ông Newman gật gật đầu, ông xoay người nói với một anh phụ tá, người này khá trẻ, chỉ khoảng hơn hai mươi.

“Jod, cậu lấy mấy thứ tôi bảo cậu chuẩn bị sẵn từ trưa tới!”

“Okay, chờ tôi một chút.” Jod trả lời, cậu cười thân thiện với Ambrose và Baemyn rồi đi vào trong khoang thuyền.

Chỉ hai phút sau, anh ta trở lại với một cái bàn nhỏ nhắn hình tròn cùng với hai cái ghế gập mini, Anh lấy trong túi bên hông ra ba chai nước khoáng, hai cái cốc, một ly kem cho trẻ em.

“Cảm ơn.” Ambrose nhận ly kem nói.

Thấy mọi chuyện đã sắp xếp xong, ông Newman nói với Oliver:

“Bây giờ ta bắt đầu, mời anh chỉ chỗ anh câu được con cá vàng…”

“Vâng, mọi người theo tôi…”

Mọi người bắt đầu làm việc, sau khi Oliver chỉ chỗ anh thường bắt cá, ba người thợ lặn bắt đầu lặn xuống đáy biển tìm kiếm.

Mọi chuyện bắt đầu không suôn sẻ lắm, sau nửa tiếng họ không tìm thấy gì, ông Newman và đồng sự quyết định mở rộng phạm vi tìm kiếm lên ba trăm mét.

Vẫn không có thứ gì đáng giá, chỉ có một ít rác thải tìm thấy, mọi người ai cũng không tỏ vẻ chán nản, dường như việc này xảy ra suốt đối với họ.

Thêm một lần nữa, lần này, họ sử dụng một thiết bị dò kim loại đặc chế, họ muốn tìm ra loại vàng đã dùng chế tạo ra con cá đó.

“Nhìn này, tôi tìm thấy thứ gì?” Kèm theo tiếng điện tử ro réo, một người thợ lặn tóc đỏ ngoi lên hét.

Thấy vậy, hai người thợ lặn khác bỏ lại vị trí tím kiếm của mình bơi nhanh về phía anh tóc đỏ. Rất nhanh, bọn họ bơi lên thuyền cùng với một cái hòm cũ kĩ bám đầy rêu và tảo biển.

Vừa nhìn thấy cái hòm, ông Newman lộ ra vẻ hơi thất vọng rõ ràng.

Nắp hòm bị vỡ một miếng to như bàn tay, rất nhanh, họ mở khóa cái hòm, bên trong có một túi nhỏ, một bọc hơi lớn bằng vải.

Ông Newman xem xét cái hòm nói:

“Cái hòm này kiểu dáng từ Thời thánh chiến, chất liệu là gỗ cây Voiioc khá phổ biến thời bấy giờ…” Rồi ông chỉ vào một đường vân nói:

“Đây, mọi người thấy những đường hình chữ S này, lớp sơn đã phai hết, ta thấy rõ đường vân gỗ đặc biệt này. Hồi đó,, những gia đình quý tộc quan niệm loại gỗ này đem lại may mắn và sự bảo vệ của cải…”

Đấy cũng chính là lý do ông Newman thất vọng, ông cho rằng mình tìm được một di chỉ cách đây một ngàn năm, không ngờ nó là một cái hòn niên đại khoảng ba, bốn trăm năm.

Họ bắt đầu gỡ mọi thứ bên trong hòm ra ngoài, cái túi đầu tiên có một vết rách khá lớn, bên trong nó đựng một lượng lớn đồ trang sức bằng vàng, giống loại của con cá vàng Oliver tìm được.

Cái bọc vải bên trong chứa đầy vũ khí, những lưỡi giáo, hai phần kiếm gãy đôi, một thứ gì đó nhọn nhọn dài dài.

Ôi trời ơi! Đây không phải là cây pháp trượng của phù thủy trắng ư… Ambrose ngạc nhiên thầm nghĩ, mấy hôm nay cậu đang lo lắng không biết bao giờ mới tìm được nó, không ngờ nó lại xuất hiện ở đây.

Ambrose cố giữ bình tĩnh và không thay đổi vẻ mặt, trong lòng cậu chỉ muốn vồ lấy cây pháp trượng ngay lập tức, cậu nói nhỏ với Baemyn:

“Bác nhìn thấy cái cây dài dài thon nhỏ kia không? Đó là cây pháp trượng của phù thủy trắng đấy ạ.”

Baemyn cũng giật mình, nhưng với thâm niên nhiều năm trong nghề, ông rất nhanh lấy lại tinh thần, ông tia mắt nhìn về cây pháp trượng. Nó có vẻ được phù phép để luôn giữ sạch sẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi thời gian giống một số tác phẩm do thợ rèn kiệt xuất yêu tinh tạo ra.

Mọi người xung quanh cũng chú ý tới cây pháp trượng, một người nói:

“Thật kì lạ, đây là thứ gì sao nó lại không bị tảo hay rêu kí sinh, nó trông quá mới so với những thứ khác.”

Ông Newman nghe vậy cũng tiến tới, ông cẩn thận cần cây pháp trượng lên, trầm ngâm nói:

“Ngày trước, có một số nhà khoa học tự xưng là nhà luyện kim, tay nghề của họ vô cùng khéo léo, họ làm ra những đồ trang sức có thể chống được bụi, đây có lẽ là một trong những tuyệt tác đó...”

“Ba năm trước, chúng ta có khai quật được một chiếc nhẫn Saphia vô cùng tinh xảo, nó đặt trong túi của một tên cướp biển gần đảo Hololu. Nó cũng không nhiễm một hạt bụi nào.” Bà Newman bổ sung.

“Đúng nha.” Ông Newman vỗ đầu nhớ ra. “Cảm ơn em, Sarah, anh suýt quên mất.”

“Mặt khác, đây giống như một cây quyền trượng của những vị vua chúa trung cổ, nhưng những họa tiết này không giống lắm, em chưa từng thấy chúng bao giờ…”

“Anh cũng thế, hay chúng ta tìm thấy di vật của một triều đại mất tích… Alantic, Harappa, Anasazi, …” Ông Newman lạc quan nghĩ.

Đột nhiên, một người nói:

“Xem này, tôi dường như tìm thấy một quả trứng hóa thạch…”

Mọi người đề nghiêng đầu nhìn sang, một người phụ tá đang chỉ một cục tròn tròn, sần sùi.

Chính lúc đó, giọng Dues lóe lên trong đầu Ambrose:

“Ambrose, lấy thứ đó, nó là một quả trứng Phượng hoàng…”

“Cái gì…” Ambrose bất ngờ thốt lên một tiếng, cậu nhận ra rồi nhanh chóng che miệng lại, cậu nhìn xung quanh, may là mọi người đều đang chú ý quả trứng phượng hoàng, không ai để ý cậu.

Ambrose nhìn lại thứ sần sùi xấu xí một lần nữa, thật không ngờ đó lại là một quả trứng phượng hoàng, trong sách viết là phượng hoàng bất tử, chúng chết đi rồi lại hồi sinh trong đống tro tàn, không có một cuốn sách nào đề cập tới việc chúng có khả năng đẻ trứng hay sinh sản đời sau cả.

Những chủ nhân của phượng hoàng - đều là những phù thủy vĩ đại - cũng không biết nhiều về giống loài này, chúng chỉ đến làm bạn rồi lại rời đi khi họ chết, người ta không biết được có tất cả bao nhiêu phượng hoàng trên thế giới, hoặc rất có thể chỉ có một con duy nhất (không có bất kì ghi chép nào cho thấy 2 chủ nhân phượng hoàng xuất hiện cùng một thời đại)